Trích đăng

Chương 1 “Bẻ khóa sinh học trong 90 ngày” – Đóng lại khoảng hở trong nhân cách

Published

on

Mệt mỏi và trầm cảm, Ben Angel quyết định bỏ ra 90 ngày đi tìm nguồn cơn của những triệu chứng tinh thần nhằm giải quyết chúng một cách triệt để. Theo tác giả, phần lớn sách về self-help đều tập trung giải quyết các vấn đề tâm lý, tinh thần hoặc thái độ, trong khi nguyên nhân lại nằm ở khía cạnh hóa sinh của cơ thể. Ben Angel đề cập đến việc “biohack” cơ thể và tâm trí, thông qua một chương trình dinh dưỡng phù hợp, kết hợp thiền tập, đồng thời áp dụng những thiết bị kỹ thuật hiện đại. Nếu cơ thể được bẻ khóa sinh học đúng cách, vấn đề tâm lý sẽ được giải quyết, từ đó con người phá được thói quen xấu, tạo được thói quen tốt, giải quyết được tâm bệnh, có được năng lượng mới và đạt được hiệu quả mong muốn trong cuộc sống và công việc.

Trích từ: Bẻ khóa sinh học trong 90 ngày

Tác giả: Ben Angel

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Tái bản: tháng 9.2020

*

CHƯƠNG 1
Một sự chuyển đổi mô hình trong nhiều thập kỷ: Đóng lại khoảng hở trong nhân cách

Đang trên bờ vực suy sụp thần kinh, bắt đầu có ý nghĩ tự tử, không còn chỗ nào bấu víu, cuộc sống của tôi tại thời điểm đó hoàn toàn là một lời nói dối. Tôi được quảng cáo là “Người gây ảnh hưởng” đến hàng trăm ngàn doanh nhân và công ty, vậy mà tôi thậm chí không thể tạo động lực cho bản thân hướng tới mục tiêu tiếp theo. Tôi giận dữ.

Ước mơ của tôi là chuyển đến New York và tiếp tục sự nghiệp viết lách. Đã bao nhiêu lần tôi hình dung về mục tiêu này. Tôi tưởng tượng cảnh mình đi dạo trên những con đường thành phố náo nhiệt, đi đến quán cà-phê và nhà hàng, và, vâng, thậm chí có khoảnh khắc sến súa y như nhân vật nữ chính Carrie Bradshaw trong loạt phim Sex and the City, tư lự ngồi viết bài bên cửa sổ một ngôi nhà phố cổ điển đắt tiền ở New York (Độc giả đừng phán xét tôi nhé!). Tuy nhiên, không biết vì lý do gì, tôi thậm chí không dám nhìn vào danh sách việc cần làm; thật quá sức. Tôi đang nhanh chóng trở thành kẻ hết thời, đó là những gì mà những người trong ngành này nhìn nhận. Ước mơ của tôi ngày càng xa tầm với, và việc tôi cố gắng thuyết phục bản thân rằng mình vẫn ổn chẳng có nghĩa lý gì nữa. Sự thật là tôi không ổn, nhưng không ai trả lời cho tôi biết tại sao.

Có lẽ bạn hiểu được điều tôi nói. Bạn biết mình có khả năng, nhưng vì lý do nào đó bạn không thể mở khóa tài năng này, thể hiện nó triệt để bằng mục đích, tầm nhìn và mục tiêu của bạn. Bạn luôn cảm thấy ước mơ của mình ngoài tầm với. Và dù có cố gắng nắm lấy nó bao nhiêu, giấc mơ đó vẫn luôn tuột qua tay bạn. Bạn cố gắng thuyết phục bản thân rằng sẽ dậy sớm hơn, làm việc chăm chỉ hơn và làm bất cứ điều gì cần thiết để đạt được mục tiêu của mình, nhưng hết lần này đến lần khác, bạn thất bại. Chúng ta là như vậy sao? Có phải chỉ vì chúng ta có thái độ kém? Chúng ta chỉ cần cứng rắn lên? Những người siêu thành công đang làm điều gì mà chúng ta không làm được? Tôi đã làm theo chiến lược của họ, nhưng tôi không nhận được kết quả giống họ. Tại sao?

Chúng ta được dạy rằng để hết buồn thì cần suy nghĩ tích cực lên. Nếu tức giận, bạn cần tìm sự bình yên. Nếu bạn hay trì hoãn, bạn là kẻ lười biếng. Nếu bạn kiếm cớ, bạn yếu đuối. Mọi thứ đều ở trong đầu bạn thôi. Hãy cầm lấy một quyển sách dạy cách tự lực và vượt lên chính mình đi.

Hoặc nếu đến chỗ bác sĩ để phàn nàn về các triệu chứng tương tự, bạn sẽ được chẩn đoán y khoa là bị trầm cảm và được kê đơn thuốc chống trầm cảm để khắc phục sự mất cân bằng hóa học trong não bộ. Ngay cả khi đó, do những hạn chế trong đào tạo, thái độ và thời gian của mình, bác sĩ cũng không thể dành thời gian để tìm hiểu nguyên nhân sự xuống dốc của bạn.

