Trích đăng

Chương 1 “Bẻ khóa sinh học trong 90 ngày” – Đóng lại khoảng hở trong nhân cách

Published

on

Mệt mỏi và trầm cảm, Ben Angel quyết định bỏ ra 90 ngày đi tìm nguồn cơn của những triệu chứng tinh thần nhằm giải quyết chúng một cách triệt để. Theo tác giả, phần lớn sách về self-help đều tập trung giải quyết các vấn đề tâm lý, tinh thần hoặc thái độ, trong khi nguyên nhân lại nằm ở khía cạnh hóa sinh của cơ thể. Ben Angel đề cập đến việc “biohack” cơ thể và tâm trí, thông qua một chương trình dinh dưỡng phù hợp, kết hợp thiền tập, đồng thời áp dụng những thiết bị kỹ thuật hiện đại. Nếu cơ thể được bẻ khóa sinh học đúng cách, vấn đề tâm lý sẽ được giải quyết, từ đó con người phá được thói quen xấu, tạo được thói quen tốt, giải quyết được tâm bệnh, có được năng lượng mới và đạt được hiệu quả mong muốn trong cuộc sống và công việc.

Trích từ: Bẻ khóa sinh học trong 90 ngày

Tác giả: Ben Angel

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Tái bản: tháng 9.2020

*

CHƯƠNG 1
Một sự chuyển đổi mô hình trong nhiều thập kỷ: Đóng lại khoảng hở trong nhân cách

Đang trên bờ vực suy sụp thần kinh, bắt đầu có ý nghĩ tự tử, không còn chỗ nào bấu víu, cuộc sống của tôi tại thời điểm đó hoàn toàn là một lời nói dối. Tôi được quảng cáo là “Người gây ảnh hưởng” đến hàng trăm ngàn doanh nhân và công ty, vậy mà tôi thậm chí không thể tạo động lực cho bản thân hướng tới mục tiêu tiếp theo. Tôi giận dữ.

Ước mơ của tôi là chuyển đến New York và tiếp tục sự nghiệp viết lách. Đã bao nhiêu lần tôi hình dung về mục tiêu này. Tôi tưởng tượng cảnh mình đi dạo trên những con đường thành phố náo nhiệt, đi đến quán cà-phê và nhà hàng, và, vâng, thậm chí có khoảnh khắc sến súa y như nhân vật nữ chính Carrie Bradshaw trong loạt phim Sex and the City, tư lự ngồi viết bài bên cửa sổ một ngôi nhà phố cổ điển đắt tiền ở New York (Độc giả đừng phán xét tôi nhé!). Tuy nhiên, không biết vì lý do gì, tôi thậm chí không dám nhìn vào danh sách việc cần làm; thật quá sức. Tôi đang nhanh chóng trở thành kẻ hết thời, đó là những gì mà những người trong ngành này nhìn nhận. Ước mơ của tôi ngày càng xa tầm với, và việc tôi cố gắng thuyết phục bản thân rằng mình vẫn ổn chẳng có nghĩa lý gì nữa. Sự thật là tôi không ổn, nhưng không ai trả lời cho tôi biết tại sao.

Có lẽ bạn hiểu được điều tôi nói. Bạn biết mình có khả năng, nhưng vì lý do nào đó bạn không thể mở khóa tài năng này, thể hiện nó triệt để bằng mục đích, tầm nhìn và mục tiêu của bạn. Bạn luôn cảm thấy ước mơ của mình ngoài tầm với. Và dù có cố gắng nắm lấy nó bao nhiêu, giấc mơ đó vẫn luôn tuột qua tay bạn. Bạn cố gắng thuyết phục bản thân rằng sẽ dậy sớm hơn, làm việc chăm chỉ hơn và làm bất cứ điều gì cần thiết để đạt được mục tiêu của mình, nhưng hết lần này đến lần khác, bạn thất bại. Chúng ta là như vậy sao? Có phải chỉ vì chúng ta có thái độ kém? Chúng ta chỉ cần cứng rắn lên? Những người siêu thành công đang làm điều gì mà chúng ta không làm được? Tôi đã làm theo chiến lược của họ, nhưng tôi không nhận được kết quả giống họ. Tại sao?

Chúng ta được dạy rằng để hết buồn thì cần suy nghĩ tích cực lên. Nếu tức giận, bạn cần tìm sự bình yên. Nếu bạn hay trì hoãn, bạn là kẻ lười biếng. Nếu bạn kiếm cớ, bạn yếu đuối. Mọi thứ đều ở trong đầu bạn thôi. Hãy cầm lấy một quyển sách dạy cách tự lực và vượt lên chính mình đi.

Hoặc nếu đến chỗ bác sĩ để phàn nàn về các triệu chứng tương tự, bạn sẽ được chẩn đoán y khoa là bị trầm cảm và được kê đơn thuốc chống trầm cảm để khắc phục sự mất cân bằng hóa học trong não bộ. Ngay cả khi đó, do những hạn chế trong đào tạo, thái độ và thời gian của mình, bác sĩ cũng không thể dành thời gian để tìm hiểu nguyên nhân sự xuống dốc của bạn.

Tệ hơn là ngành công nghiệp sách tự lực cũng nhìn vào cùng những triệu chứng này, và họ tin rằng tiêm cho bạn một liều động lực và một câu chuyện truyền cảm hứng sẽ chữa được cho bạn. Những quyển sách đó cũng không quan tâm đến việc tìm ra nguyên nhân gốc rễ.

Nhận thức này khiến tôi phải đặt câu hỏi: Nếu đây là những triệu chứng của tôi, vậy nguyên nhân đằng sau đó là gì?

Tất cả chúng ta đều trải qua những thất bại ở các mức độ khác nhau trong suốt cuộc đời của mình, một số người gặp những thất bại lớn hơn người khác. Trong một cuộc khảo sát trực tuyến qua Facebook vào năm 2018 mà nhóm của tôi đã thực hiện với 2.000 doanh nhân trên khắp thế giới, chúng tôi đã có những phát hiện sau:

  • 75% từng bị chứng “sương mù não” hay chứng đờ đẫn, mất tập trung.
  • 82% cũng hay trì hoãn.
  • 82% dễ bị phân tâm.
  • 65% dễ cảm thấy quá tải.
  • 71% trải qua mức độ căng thẳng cao.
  • 58% không cảm thấy sảng khoái khi thức dậy buổi sáng.
  • 47% cảm thấy buồn bã.
  • 62% có năng lượng lên xuống thất thường trong suốt cả ngày.
  • 65% mắc kẹt trong những suy nghĩ tiêu cực.

Những con số này đáng kinh ngạc ở chỗ chúng chứng minh một tỷ lệ lớn trong những người này đều gặp phải các triệu chứng có thể liên quan đến trầm cảm. Mà những đối tượng cụ thể này, hầu hết là những người có động lực cao, những người say sưa với mục tiêu của họ và tham gia vào một lực lượng lao động gồm những con người năng động, có tầm ảnh hưởng trong thế giới kinh doanh, ấy vậy mà một lượng lớn những người này lại không hoàn toàn vui vẻ khi nói đến sức khỏe tinh thần của mình. Do những nhân tố sinh học, bao nhiêu người trong số họ sẽ kiệt sức trước khi có thể đạt được giấc mơ của mình?

Bằng cách xem xét kỹ hơn, chúng ta có thể thấy rằng có một nguyên nhân cơ bản gây ra các triệu chứng này. Tôi tin chắc rằng chúng ta có thể tự chữa khỏi “căn bệnh” khỏe mạnh ảo tưởng này. Đặc biệt là tại Hoa Kỳ, chúng ta đang chứng kiến việc sử dụng thuốc tràn lan nhằm chữa trị các triệu chứng này và ngành y tế chưa sẵn sàng thay các đơn thuốc bằng những bảng câu hỏi để khám phá nguyên nhân gốc rễ cho sự tuột dốc tinh thần của chúng ta.

Thu hẹp khoảng cách với con người thật của mình

Câu chuyện của tôi không phải là ngoại lệ của quy tắc; đó là quy tắc. Đây là tất cả các triệu chứng thể hiện ra ngoài của một vấn đề cơ bản ẩn bên dưới, một vấn đề đã bị ngành công nghiệp phát triển bản thân và ngành y tế hoàn toàn ngó lơ.

Giống như con ếch chết dần khi được cho vào nước ấm sau đó đun sôi dần dần, chúng ta cũng sẽ thích nghi với sự đau khổ của mình mà không nhận thức được cho đến khi các triệu chứng nghiêm trọng xuất hiện và cần phải can thiệp y tế. Và đến lúc đó, ta lo đi chữa bằng một biện pháp quyết liệt nào đó, thay vì sử dụng một biện pháp mang tính phòng ngừa ngay từ đầu.

Tất cả các triệu chứng này làm đầu óc ta giảm khả năng xử lý thông tin mới, gây ra hậu quả nguy hiểm khi nói đến việc thu hẹp khoảng hở nhân cách giữa bản thân hiện tại của chúng ta với người mà chúng ta cần trở thành để đạt được mục tiêu. Cụ thể, nó giới hạn niềm tin của ta về bản thân, giới hạn khả năng nhận thức cần thiết để hiện thực hóa những viễn cảnh ta tưởng tượng về cuộc sống của mình. Ngay cả khi những triệu chứng này chỉ ở thể nhẹ, chúng vẫn có thể khiến chúng ta lâm vào tình trạng tồi tệ nhất.

Mãi cho đến khi gặp một bác sĩ tại thành phố nông thôn Dubbo ở New South Wales, Úc, sau buổi nói chuyện với điệu bộ trịch thượng của người bác sĩ này thì lần đầu tiên tôi mới mở mắt.

Nhìn vào câu hỏi hóc búa

Tôi không mệt mỏi vì tôi bị trầm cảm; mà tôi trầm cảm vì tôi mệt mỏi. Tôi muốn biết tại sao tôi mệt mỏi! Bị trầm cảm do mệt mỏi là điều đầu tiên trong nhiều phát hiện giúp tôi khám phá ra giải pháp, không chỉ giải pháp cho các triệu chứng của tôi, mà còn là giải pháp để đạt được mục tiêu và viết lại mô hình thành công đi từ nền tảng. Nếu tôi có thể khám phá lý do tại sao tôi mệt mỏi, tại sao tôi lại kiếm cớ và chần chừ, mọi thứ khác sẽ quay lại đâu vào đó. Cuối cùng tôi sẽ lại có được động lực của mình, thôi kiếm cớ, và thắp lên lại nguồn năng lượng và niềm đam mê cho các dự án tôi từng yêu thích.

Giống như hàng triệu người khác, lúc bắt đầu tôi bị các triệu chứng nhẹ mà tôi nhanh chóng quy kết là do làm việc quá sức, thái độ tinh thần yếu đuối hoặc thức khuya và căng thẳng với những thời hạn sít sao. Tôi đã tán thành triết lý “cứ làm đi” mà không nhận thức được đầy đủ về hậu quả khi làm theo triết lý đó.

Khi lực bất tòng tâm, cơ thể không thể hoàn thành nhiệm vụ mà linh hồn đặt ra. Linh hồn thì lúc nào cũng sẵn sàng, sẵn lòng. Mặc dù đã đọc vô số sách tự lực, tham dự nhiều hội thảo, và đắm mình trong các chiến lược tạo động lực cho bản thân trong suốt 15 năm qua nhưng rốt cuộc tôi nhận ra rằng những thông tin mình có không hề đầy đủ.

Chúng ta đã được dạy rằng tâm lý của mình là chìa khóa số một để thành công; các chức năng sinh hóa của chúng ta không được đề cập đến trừ khi bạn là một vận động viên ưu tú hoặc gặp các triệu chứng thể chất nghiêm trọng mà ai cũng thấy. Nhưng ngay cả các vấn đề sinh hóa nhẹ cũng có thể ngăn cản bạn đạt được mục tiêu của mình.

Lập kế hoạch chiến lược, chuẩn bị tinh thần và ý chí là điều cần thiết để có được khả năng suy nghĩ và cạnh tranh trong công việc và cuộc sống. Những yếu tố này có thể giúp ta trở thành một đối thủ mạnh. Tuy nhiên, các cơ chế hóa sinh, những chức năng tạo ra sức bền và khả năng chịu đựng của một người, chính là thứ tạo ra vận tốc đạt tới thành công.

Chúng ta có xu hướng tự động cho rằng mình cũng có cơ chế sinh hóa ngang bằng với diễn giả Tony Robbins, doanh nhân Richard Branson, Đức Đạt Lai Lạt Ma hay những người đỉnh cao khác. Nhưng chúng ta không biết nhiều người trong số đó tích cực làm việc để nâng cao cơ chế sinh hóa của mình. Những người khác, thông qua sự kết hợp của các yếu tố mà chúng ta sẽ nói trong cuốn sách này, đã gặp may mắn; cơ chế sinh hóa của họ tự nhiên làm cho họ ít bị căng thẳng, đờ đẫn và buồn bã, giúp dọn đường cho sự thành công của họ.

Điều đó không có nghĩa là họ không trải qua những tình trạng này; họ có bị chứ nhưng ở những mức độ nhẹ hơn, kiểm soát được. Cũng không phải để nói rằng họ không làm việc chăm chỉ; chỉ là với họ không quá khó khăn như những người khác vì họ có cơ chế sinh hóa ổn định hơn, đây là một nền tảng vững chắc để từ đó mọi thứ khác có thể phát triển.

Chúng ta bắt chước chiến lược của họ. Chúng ta muốn biết họ thức dậy mấy giờ, họ ăn gì, họ nghĩ như thế nào, niềm tin cốt lõi và thói quen đọc sách của họ là gì, nhưng không một giây nào chúng ta nhìn ra một điều: mỗi người là một hệ thống sinh hóa độc nhất vô nhị không ai giống ai. Mỗi người chúng ta xử lý thức ăn, suy nghĩ và cảm xúc rất khác nhau do nhiều yếu tố – các yếu tố mà chúng ta bỏ qua trong quá trình tìm kiếm thành công cá nhân, trừ khi một trong những mục tiêu của chúng ta là giảm cân.

Bất cứ ai cũng có thể áp dụng các nguyên tắc tâm lý giống như những người siêu thành công, nhưng nếu bạn bị suy giảm nghiêm trọng những thứ như vitamin D, omega-3, vitamin C, vitamin B12, dopamine, serotonin hoặc thậm chí là testosterone (cả ở phụ nữ và nam giới), bạn có thể bị đờ đẫn từ nhẹ đến nặng, mệt mỏi, thờ ơ, lo lắng, căng thẳng và trầm cảm, tất cả những điều này sẽ cản trở nghiêm trọng khả năng duy trì sự tập trung và đạt được mục tiêu của bạn. Nó giống như trồng cây trong đất độc hại rồi lại mong nó lớn lên được. Bất kể bạn có nói với nó là nó có khả năng làm được mọi điều thì cái cây xui xẻo đó kiểu gì cũng sẽ chết mà thôi!

Sự thiếu hiểu biết về cơ chế hóa sinh làm suy yếu các nguyên tắc tâm lý mà chúng ta được dạy để áp dụng. Đó là yếu tố vô hình làm chúng ta trật đường ray, một bàn tay vô hình giữ bạn lại không cho vượt qua vạch đích. Không có thông tin này, bất kỳ chiến lược nâng cao năng suất và hiệu suất nào cũng không đầy đủ và không hiệu quả.

Thay vì nhận ra cơ chế hóa sinh bất ổn của mình, chúng ta gắn một trạng thái tinh thần cảm xúc tiêu cực vào các mục tiêu của mình và tự quyết định mục tiêu đó là quá khó hoặc quá cao. Rốt cuộc chúng ta tự hình thành những suy nghĩ thối chí, chẳng hạn như “Tôi quá mệt mỏi”, “Tôi không có thời gian cho việc này”, “Làm điều đó rồi được gì?” hay “Tôi căng thẳng quá”. Để tránh viễn cảnh đó, có lẽ chúng ta nên tự hỏi bản thân một vài câu:

  • Điều gì sẽ xảy ra nếu thay vì chỉ nghiên cứu thói quen của những người thành công, những bộ óc sáng tạo nhất, những tư tưởng triệu đô, chúng ta dành tâm sức đó để soạn một cơ sở dữ liệu y tế của họ để kiểm tra mức serotonin, dopamine và cơ cấu hệ vi sinh vật cơ thể của họ và so sánh với những người thường xuyên bỏ cuộc, kiếm cớ hoặc trải nghiệm những cảm xúc tiêu cực dữ dội hơn?
  • Liệu cơ chế hóa sinh kém có ảnh hưởng đến khả năng của họ, ngăn họ về đích? Những mức độ sinh hóa này có ảnh hưởng đến khả năng của những người thành công cao để giúp họ vượt qua những thất bại và cán đích? Những quá trình sinh học này có giúp chúng ta hiểu đúng, hiểu đầy đủ tại sao những người thành công lại cư xử theo một cách cụ thể nào đó chứ không chỉ dựa trên thái độ tinh thần và giáo dục?
  • Giả sử một người suy giảm mức độ dopamine và serotonin, hành vi của họ sẽ thay đổi như thế nào?
  • Liệu một người thành công, tự tin có thể bị mất khả năng về thể chất và tinh thần nếu thiếu hụt dinh dưỡng?
  • Nếu nhìn vào mức độ sinh hóa khi họ gặp phải một trở ngại lớn, chúng ta sẽ khám phá ra điều gì?
  • Bằng việc xem xét các khía cạnh khác của cuộc sống khi một người gặp một trở ngại lớn về thể chất và cảm xúc, chúng ta sẽ tìm thấy gì? Họ đã ăn gì vào thời điểm đó? Hành vi của họ đã thay đổi như thế nào? Điều gì xảy ra trong cơ thể chứ không chỉ trong thái độ của họ?

(Tất nhiên ở đây ta đang bỏ qua những nan giải về đạo đức khi thu thập một cơ sở dữ liệu như vậy; những câu hỏi này hoàn toàn là giả thiết.) Lần duy nhất chúng ta xem xét cơ chế hóa sinh là khi chúng ta suy nhược hoặc cố gắng giảm cân, chứ không phải khi chúng ta cố gắng trở thành một phiên bản tốt hơn của chính mình. Khi không đạt được mục tiêu của mình, điều đó ngụ ý rằng chúng ta có một thái độ tinh thần yếu đuối chứ không phải một điểm yếu sinh hóa có thể nhanh chóng được khắc phục nếu có sự giúp đỡ đúng đắn. Quá trình cải biến cá nhân đúng đắn đòi hỏi thay đổi ở cả mặt sinh hóa lẫn tâm lý mới có thể duy trì được sự thay đổi đó về lâu dài. Nếu không, chúng ta sẽ quay trở lại ngay với những gì dễ dàng.