Tệ hơn là ngành công nghiệp sách tự lực cũng nhìn vào cùng những triệu chứng này, và họ tin rằng tiêm cho bạn một liều động lực và một câu chuyện truyền cảm hứng sẽ chữa được cho bạn. Những quyển sách đó cũng không quan tâm đến việc tìm ra nguyên nhân gốc rễ.

Nhận thức này khiến tôi phải đặt câu hỏi: Nếu đây là những triệu chứng của tôi, vậy nguyên nhân đằng sau đó là gì?

Tất cả chúng ta đều trải qua những thất bại ở các mức độ khác nhau trong suốt cuộc đời của mình, một số người gặp những thất bại lớn hơn người khác. Trong một cuộc khảo sát trực tuyến qua Facebook vào năm 2018 mà nhóm của tôi đã thực hiện với 2.000 doanh nhân trên khắp thế giới, chúng tôi đã có những phát hiện sau:

  • 75% từng bị chứng “sương mù não” hay chứng đờ đẫn, mất tập trung.
  • 82% cũng hay trì hoãn.
  • 82% dễ bị phân tâm.
  • 65% dễ cảm thấy quá tải.
  • 71% trải qua mức độ căng thẳng cao.
  • 58% không cảm thấy sảng khoái khi thức dậy buổi sáng.
  • 47% cảm thấy buồn bã.
  • 62% có năng lượng lên xuống thất thường trong suốt cả ngày.
  • 65% mắc kẹt trong những suy nghĩ tiêu cực.

Những con số này đáng kinh ngạc ở chỗ chúng chứng minh một tỷ lệ lớn trong những người này đều gặp phải các triệu chứng có thể liên quan đến trầm cảm. Mà những đối tượng cụ thể này, hầu hết là những người có động lực cao, những người say sưa với mục tiêu của họ và tham gia vào một lực lượng lao động gồm những con người năng động, có tầm ảnh hưởng trong thế giới kinh doanh, ấy vậy mà một lượng lớn những người này lại không hoàn toàn vui vẻ khi nói đến sức khỏe tinh thần của mình. Do những nhân tố sinh học, bao nhiêu người trong số họ sẽ kiệt sức trước khi có thể đạt được giấc mơ của mình?

Bằng cách xem xét kỹ hơn, chúng ta có thể thấy rằng có một nguyên nhân cơ bản gây ra các triệu chứng này. Tôi tin chắc rằng chúng ta có thể tự chữa khỏi “căn bệnh” khỏe mạnh ảo tưởng này. Đặc biệt là tại Hoa Kỳ, chúng ta đang chứng kiến việc sử dụng thuốc tràn lan nhằm chữa trị các triệu chứng này và ngành y tế chưa sẵn sàng thay các đơn thuốc bằng những bảng câu hỏi để khám phá nguyên nhân gốc rễ cho sự tuột dốc tinh thần của chúng ta.

Thu hẹp khoảng cách với con người thật của mình

Câu chuyện của tôi không phải là ngoại lệ của quy tắc; đó là quy tắc. Đây là tất cả các triệu chứng thể hiện ra ngoài của một vấn đề cơ bản ẩn bên dưới, một vấn đề đã bị ngành công nghiệp phát triển bản thân và ngành y tế hoàn toàn ngó lơ.

Giống như con ếch chết dần khi được cho vào nước ấm sau đó đun sôi dần dần, chúng ta cũng sẽ thích nghi với sự đau khổ của mình mà không nhận thức được cho đến khi các triệu chứng nghiêm trọng xuất hiện và cần phải can thiệp y tế. Và đến lúc đó, ta lo đi chữa bằng một biện pháp quyết liệt nào đó, thay vì sử dụng một biện pháp mang tính phòng ngừa ngay từ đầu.

Tất cả các triệu chứng này làm đầu óc ta giảm khả năng xử lý thông tin mới, gây ra hậu quả nguy hiểm khi nói đến việc thu hẹp khoảng hở nhân cách giữa bản thân hiện tại của chúng ta với người mà chúng ta cần trở thành để đạt được mục tiêu. Cụ thể, nó giới hạn niềm tin của ta về bản thân, giới hạn khả năng nhận thức cần thiết để hiện thực hóa những viễn cảnh ta tưởng tượng về cuộc sống của mình. Ngay cả khi những triệu chứng này chỉ ở thể nhẹ, chúng vẫn có thể khiến chúng ta lâm vào tình trạng tồi tệ nhất.

Mãi cho đến khi gặp một bác sĩ tại thành phố nông thôn Dubbo ở New South Wales, Úc, sau buổi nói chuyện với điệu bộ trịch thượng của người bác sĩ này thì lần đầu tiên tôi mới mở mắt.