Khi tâm trí yếu đuối, bạn sẽ chẳng làm được việc gì ra hồn. Một phát hiện trong cuộc khảo sát 2.000 doanh nhân khiến chúng tôi khá bất ngờ, nhưng khi nhìn lại thì rõ ràng: 57 đến 65% những người bị “sương mù não” hay đờ đẫn là những người dễ bị phân tâm, thường trì hoãn, mất đi dòng suy nghĩ, cảm thấy quá tải và buồn bã, và cũng cảm thấy thèm ăn. Đây là một yếu tố sinh hóa chính yếu giải thích tại sao họ dễ đi chệch hướng và tại sao họ có xu hướng bỏ cuộc. Khám phá này càng khiến tôi tin rằng thành công không chỉ ở trong tâm trí hay cơ thể; nó ở trong cả hai nơi.

Để thực sự thành công có nghĩa là không chỉ bẻ khóa tâm trí mà còn phải bẻ khóa cả cơ chế hóa sinh của bản thân nữa. Nhìn nhận câu hỏi hóc búa này từ một quan điểm mới đã thách thức mọi thứ tôi từng tin về sự tự lực. Tôi, cũng như những người khác, đã bị thuyết phục rằng mình có thể dùng ý chí để thoát khỏi những lý do, sự trì hoãn, sự đờ đẫn, suy nghĩ tiêu cực và nỗi buồn, nhưng khi bị trầm cảm bạn lại cần uống thuốc.

Nhưng nếu điều đó không đúng thì sao?

Tâm lý đóng vai trò như thế nào trong thành công của bạn, còn cơ chế sinh hóa đóng vai trò bao nhiêu?

Thực tế là bạn không thể sử dụng khả năng tinh thần để bù đắp cho một cơ chế sinh hóa yếu kém. Tinh thần tốt có thể hỗ trợ, nhưng nếu không hiểu và giải quyết được các vấn đề tiềm ẩn, bạn sẽ tiếp tục tránh né và trì hoãn. Những hoạt động thực hành phát triển cá nhân của bạn sẽ chỉ có hiệu quả khi cơ chế hóa sinh của bạn hoạt động với hiệu quả cao nhất và hỗ trợ cơ thể bạn hoạt động ở mức tối đa.

Cách tiếp cận mới đối với các vấn đề cũ

Bạn giải quyết vấn đề gì trước tiên, tâm lý hay sinh lý của mình? Trước đây, chúng ta sẽ chọn một cuốn sách tự lực hoặc tìm kiếm một nhà trị liệu, người có thể hoặc không thể giải quyết sự thiếu hụt dinh dưỡng của chúng ta.

Nếu là một thập kỷ trước, cách này có thể hiệu quả, vì đó là trước khi có những thay đổi lớn diễn ra trong môi trường và nguồn cung thực phẩm, trước khi ô nhiễm ánh sáng và tác động tâm lý của phương tiện truyền thông xã hội bắt đầu ảnh hưởng đến hành vi hàng ngày của chúng ta. Tuy nhiên, bộ não thời tiền sử của chúng ta đã không bắt kịp những tiến bộ công nghệ ngày nay; hệ thống sinh hóa của chúng ta bị mắc kẹt trong quá khứ tiến hóa. Do đó, chúng ta dán mắt vào màn hình máy tính, điện thoại và máy tính xách tay 24/7, và việc nghiện công nghệ này đang có tác động sâu sắc đến cách chúng ta cư xử.

Các nghiên cứu cho thấy các công ty phát triển ứng dụng và mạng xã hội đang sử dụng công nghệ của họ để tạo ra những nền tảng gây nghiện mà chúng ta vô tình phải trả giá.[1] Họ sử dụng những biểu tượng cảm xúc dễ thương và theo dõi số lần chúng ta sử dụng ứng dụng của họ, do đó tạo ra thói quen truyền thông xã hội gây nghiện. Những thói quen này thỏa mãn người dùng, tạo ra cho họ nhu cầu phải lặp lại hành vi đó một lần nữa để có được niềm vui thích ngắn ngủi như thế. Facebook đúng là đã tấn công một trong những chất dẫn truyền thần kinh của chúng ta, dopamine, để thu lợi tài chính. Dopamine, hay còn được gọi là “hormone khen thưởng” do nó chịu trách nhiệm về hệ thống khen-thưởng-gợi-cảm-giáchài-lòng (pleasure-reward system) của não bộ, mang lại cho chúng ta động lực và sự tập trung mà chúng ta cần để làm việc hiệu quả. Thật không may, chúng ta luôn luôn không nhận thức rằng điều này đang xảy ra, cho đến khi chúng ta cảm thấy nó ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác trong cuộc sống.

Dopamine là thành tố quan trọng tham gia vào nhiều chức năng khác nhau của não bộ, liên quan đến giấc ngủ, học tập, điều khiển vận động, trí nhớ làm việc, khả năng tập trung và chú ý.[2] Trong phổ nồng độ dopamine từ thấp tới cao, các bệnh như Parkinson, rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) và các tình trạng bệnh khác nằm ở phân cực nồng độ dopamine thấp. Nói cách khác, nghiện mạng xã hội có phải là kết quả của mức độ dopamine thấp hơn do tình trạng căng thẳng và thế giới hiện đại mà chúng ta đang sống? Những lời bào chữa, tính chần chừ và tình trạng đờ đẫn là những triệu chứng có thể do mức độ thiếu hụt dopamine gây ra, chứ chúng không phải là nguyên nhân gây thiếu dopamine.

Bạn không phải là một người giống như trong những cái cớ bạn đưa ra; cái nguyên cớ đúng lý ở đây chính là cơ chế hóa sinh của bạn.


Đó chính là khi một tia sáng chói lóa giúp tôi nhận ra: Những lời bào chữa của tôi, những suy nghĩ tiêu cực, sự thiếu động lực và tinh thần không chỉ đơn giản là kết quả của một thái độ tinh thần yếu đuối. Vấn đề nằm ở sự thiếu hụt chất dẫn truyền thần kinh kết hợp với nhiều yếu tố khác. Vốn dĩ không ai là không xứng đáng, vô dụng hoặc yếu đuối; tất cả chúng ta luôn thay đổi trong suốt cuộc đời của mình. Cuộc sống, như bạn sẽ tìm hiểu trong suốt cuốn sách này, không phải là một thử nghiệm có kiểm soát. Suy nghĩ tích cực không thể thay thế cho sự thiếu hụt dinh dưỡng. Thật không may, chúng ta không liên kết các triệu chứng mơ hồ như lòng tự trọng thấp, tức giận, cơn thèm carbohydrate, rối loạn tiêu hóa, cảm thấy quá tải, mất ngủ, không vui, đờ đẫn, chức năng nhận thức kém với mức độ serotonin thấp. Thay vào đó, chúng ta tự hành hạ bản thân vì không giỏi được như những người khác.[3]

Khi nghĩ đến điều đó, liệu cơ chế hóa học bên trong có phải là yếu tố kích hoạt sự trì hoãn, sợ hãi, lo lắng, muốn bỏ cuộc không? Trong quá khứ, tôi đã từng trải nghiệm những điều này nhưng chúng chỉ thoáng qua và luôn lắng xuống. Còn lần này chúng đã cắm rễ, tôi phải đào lên. Câu trả lời ngắn gọn là một tiếng CÓ vang vọng.

“Chẩn đoán” sự thất bại

Vấn đề lớn nhất với cách tiếp cận cũ về thành công là nó không thể thu hẹp khoảng cách giữa cơ chế hóa sinh và tâm lý học. Cả hai hòa quyện đến mức không thể tách rời, tuy nhiên hệ thống y tế của chúng ta, lĩnh vực phát triển cá nhân, nhà tâm lý học, những người tin tưởng liệu pháp chữa bệnh tự nhiên, các chuyên gia dinh dưỡng và nhà trị liệu đã phân tách các phương pháp của họ trong nhiều thập kỷ, dẫn đến việc tâm lý học được nhấn mạnh hơn sinh hóa hoặc ngược lại chứ không kết hợp cả hai.

Sự tiến hóa thực sự sẽ xảy ra khi chúng ta có sự hội tụ của tất cả các ngành y học. Điều này đang bắt đầu xảy ra trong lĩnh vực dược chức năng, và nó sẽ cách mạng hóa việc chăm sóc sức khỏe và cách chúng ta nghĩ về bản thân, về khoa học của sự thành công. Nhưng trước khi nói về thành công, hãy nói về thất bại.

Tại sao chúng ta thực sự thất bại

Thất bại không chỉ do mức độ dopamine thấp. Đó còn là vấn đề làm chủ phản ứng “chiến đấu hay trốn chạy” của chúng ta. Khi chúng ta bị căng thẳng, hệ thống thần kinh soma của cơ thể (hệ thần kinh thân thể) sẽ kích hoạt phản ứng chiến đấu hoặc trốn chạy. Cơ thể rơi vào trạng thái tập trung cao độ và dồn các nguồn năng lượng của nó vào việc chống lại mối đe dọa hoặc chạy trốn khỏi kẻ thù.

Phản ứng chiến đấu hay trốn chạy giải phóng các hormone adrenaline và cortisol, tạo ra một loạt các quá trình bên trong, bao gồm hô hấp nhanh, tim đập nhanh và mạch máu giãn ra ở tay và chân, kích hoạt hệ thống tiêu hóa tăng mức đường huyết để đối phó với tình huống khẩn cấp. Một khi tình trạng khẩn cấp kết thúc, mọi thứ trở lại bình thường.[4]

Tuy nhiên, nếu điều này tiếp tục trong một thời gian dài, căng thẳng mãn tính có thể gây ra các vấn đề từ suy giảm nhận thức và mất ổn định cảm xúc cho tới bệnh tật thể chất. Các triệu chứng cảm xúc bao gồm kích động, ủ rũ, cảm thấy quá tải, không có khả năng thư giãn, lòng tự trọng thấp, cảm giác vô dụng, trầm cảm và cô lập. Các triệu chứng thể chất có thể bao gồm đau đầu, năng lượng thấp, đau dạ dày, căng cơ, đau ngực, mất ngủ, cảm lạnh và nhiễm trùng, mất ham muốn, hồi hộp, run rẩy hoặc khó nuốt. Căng thẳng cũng có thể dẫn đến các triệu chứng nhận thức: suy nghĩ lướt qua nhanh, hay quên, vô tổ chức, không có khả năng tập trung, đờ đẫn, phán đoán kém, bi quan và lo lắng liên tục.[5]

Căng thẳng, thèm ăn và không có khả năng tập trung vào những gì quan trọng

Căng thẳng có tác động rất lớn. Một tỷ lệ đáng kinh ngạc 71% trong số 2.000 người được hỏi cho biết họ đã trải qua mức độ căng thẳng cao, và điểm thú vị là: Căng thẳng gây ra cảm giác thèm ăn, đặc biệt thèm đường và thực phẩm chế biến nhiều lần. Quá trình tiêu hóa loại thực phẩm này giải phóng chất dẫn truyền thần kinh serotonin, mang lại cho chúng ta làn sóng bình tĩnh và thư giãn, cho phép chúng ta lấy lại sự tập trung tạm thời, cho đến khi mức serotonin giảm dần.

Từ 57 đến 65% số người đang bị đờ đẫn, cảm thấy choáng ngợp, lo lắng và buồn bã cũng trải qua cảm giác thèm ăn.

Cảm giác thèm ăn carbohydrate có thể là do mức serotonin thấp vì loại “hormone hạnh phúc” này được tiết ra trong quá trình tiêu hóa thức ăn. Điều này dẫn đến một vòng luẩn quẩn khi người ta tiêu thụ lượng carbohydrate quá mức nhằm cảm thấy vui vẻ hơn. Những cảm giác thèm ăn này thường thấy ở những cá nhân phải chịu mức độ căng thẳng cao.[6]

Mối liên hệ với việc chúng ta không có khả năng thành công nằm ở hai yếu tố đang diễn ra hàng ngày. Khi cảm thấy thèm ăn hoặc căng thẳng, phản ứng chiến đấu hay trốn chạy của chúng ta được kích hoạt lên. Quá trình này dẫn máu ra khỏi vỏ não trước, nơi điều khiển vô số chức năng điều hành, bao gồm các hành vi phức tạp như phối hợp, kiểm soát xung lực, phản ứng cảm xúc, tính cách, tập trung, tổ chức, lập kế hoạch phức tạp và ưu tiên thông tin đồng thời.[7]

Điều này tạo ra một vòng luẩn quẩn khó chịu: Lượng đường trong máu của chúng ta giảm, cảm giác thèm ăn của chúng ta tăng lên và lượng cortisol tăng, làm hạn chế khả năng kiểm soát các xung động, sự chú ý và phản ứng cảm xúc của chúng ta. Chúng ta tìm đến carbohydrate ngọt hoặc tinh chế cao và lượng đường trong máu tăng lên, sau đó là sự sụt giảm đột ngột, dẫn đến sự đờ đẫn, không thể tập trung, mất động lực, mất khả năng đạt được mục tiêu.

Chúng ta cố gắng giải quyết vòng luẩn quẩn này ở con cái bằng cách hạn chế lượng đường của chúng, nhưng lại không kiểm soát nó vì sức khỏe tâm lý của chính mình. Chúng ta cũng đã bị bịt mắt bởi các công ty nói rằng họ đang đưa “nhân tố lành mạnh” vào sản phẩm, mặc dù nhiều sản phẩm trong số đó có nhiều đường, chất làm ngọt nhân tạo sucralose, carbohydrate tinh chế, caffeine và chất bảo quản, tất cả đều ảnh hưởng đến khả năng suy nghĩ thông suốt của chúng ta.

Khi lượng đường trong máu của bạn giảm hoặc bạn gặp phải mức độ căng thẳng cao, não của bạn sẽ chuyển sang chế độ sinh tồn, thúc đẩy bạn liều lĩnh hơn và đưa bộ não nguyên thủy của bạn vào trạng thái hưng phấn kích thích cao độ. Sự thay đổi này khiến tính cách, tâm trạng và bản sắc của bạn dao động suốt cả ngày. Động lực của bạn có thể cao vào buổi sáng, nhưng vào buổi chiều, bạn thà ngồi trên ghế và xem tivi còn hơn vì bạn đã sử dụng hết khả năng tinh thần của mình trong ngày.

Trong trạng thái nguyên thủy này, mục đích chính của bộ não là duy trì sự sống chứ không phải để khiến bạn tập trung vào việc đạt được mục tiêu của mình. Não bộ thậm chí còn không xếp việc “đạt được mục tiêu” vào danh sách các chức năng quan trọng cần thiết để duy trì cuộc sống. Trong trạng thái này, còn được gọi là chế độ tự bảo tồn, não bộ mặc định duy trì hiện trạng của bạn chứ không làm thêm gì khác.

Vấn đề là hầu hết chúng ta không thể tắt chế độ này đi, hoặc nếu chúng ta làm vậy, nó sẽ nhanh chóng quay trở lại sau đó, tạo ra một chuyến tàu lượn đầy cung bậc cảm xúc và cảm giác bất lực không thể hoàn thành các dự án đúng hạn. Sự xáo trộn cảm xúc này dễ dàng diễn ra như vậy là do ảnh hưởng trực tiếp của quá trình chúng ta học cách xử lý các mối đe dọa tiềm tàng. Quá trình đó dựa trên nhiều yếu tố như giáo dục, di truyền và cả mức độ các hormone như serotonin và dopamine. Nếu mức serotonin hoặc dopamine của bạn thấp, bạn sẽ khó đương đầu với những thất bại, và nhiều khả năng có tâm thế thụ động thay vì chủ động.

Ngày qua ngày, lối sống hiện tại tàn phá chúng ta bằng các yếu tố căng thẳng, bắt đầu từ một yếu tố nhỏ nào đó tưởng chừng vô hại. Ví dụ về các yếu tố căng thẳng này có thể là phản ứng với thực phẩm không lành mạnh, dị ứng, tin xấu, mất ngủ, ô nhiễm, đồng nghiệp thù địch, căng thẳng tài chính, quá nhiều caffeine, xung đột trong các mối quan hệ, vấn đề gia đình, căng thẳng liên tục hoặc đơn giản là ai đó trên đường nhìn bạn đầy soi mói. Sự căng thẳng bắt đầu tăng tốc và kết quả là các vấn đề khác xuất hiện. Quá trình này xảy ra chậm đến mức ban đầu chúng ta không nhận ra cho đến khi mọi nỗ lực thoát ra đều trở nên vô ích vì các chức năng nhận thức của chúng ta đã bị vô hiệu hóa; nó giống như đi tìm chìa khóa trong một căn phòng tắt đèn tối om vậy.

Để tìm ra công tắc bật đèn, chúng ta phải thay đổi nhân cách và nguồn nhiên liệu, ngay cả khi chỉ trong chốc lát, để khởi động lại tinh thần, cơ thể và tâm trí của chúng ta cùng một lúc.

Các mô hình điều trị cũ

Khi nói chuyện với các chuyên gia trong lĩnh vực y học, tâm thần học, phát triển cá nhân, bẻ khóa sinh học, phản hồi thần kinh, phản hồi sinh học và khoa học thần kinh, tôi phát hiện ra một điều thú vị. Mỗi người trong số họ đều có công thức riêng để thành công, nhưng họ hiếm khi hợp nhất chúng thành một khuôn khổ gắn kết để tạo ra sự thay đổi lâu dài cho chúng ta, những người đang đòi hỏi nhiều hơn từ chính mình. Một số khung này bao gồm:

  • Mô hình y tế: chẩn đoán và điều trị bệnh, kê đơn thuốc để kiểm soát các triệu chứng mà thường không phát hiện và giải quyết nguyên nhân gốc rễ, dẫn đến các tác dụng phụ có thể xảy ra. Mô hình này xem cơ thể như một tập hợp các cơ quan độc lập được phân chia theo các chuyên ngành y tế.
  • Mô hình tự lực: thúc đẩy nhận thức, khám phá hành vi tự phá hoại, truyền cảm hứng thông qua cách kể chuyện, khuyến khích khách hàng thay đổi niềm tin của họ và noi gương những người thành công, có bàn luận thêm các yếu tố tâm lý. Thật không may, phương pháp này không xác định được bất kỳ sự thiếu hụt dinh dưỡng nào có thể góp phần vào những hành vi này, những thiếu hụt dinh dưỡng vẫn tạo ra được thành công nhưng chỉ trong ngắn hạn chứ không thể tạo được sự thay đổi lâu dài. Khách hàng được “tiêm” một luồng ý chí, nhưng khi hết, họ mặc định trở lại chế độ cài đặt trước đây của mình.
  • Các mô hình trị liệu: gồm nhiều liệu pháp như nhận thức, chánh niệm, liệu pháp hành vi và liên nhân. Tương tự như mô hình tự lực, những liệu pháp này có thể khiến bệnh nhân không thực hiện những thay đổi cơ bản trong cơ chế sinh hóa của họ mà chỉ đưa cho họ một mảnh ghép về lý do tại sao họ lại thiếu động lực, thiếu tinh thần, thiếu tập trung, thiếu bình tĩnh.

Lĩnh vực y học chức năng đang thay đổi cách thức điều trị bệnh tật. Nó tìm kiếm và giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của bệnh. Không giống như y học truyền thống vốn xem cơ thể là một tập hợp các cơ quan độc lập, y học chức năng xem cơ thể như một hệ thống tích hợp. Mục tiêu của nó là điều trị toàn bộ cơ thể, không chỉ các triệu chứng.

Những hiểu biết tôi nhận được từ các chuyên gia mà tôi đã nói chuyện và từ vô số các thực phẩm chức năng, chế độ ăn uống, chiến lược chánh niệm và các thiết bị đeo tôi thử nghiệm trong thời gian 90 ngày này dẫn đến việc tôi suy ngẫm lại toàn bộ ngành khoa học về thành công, nhìn nhận lại đâu là gốc rễ để đạt được thành công đó. Tôi đã thử nghiệm một phương pháp y học chức năng hoàn chỉnh để đạt hiệu suất cao nhất và giờ tôi sẽ hướng dẫn bạn bắt đầu từ việc tìm ra khoảng hở trong nhân cách cho đến trở thành người dẫn đầu, thành người không thể cản ngăn. Hãy cùng tìm hiểu nào.

-Còn tiếp-

Chú thích:

  1. Eva Ritvo, “Facebook and Your Brain: The Inside Dope on Facebook” (Facebook và bộ não của bạn: Thuốc mê trên Facebook), Psychology Today, 24/5/2012, www.psychologytoday.com/us/blog/vitality/201205/facebook-and-your-brain.
  2. Deane Alban, “Dopamine Deficiency, Depression and Mental Health” (Thiếu hụt dopamine, trầm cảm và sức khỏe tâm thần), Be Brain Fit, https://bebrainfit. com/dopamine-deficiency/.
  3. Deane Alban, “Serotonin Deficiency: Signs, Symptoms, Solutions” (Thiếu hụt serotonin: Dấu hiệu, triệu chứng, giải pháp), Be Brain Fit, https://bebrainfit. com/serotonin-deficiency/.
  4. “Stress Effects on the Body” (Tác động của căng thẳng đến cơ thể), Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ, www.apa.org/helpcenter/stress-body.aspx.
  5. “Stress Symptoms” (Các triệu chứng căng thẳng), WebMD, 11/7/2017, www.webmd. com/balance/stress-management/stress-symptoms-effects_of-stress-on-the-body#2.
  6. R.J. Wurtman, “Brain serotonin, carbohydrate-craving, obesity and depression” (Serotonin của não, thèm carbohydrate, béo phì và trầm cảm), 3/11/1995, www. ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/8697046.
  7. “Prefrontal Cortex” (Vùng vỏ não trước trán), GoodTherapy.org, www. goodtherapy.org/blog/psychpedia/prefrontal-cortex.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Trích đăng

Ngoài Covid, còn có những cuộc khủng hoảng thầm lặng khác

Ta mang khẩu trang để bảo vệ chính mình và người khác khỏi một con vi rút mà ta không thấy được. Nhưng còn tất cả những con vi rút vô hình khác mà ta cũng cần tránh thì sao?

Published

on

By

Trích từ: Hãy cùng ước mơ
Tác giả: Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 10.2022

Tôi thấy thời đại này giống như một cuộc tính sổ. Nó khiến tôi nghĩ tới điều mà Chúa Giêsu đã nói với Thánh Phêrô trong Phúc Âm Luca (Lc 22,31) – ma quỷ muốn sàng ông như sàng gạo. Bước vào cuộc khủng hoảng là để cho bản thân được sàng lọc. Các phạm trù và cách suy nghĩ của bạn bị lung lay, các giá trị ưu tiên và phong cách sống của bạn bị thách thức. Bạn bước qua một ngưỡng cửa, hoặc là do chính bạn chọn lựa, hoặc do hoàn cảnh đòi buộc; vì sẽ có những cuộc khủng hoảng, như những gì chúng ta đang phải trải qua đây, mà bạn không cách chi né tránh được.

Câu hỏi được đặt ra là liệu bạn có vượt qua cơn khủng hoảng này không, và nếu có thể, thì bằng cách nào? Quy luật cơ bản của một cuộc khủng hoảng là bạn sẽ không thoát khỏi nó mà không thay đổi gì. Khi bạn vượt qua thách đố, bạn hoặc sẽ trở nên tốt hơn hoặc là tệ đi; nhưng chắc chắn sẽ không còn là con người cũ nữa.

Chúng ta đang sống trong thời đại đầy những thử thách. Kinh Thánh nói về việc băng qua lửa để mô tả những thử thách như thế, có thử lửa mới biết bình thợ gốm (Hc 27,5). Chúng ta sẽ luôn gặp khó khăn trong cuộc sống, nhờ đó mà ta được lớn lên.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Các thử thách trong cuộc sống sẽ giúp bạn bộc lộ trái tim mình: Trái tim bạn vững chãi thế nào, biết thương xót ra sao, và nó lớn hay nhỏ. Thường thường, trong những cảnh huống xã hội bình thường, bạn chẳng khi nào bộc lộ bản thân. Bạn cười, bạn nói những điều đúng đắn, và bạn bình an vô sự vượt qua các tình huống mà không phải thể hiện mình như chính-bạn-là. Nhưng khi bước vào khủng hoảng thì hoàn toàn trái ngược. Bạn phải chọn lựa. Và trong quá trình chọn lựa, bạn bộc lộ trái tim mình.

Hãy nghĩ về những gì xảy ra trong lịch sử. Khi trái tim bị thử thách, con người ta trở nên ý thức về điều khiến họ chùn bước. Họ cũng cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng Trung Tín và hằng đáp lại tiếng than khóc của dân Người. Cuộc gặp gỡ sau đó mở ra một tương lai mới.

Hãy nghĩ về những gì chúng ta thấy trong đại dịch Covid-19. Kìa các vị tử đạo: Những người nam người nữ đã hy sinh mạng sống mình để phục vụ những ai cần họ nhất. Hãy nghĩ tới các nhân viên y tế, các y bác sĩ, những người chăm sóc, cũng như các vị tuyên úy và tất cả những ai đã chọn đồng hành với người khác trong nỗi đau của họ. Áp dụng các biện pháp phòng ngừa cần thiết, họ tìm cách hỗ trợ và an ủi người khác. Họ là chứng nhân của tình thân và sự dịu dàng. Đau lòng thay, nhiều người trong số họ đã ra đi. Để tôn vinh những gì họ đã làm chứng và nỗi đau của biết bao người, chúng ta phải xây dựng ngày mai bằng cách đi theo con đường mà họ đã thắp sáng.

Tuy nhiên – tôi nói điều này trong đau đớn và xấu hổ chúng ta cũng hãy nghĩ đến những người cho vay nóng, cho vay nặng lãi, kẻ đã xuất hiện trước cửa nhà của những người đang tuyệt vọng. Giả như họ có đưa tay ra thì cũng là để cho vay những khoản tiền không thể nào trả nổi, và những ai chấp nhận đề nghị đó cuối cùng sẽ trở thành con nợ vĩnh viễn. Đây là những người làm giàu trên nỗi khốn cùng của người khác.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Trong thời điểm khủng hoảng, bạn sẽ bắt gặp cả điều tốt lẫn điều xấu: Người ta bộc lộ mình như chính-họ-là. Có những người quên mình phục vụ kẻ khó nghèo, cũng có những người làm giàu trên nỗi đau của người khác. Có những người bước ra để đến với tha nhân – bằng những cách thức mới đầy sáng tạo mà không cần rời khỏi nhà – trong khi số khác lại rút lui phía sau tấm áo phòng bị. Trái tim của ta vì thế mà tỏ lộ.

Không chỉ một vài cá nhân nào đó bị thử thách, mà là toàn thể nhân loại. Hãy nghĩ đến việc các chính phủ phải đưa ra chọn lựa trong đại dịch. Điều gì quan trọng hơn: Chăm sóc con người hay đảm bảo sự vận hành của hệ thống tài chính? Chăm lo cho người dân, hay thí mạng họ để đảm bảo lợi ích của thị trường chứng khoán? Tạm ngưng cỗ máy thịnh vượng, dù biết rằng điều này có thể ảnh hưởng đến nhiều người, nhưng phải chăng đó cũng chính là cách chúng ta có thể cứu sống nhiều mảnh đời? Có những trường hợp, chính phủ chọn bảo vệ nền kinh tế trước, có thể vì họ đã không hiểu mức độ trầm trọng của dịch bệnh, hoặc do họ thiếu nguồn lực. Những chính quyền này đã “thế chấp” người dân của họ. Khi chọn lựa như thế, thứ tự ưu tiên của họ bị thử thách và giá trị thật của họ cũng bị phơi bày.

Trong cơn khủng hoảng, luôn có điều cám dỗ ta rút lui. Tất nhiên, có những lúc chúng ta cần phải lùi lại vì lý do chiến thuật – như trong Kinh Thánh đề cập: “Rồi Israel rút về lều” (1 V 12,16) - nhưng có những tình huống mà rút lui không phải việc đúng đắn và cũng chẳng nhân văn. Chúa Giêsu đã làm rõ điều này trong dụ ngôn về người Samari nhân hậu. Khi thầy Lêvi và thầy tư tế bỏ lại người đàn ông bê bết máu vì bị băng cướp đánh nhừ tử, họ đang rút lui “theo chức năng”. Một hành động tuy hợp lý và đúng luật dạy, nhưng chẳng hợp tình người. Khi gặp thách đố, điều họ cố gắng bảo vệ là địa vị, vai trò và hình tượng của bản thân, chứ không phải vì người khác.

Trong một cuộc khủng hoảng, chủ nghĩa chức năng của ta bị lung lay, đó là lý do ta phải xem lại cũng như điều chỉnh vai trò và thói quen để biến mình thành những người tử tế hơn. Một cuộc khủng hoảng luôn đòi buộc toàn thể con người ta hiện diện, không cho phép ta thoái lui hay trở về với những đường lối và vai trò cũ. Hãy nghĩ về người Samari: Anh ta đã dừng lại, nâng đỡ người gặp nạn, đã hành động và bước vào thế giới của nạn nhân, đã đặt mình vào tình huống để chia sớt đau khổ với nạn nhân, rồi từ đó, tạo nên một tương lai mới.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Hành động theo cách của người Samari trong cơn khủng hoảng nghĩa là để cho bản thân được tác động bởi những gì mà ta nhìn thấy, với ý thức rằng những khổ đau này sẽ biến đổi cuộc đời ta. Chúng ta, những người Kitô hữu, nói về điều này như là đón nhận và ôm lấy thập giá Đức Kitô. Với niềm xác tín rằng những gì sẽ xảy đến là cuộc sống mới, việc ôm lấy thập giá cho chúng ta can đảm để ngừng than vãn và dũng khí để ra đi phục vụ. Từ đó, chúng ta được biến đổi, và sự biến đổi này chỉ đến từ lòng trắc ẩn và sự phục vụ quên mình.

Một số người đáp lại những khổ đau mà cơn khủng hoảng đem đến chỉ bằng cái nhún vai. Họ nói, “Thượng đế đã tạo dựng thế giới như thế, bản chất nó là vậy rồi”. Nhưng, nhìn nhận như thế là đã hiểu sai về công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi đây là một tiến trình năng động, không phải tĩnh tại. Thế giới vẫn luôn được tạo dựng. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma đã nói: Muôn loài thụ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở (Rm 8,22). Thiên Chúa muốn cùng chúng ta, các cộng sự của Ngài, không ngừng dựng xây thế giới. Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài ngay từ thuở ban đầu, trong mọi lúc, cả những thời khắc bình yên hay trong cơn khủng hoảng. Thiên Chúa không trao thế giới cho ta như một món đồ đã được đóng gói và niêm phong, rồi nói rằng: “Thế giới đây, hãy đón nhận”.

Trong sách Sáng Thế (Book of Genesis), Thiên Chúa ra lệnh cho Adam và Eva sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất. Nhân loại có nhiệm vụ thay đổi, xây dựng, làm chủ công trình sáng tạo theo nghĩa tích cực: sáng tạo từ nó và cùng với nó. Vì vậy, những gì sắp xảy đến không phụ thuộc vào các cơ chế vô hình hay một tương lai mà nhân loại chỉ là khán giả thụ động. Không, chúng ta là nhân vật chính, hay cụ thể hơn, là những người đồng sáng tạo. Khi Chúa bảo chúng ta ra đi và sinh sôi nảy nở để làm chủ Trái Đất, Ngài đang nói: Hãy là những người kiến tạo tương lai của chính mình.

Từ cuộc khủng hoảng này, chúng ta có thể trở nên tốt hơn hoặc tệ đi. Ta có thể trượt dài về sau, hoặc có thể tạo ra điều gì đó mới mẻ. Hiện tại, điều ta cần là cơ hội để thay đổi và tạo không gian cho những điều mới. Điều này tương tự điều Chúa phán với tiên tri Isaia: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Nếu con sẵn sàng lắng nghe, chúng ta sẽ có một tương lai tuyệt vời. Nhưng nếu con từ chối lắng nghe, con sẽ bị ăn gươm giáo (Is 1, 18-20).

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Có rất nhiều lưỡi gươm đang hòng tiêu diệt chúng ta.
Cuộc khủng hoảng Covid trông có vẻ đặc biệt vì nó ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại, nhưng nó chỉ đặc biệt vì ta có thể nhìn thấy được. Trong khi có hàng ngàn cuộc khủng hoảng khác cũng thảm khốc không kém, nhưng đủ khuất tầm nhìn để nhiều người vờ như chúng chẳng hề hiện hữu. Chẳng hạn, hãy nghĩ về những cuộc chiến tranh diễn ra đó đây trên thế giới; về việc sản xuất và buôn bán vũ khí; về hàng trăm ngàn người tị nạn đang chạy trốn khỏi sự đói nghèo, thiếu thốn cơ hội; và cả biến đổi khí hậu. Những bi kịch này có vẻ xa vời với chúng ta, chúng chỉ là một phần của tin tức hằng ngày, và đáng buồn thay, nó không đủ sức để thúc đẩy ta thay đổi lịch trình và giá trị ưu tiên. Nhưng cũng như đại dịch Covid, những khủng hoảng này tác động đến toàn nhân loại.

Chỉ cần nhìn những con số trong ngân sách mà một quốc gia chi cho việc trang bị vũ khí thôi cũng đủ làm bạn lạnh người. Rồi hãy so sánh các số liệu trên với số liệu thống kê của UNICEF về số trẻ em không được đến trường, phải lên giường với cái bụng đói, khi đó, bạn sẽ hiểu được ai đang phải trả giá cho việc trang bị vũ khí. Trong bốn tháng đầu năm nay, có đến 3,7 triệu người chết vì đói. Và có bao nhiêu người chết vì chiến tranh? Chi phí quân sự hủy diệt loài người. Có thể nói đây là một chủng vi rút corona đáng sợ, nhưng vì không nhìn thấy các nạn nhân của nó nên chúng ta chẳng mấy để tâm.

Tương tự vậy, một số người không nhìn thấy được thế giới tự nhiên đang bị tàn phá. Chúng ta nghĩ rằng điều này sẽ không ảnh hưởng tới mình vì nó xảy ra tận đấu tận đâu. Nhưng rồi đột nhiên ta nhìn thấy, ta hiểu được: Một chiếc thuyền băng qua Bắc Cực lần đầu tiên, và ta nhận ra rằng những trận lũ lụt và cháy rừng ở đâu xa lại là một phần của cuộc khủng hoảng chung mà tất cả chúng ta đều phải đối mặt.

Hãy nhìn chúng ta lúc này: Ta mang khẩu trang để bảo vệ chính mình và người khác khỏi một con vi rút mà ta không thấy được. Nhưng còn tất cả những con vi rút vô hình khác mà ta cũng cần tránh thì sao? Chúng ta sẽ phải đối phó với những đại dịch tiềm ẩn của thế giới này bằng cách nào – đại dịch của đói nghèo, bạo lực và biến đổi khí hậu?

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Nếu muốn bước ra khỏi cuộc khủng hoảng này và bớt ích kỷ hơn so với khi bước vào, hãy để cho bản thân được lay động bởi nỗi đau của người khác. “Nơi nào có hiểm nguy, nơi đó cũng trổ sinh nguồn năng lượng cứu rỗi”. Câu thơ trong tác phẩm Hyperion của Friedrich Hölderlin như muốn nói với tôi rằng những hiểm nguy đe dọa chúng ta trong một cuộc khủng hoảng không phải là tất cả; luôn luôn có một lối ra. Đó chính là nguồn cảm hứng trong câu chuyện của loài người: Luôn có cách để ta thoát khỏi sự suy tàn. Con người phải hành động ngay trong chính những thách thức, cũng là nơi mà cánh cửa được mở ra. Câu nói ấy đã đồng hành với tôi trong nhiều thời điểm khác nhau của cuộc sống.

Đây là thời điểm để ta mơ lớn, để suy nghĩ lại các giá trị ưu tiên, những điều ta coi trọng, mong muốn và kiếm tìm, và cũng để cam kết hành động trong mỗi ngày sống vì những điều ta mơ ước. Điều tôi nghe được lúc này cũng giống những gì Thiên Chúa đã nói với tiên tri Isaia: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Chúng ta hãy dám ước mơ.

Thiên Chúa mời gọi ta dám sáng tạo những điều mới lạ. Chúng ta không thể trở về tình trạng tưởng chừng như yên ổn của hệ thống chính trị và kinh tế trước khủng hoảng. Chúng ta cần những nền kinh tế cho phép mọi người tiếp cận với thành quả của công trình sáng tạo cùng những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống: đất đai, nhà ở và công việc. Chúng ta cần những nền chính trị có thể hòa nhập và đối thoại với người nghèo, những người bị loại trừ và dễ bị tổn thương, giúp họ có tiếng nói trong các quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Chúng ta cần chậm lại, cân nhắc và thiết kế ra cách thức tốt hơn để có thể cùng nhau sống trên mặt đất này.

Đó là nhiệm vụ mà từng người chúng ta được mời gọi để cộng tác. Nhưng đây là thời điểm đặc biệt dành cho những con tim thao thức, sự thao thức lành mạnh thôi thúc ta hành động. Hơn bao giờ hết, các lý lẽ ngụy biện cho rằng chủ nghĩa cá nhân là nguyên lý vận hành xã hội đang bị phơi bày. Vậy đâu sẽ là nguyên tắc mới của chúng ta?

Chúng ta cần một nhóm những người biết rằng chúng ta cần nhau, những người có tinh thần trách nhiệm với người khác và với thế giới. Chúng ta cần cho thấy rằng việc sống tử tế, có niềm tin, và làm việc vì lợi ích chung là những mục tiêu tuyệt vời – điều đòi hỏi nơi ta lòng can đảm và nghị lực; trong khi sự hào nhoáng hời hợt và nhạo báng đời sống đạo đức chẳng giúp ích gì. Kỷ nguyên hiện đại, vốn đã phát huy sự bình đẳng và tự do như một xác quyết, giờ đây cần phải tập trung vào tình anh em bạn hữu với cùng chí hướng và sự bền bỉ để đương đầu với các thử thách phía trước. Tình anh em bạn hữu sẽ tạo điều kiện cho bình đẳng và tự do chiếm vị trí tương xứng trong bản giao hưởng cuộc sống.

Hàng triệu người đã tự hỏi mình và người khác rằng họ có thể tìm thấy Thiên Chúa ở đâu trong cuộc khủng hoảng này. Những gì hiện lên trong tâm trí tôi là sự đầy tràn. Tôi nghĩ tới những dòng sông lớn nhẹ nhàng vỗ bờ, một cách chậm rãi đến độ bạn khó lòng nhận ra, nhưng đến đúng thời điểm, chúng vỡ bờ và tràn ra. Trong xã hội chúng ta, lòng thương xót của Chúa cũng tuôn tràn như “thời khắc vỡ bờ”: Bùng nổ, phá vỡ mọi giới hạn truyền thống vốn cản trở nhiều người khỏi những gì họ xứng đáng được nhận, làm lung lay vai trò và cách suy nghĩ của ta. Sự đầy tràn ân sủng được tìm thấy nơi những đau khổ mà cuộc khủng hoảng này đã phơi bày, và trong cách đáp trả sáng tạo của hàng bao người.

Tôi thấy có rất nhiều tình thương chảy tràn giữa chúng ta. Nhiều con tim đã và đang phải chịu các thách đố. Cuộc khủng hoảng đã khơi dậy nơi nhiều người sự can đảm và lòng trắc ẩn mới. Một vài người trong số đó khi bị thách đố sàng lọc, đã đáp lại bằng khát khao kiến tạo lại thế giới; số khác thì quyết định giúp người thân cận đang gặp túng thiếu bằng các hành động thiết thực để họ có thể vượt qua nỗi đau.

Tôi tràn ngập hy vọng rằng chúng ta sẽ trở nên tốt hơn khi bước ra khỏi cuộc khủng hoảng này. Nhưng để làm được như thế, chúng ta cần phải quan sát kỹ càng, lựa chọn sáng suốt và hành động đúng đắn.

Hãy cùng nói về cách thức để làm điều đó. Hãy để cho lời Chúa phán với tiên tri Isaia cũng vang vọng trong ta: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Chúng ta hãy dám ước mơ.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tại sao “Tôi” phải tồn tại ngay từ đầu?

Cuộc sống trưởng thành là thỏa hiệp giữa việc được làm những điều bạn muốn và tuân theo chuẩn mực chung của xã hội, giữa cái “Tôi” là trung tâm vũ trụ và cái “Tôi” chỉ như một mắt xích nhỏ nhoi trong guồng máy xã hội khổng lồ.

Published

on

By

Trích từ: Metahuman – Siêu Nhân Loại
Tác giả: Deepak Chopra
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2022

Có nhiều cách hiểu từ ảo tưởng. Xã hội không chấp nhận bất kỳ ai có ảo tưởng rằng những cá thể khác không quan trọng; chúng ta gọi đây là thói tự đại hoặc duy ngã. Nhưng ảo tưởng rằng tình yêu có thể chinh phục tất cả, niềm tin mà con người rất dễ lậm vào nếu đang say sưa trong men tình, là loại ảo tưởng ai cũng sẵn lòng sa chân. Vậy nên thật đau đớn khi tình yêu tan vỡ, nghĩa là mang hiện thực đến thế chỗ cho ảo tưởng.

Sự pha trộn giữa niềm vui và đau khổ tạo nên đặc trưng tiêu biểu của “Tôi”. Ở mặt tích cực, việc khám phá ra danh tính bản thân có thể khiến trẻ con vui sướng tột cùng. Nhưng chẳng lâu sau, “khủng hoảng tuổi lên hai” sẽ bắt đầu phô bày những dấu hiệu vị kỷ, khi trẻ biết khẳng định với thế giới, “Đây là tôi! Chú ý vào nhé. Tôi ở đây này!” Khủng hoảng tuổi lên hai là giai đoạn thách thức với các bậc cha mẹ bởi lối đòi hỏi vô lối của bản ngã, rất đáng ghét. Trên hết, hành vi này không thực tế. Bạn không thể tồn tại trong xã hội mà cứ đòi thế giới phải thường xuyên xoay quanh mình, thậm chí luôn luôn xoay quanh mình. Cuộc sống trưởng thành là thỏa hiệp giữa việc được làm những điều bạn muốn và tuân theo chuẩn mực chung của xã hội, giữa cái “Tôi” là trung tâm vũ trụ và cái “Tôi” chỉ như một mắt xích nhỏ nhoi trong guồng máy xã hội khổng lồ. Sự cân bằng rất khó đạt được, và vô số người đã rơi thẳng vào cái bẫy mặc cảm cá nhân, trong khi số ít còn lại giành quyền bước lên đàn áp luật chơi.

Các nhà tâm lý học dành cả sự nghiệp để chữa lành những cảm xúc bị hư hại của con người về Cái Tôi, nhưng trên hành trình siêu nhân, chúng ta phải đặt ra một câu hỏi cấp tiến hơn: Tại sao “Tôi” phải tồn tại ngay từ đầu? “Tôi” vẽ ra một cuộc đời sướng – khổ không thể tiên liệu. “Tôi” cách ly chúng ta khỏi thế giới và hạn chế những điều ta có thể cảm nhận, suy nghĩ, phát ngôn và hành động. Có phải chúng ta thường ngăn mình làm những chuyện bốc đồng bởi ý nghĩ tự động này – “Tôi không phải loại người làm chuyện X”? Chuyện X có thể là bất cứ gì, từ một trò chơi khăm vui vẻ đến phô trương thu nhập hay bỏ việc để đầu quân cho rạp xiếc. Mọi hạn chế do “Tôi” áp đặt đều vô nghĩa. Khuôn mẫu đó chỉ có ích cho những điều kiện xã hội đã lỗi thời. Khi chúng ta nhận ra “Tôi” chỉ là một mô hình tinh thần – và còn là một mô hình rất rung lắc – con đường thay đổi sẽ rộng mở. Một khi mô hình này mất đi sức mạnh cố hữu, chúng ta có thể quyết định hành động mà không còn phụ thuộc vào “Tôi”.

“Tôi” tồn tại để thuyết phục bạn rằng bạn là tạo vật của bầu thực tế ảo này, và việc vượt lên khỏi môi trường mô phỏng là không tưởng, cũng như một tấm ảnh không thể nhảy ra khỏi cái khung chứa nó được. Nguyên nhân khiến con người vướng víu trong ảo ảnh là vì chúng ta bị cái “Tôi” cùng mọi thứ “Tôi” đại diện trói chặt. Có rất nhiều việc phải làm để “Tôi” ngừng chi phối cuộc đời con người. Từ những ký ức đầu tiên của chúng ta về bản thân, “Tôi” đã là người bạn đồng hành thân cận nhất, và “Tôi” dành mọi khoảnh khắc tỉnh táo để bám lấy những trải nghiệm nó cho là đáng mơ ước, đồng thời loại bỏ các trải nghiệm khó chịu. “Tôi” không muốn từ bỏ sức mạnh chi phối chúng ta, vì lý do chính đáng. Có ai đó đặc biệt yêu thương bạn và chỉ riêng bạn khiến cuộc đời đáng sống hơn. Khi “Tôi” phai mờ, còn ai để ta yêu và được yêu nữa? Nhưng đó không phải nguy cơ duy nhất. Mọi điều con người suy nghĩ, phát ngôn và hành động đều nhằm mục đích khiến “Tôi” mạnh mẽ hơn, hạnh phúc hơn và tốt đẹp hơn. Vậy thì hành trình siêu nhân không thể thành công nếu không mang lại cho chúng ta những giá trị viên mãn hơn điều mà cái “Tôi” đang làm.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Ảo tưởng giữa đời thường

Thế giới hữu hình gây khó chịu đến mức trẻ em và người lớn mới được chữa thị lực thường thích ngồi trong bóng tối để trấn an mình.

Published

on

By

Trích từ: Metahuman – Siêu Nhân Loại
Tác giả: Deepak Chopra
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2022

Ai cũng đồng ý sống chân chạm đất tốt hơn là mơ mộng. Vậy nên hẳn sẽ là cú sốc với bạn nếu vỡ lẽ ra rằng bấy lâu nay mình vẫn sống trong ảo mộng. Bạn đã bám víu lấy khối ảo ảnh ấy ngay từ thời thơ ấu. Đến cả những người thực tế, lý trí nhất cũng thường xuyên đắm chìm trong ảo mộng. Tôi không chỉ bàn tới những ảo vọng hoang đường hay tưởng tượng dục tình, hoặc giấc mơ trở thành tỷ phú sau một đêm. Chẳng có gì bạn thấy thực chất như vậy cả. Tất cả đều là ảo ảnh từ chân tới đầu. Lấy điện thoại của bạn ra và xem bất cứ hình ảnh nào mới được lưu đi. Bức ảnh có chiều ngang vài centimet, bất kể là ảnh chụp Grand Canyon, con chuột hay vi trùng. Mắt bạn vẫn cách màn hình điện thoại một khoảng như nhau, nhưng bạn nhận biết Grand Canyon, con chuột và vi trùng với những kích thước hoàn toàn khác biệt. Bằng cách nào chúng ta có thể tự động điều chỉnh kích thước của hình ảnh trên màn hình vậy? Chẳng ai trả lời được, và tình hình càng bí ẩn hơn nếu bạn nhớ ra rằng võng mạc phía sau nhãn cầu là mặt cong và ảnh chiếu lên đó còn bị lộn ngược. Tại sao thế giới quanh ta lại không bị bóp méo như trong nhà gương cười? Bạn có thể nhún vai mà đẩy hết bí mật cho não bộ, cơ quan nhào nặn dữ liệu thô từ mắt và tạo thành bức tranh thế giới thực cho ta. Nhưng làm thế chỉ càng khiến ảo ảnh ăn sâu hơn. Khi nói mắt phản ứng với “ánh sáng thấy được”, ta đã bỏ qua sự thực là các hạt cơ bản của ánh sáng – photon – vốn không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Photon không có độ sáng, độ bóng, màu sắc hay bất kỳ đặc tính nào liên hệ tới ánh sáng. Giống như bộ đếm Geiger nháy đèn liên tục khi phát hiện mức phóng xạ cao và ngược lại, võng mạc cũng “nhấp nháy” liên tục khi hàng triệu photon kích hoạt các tế bào nón và que trong nó, nếu mức sáng giảm xuống (tức là chuyển thành tối) sẽ nháy thưa dần đi. Dù sao thì mọi hình ảnh bạn nghĩ mình nhìn thấy đều đã được xử lý trong não, ở một vùng cụ thể có tên là vỏ não thị giác, nơi hoàn toàn tối. Một bóng đèn chớp làm chói mắt bạn khi đi vào não cũng tối như ánh mờ của những ngôi sao trên trời đêm mà thôi. Các tín hiệu truyền đến vỏ não thị giác không tạo ra hình ảnh, chưa nói tới ảnh 3-D. Bức ảnh bạn ghi lại để hình dung về thế giới thực ra là do não bạn thêu dệt nên. Tương tự, bốn giác quan còn lại cũng chỉ là những “nhấp nháy” trên bề mặt của các tế bào khác. Không ai giải thích được tại sao các dây thần kinh trong mũi lại biến sự bùng nổ của những phân tử đang trôi nổi thành hoa hồng thơm hay đống rác thối. Toàn bộ thế giới ba chiều được thiết lập bằng một ẩn số ma thuật, nhưng đó chắc chắn không phải là khung cảnh thật của hiện thực. Tất cả đều là sản phẩm của tâm trí.

Một nhà khoa học thần kinh sẽ chỉnh đốn tôi, khẳng định thế giới chúng ta nhận thức là sản phẩm của não bộ mới đúng. Song chỉ một vài ví dụ đơn giản cũng có thể lật đổ luận điểm ấy. Theo cơ chế của não bộ, những ký tự trên trang sách này chỉ là đốm đen, không khác gì mấy đốm mực bạn chấm đại ra bằng cọ vẽ. Trước khi bạn học đọc bảng chữ cái, các ký tự chỉ là những đốm đen vô nghĩa, chỉ khi bạn học xong chúng mới trở nên có ý nghĩa. Tuy nhiên về mặt xử lý thông tin, bộ não bạn hiện nay vẫn y như từ lúc ba tuổi trở đi. Tâm trí ta học cách đọc chữ, không phải bộ não. Tương tự vậy, bất cứ điều gì bạn thấy xung quanh – một cây du, thanh chocolate Bỉ, nhà thờ hay nghĩa trang – đều có ý nghĩa là bởi tâm trí đã gán ý nghĩa cho chúng. Một ví dụ khác: Khi trẻ em mù bẩm sinh được trị liệu y tế để có thể nhìn, các em sẽ lúng túng trước những điều mà chúng ta thấy bình thường. Kích thước con bò đằng xa ngang với một con mèo sát bên. Cầu thang trông như được vẽ trên tường; cái bóng là một mảng đen huyền bí cứ bám theo các em khắp nơi. Điều mà trẻ mù bẩm sinh đã bỏ lỡ – và cần bắt kịp – là đường cong lĩnh hội (the learning curve) mà ai ai cũng phải học để định hình hiện thực đời thường. (Thế giới hữu hình gây khó chịu đến mức trẻ em và người lớn mới được chữa thị lực thường thích ngồi trong bóng tối để trấn an mình.) Đường cong lĩnh hội cần thiết để bạn sống trong thế giới này, nhưng bạn cũng tự thích nghi theo những cách rất riêng và đáng ngạc nhiên. Hãy thử nhìn từ góc độ của bạn. Nếu bạn đang nằm trên giường và có ai đó chạm vai để đánh thức bạn, nhìn người đó không to bè ra với cái đầu nho nhỏ tít bên trên. Nhưng hãy nằm đúng vị trí ấy và thử chụp một bức ảnh, hiện thực sẽ bị bóc trần. Thân người ngang tầm mắt bạn trông to lớn lạ thường, trong khi cái đầu ở xa tầm mắt hơn lại nhỏ xíu. Tương tự vậy, khi bạn ngồi bên cạnh nói chuyện với một người, mũi anh ta như phổng hẳn lên, và nếu đối chiếu với ảnh chụp, đôi mắt anh ta trông còn to hơn bàn tay đang đặt trên đùi. Chúng ta tự động che đi hình thù thực tế của sự vật trong góc nhìn cá nhân, và biến đổi dữ liệu bằng năng lực tâm trí. Thông tin đến mắt chỉ cho thấy căn phòng bạn đang ngồi có những bức tường tụ vào nhau ở góc phòng, nhưng bạn biết căn phòng này hình vuông, vì vậy bạn nắn chỉnh dữ liệu cho khớp với hiểu biết đó. Bạn biết cái mũi nhỏ hơn bàn tay, thế nên ở đây cũng cần có sự điều chỉnh dữ liệu hợp lý. Sự thật gây sốc chính là mọi thứ bạn nhận thức đều đã được điều chỉnh. Các phân tử lơ lửng trong vườn được chuyển thành mùi hương. Các tần số rung động được chuyển thành âm thanh để bạn nghe thấy và định dạng. Không có lối thoát khỏi thế giới do tâm trí nhào nặn này. Đây vừa là vinh quang vừa là hiểm họa với nhân loại. Tản bộ trên đường phố London hai trăm năm trước, nhà thơ uyên bác William Blake cảm thán cho những điều trông thấy:

“Trên từng vết sẹo mặt người
Sẹo yếu nhược, sẹo khổ đau.
Trong tiếng nhân loại than van,
Tiếng ỉ ôi của bầy trẻ nhỏ,
Trong mọi âm thanh: mọi điều cấm kỵ,
Tôi nghe thấy gông cùm tâm trí.”

Đó là một khung cảnh đáng buồn, vậy mà vẫn tiếp diễn mãi tới tận ngày nay. Con người cứ loay hoay trong bể khổ và sóng gió với niềm tin sâu sắc rằng chúng ta đã được định trước số phận ấy. Sẽ không gì thay đổi cho đến ngày bạn chấp nhận là nếu tâm trí có thể tạo ra hiện thực thì cũng có thể phá hủy chúng.

- Còn tiếp -

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Cafe sáng