Nhìn vào câu hỏi hóc búa

Tôi không mệt mỏi vì tôi bị trầm cảm; mà tôi trầm cảm vì tôi mệt mỏi. Tôi muốn biết tại sao tôi mệt mỏi! Bị trầm cảm do mệt mỏi là điều đầu tiên trong nhiều phát hiện giúp tôi khám phá ra giải pháp, không chỉ giải pháp cho các triệu chứng của tôi, mà còn là giải pháp để đạt được mục tiêu và viết lại mô hình thành công đi từ nền tảng. Nếu tôi có thể khám phá lý do tại sao tôi mệt mỏi, tại sao tôi lại kiếm cớ và chần chừ, mọi thứ khác sẽ quay lại đâu vào đó. Cuối cùng tôi sẽ lại có được động lực của mình, thôi kiếm cớ, và thắp lên lại nguồn năng lượng và niềm đam mê cho các dự án tôi từng yêu thích.

Giống như hàng triệu người khác, lúc bắt đầu tôi bị các triệu chứng nhẹ mà tôi nhanh chóng quy kết là do làm việc quá sức, thái độ tinh thần yếu đuối hoặc thức khuya và căng thẳng với những thời hạn sít sao. Tôi đã tán thành triết lý “cứ làm đi” mà không nhận thức được đầy đủ về hậu quả khi làm theo triết lý đó.

Khi lực bất tòng tâm, cơ thể không thể hoàn thành nhiệm vụ mà linh hồn đặt ra. Linh hồn thì lúc nào cũng sẵn sàng, sẵn lòng. Mặc dù đã đọc vô số sách tự lực, tham dự nhiều hội thảo, và đắm mình trong các chiến lược tạo động lực cho bản thân trong suốt 15 năm qua nhưng rốt cuộc tôi nhận ra rằng những thông tin mình có không hề đầy đủ.

Chúng ta đã được dạy rằng tâm lý của mình là chìa khóa số một để thành công; các chức năng sinh hóa của chúng ta không được đề cập đến trừ khi bạn là một vận động viên ưu tú hoặc gặp các triệu chứng thể chất nghiêm trọng mà ai cũng thấy. Nhưng ngay cả các vấn đề sinh hóa nhẹ cũng có thể ngăn cản bạn đạt được mục tiêu của mình.

Lập kế hoạch chiến lược, chuẩn bị tinh thần và ý chí là điều cần thiết để có được khả năng suy nghĩ và cạnh tranh trong công việc và cuộc sống. Những yếu tố này có thể giúp ta trở thành một đối thủ mạnh. Tuy nhiên, các cơ chế hóa sinh, những chức năng tạo ra sức bền và khả năng chịu đựng của một người, chính là thứ tạo ra vận tốc đạt tới thành công.

Chúng ta có xu hướng tự động cho rằng mình cũng có cơ chế sinh hóa ngang bằng với diễn giả Tony Robbins, doanh nhân Richard Branson, Đức Đạt Lai Lạt Ma hay những người đỉnh cao khác. Nhưng chúng ta không biết nhiều người trong số đó tích cực làm việc để nâng cao cơ chế sinh hóa của mình. Những người khác, thông qua sự kết hợp của các yếu tố mà chúng ta sẽ nói trong cuốn sách này, đã gặp may mắn; cơ chế sinh hóa của họ tự nhiên làm cho họ ít bị căng thẳng, đờ đẫn và buồn bã, giúp dọn đường cho sự thành công của họ.

Điều đó không có nghĩa là họ không trải qua những tình trạng này; họ có bị chứ nhưng ở những mức độ nhẹ hơn, kiểm soát được. Cũng không phải để nói rằng họ không làm việc chăm chỉ; chỉ là với họ không quá khó khăn như những người khác vì họ có cơ chế sinh hóa ổn định hơn, đây là một nền tảng vững chắc để từ đó mọi thứ khác có thể phát triển.

Chúng ta bắt chước chiến lược của họ. Chúng ta muốn biết họ thức dậy mấy giờ, họ ăn gì, họ nghĩ như thế nào, niềm tin cốt lõi và thói quen đọc sách của họ là gì, nhưng không một giây nào chúng ta nhìn ra một điều: mỗi người là một hệ thống sinh hóa độc nhất vô nhị không ai giống ai. Mỗi người chúng ta xử lý thức ăn, suy nghĩ và cảm xúc rất khác nhau do nhiều yếu tố – các yếu tố mà chúng ta bỏ qua trong quá trình tìm kiếm thành công cá nhân, trừ khi một trong những mục tiêu của chúng ta là giảm cân.

Bất cứ ai cũng có thể áp dụng các nguyên tắc tâm lý giống như những người siêu thành công, nhưng nếu bạn bị suy giảm nghiêm trọng những thứ như vitamin D, omega-3, vitamin C, vitamin B12, dopamine, serotonin hoặc thậm chí là testosterone (cả ở phụ nữ và nam giới), bạn có thể bị đờ đẫn từ nhẹ đến nặng, mệt mỏi, thờ ơ, lo lắng, căng thẳng và trầm cảm, tất cả những điều này sẽ cản trở nghiêm trọng khả năng duy trì sự tập trung và đạt được mục tiêu của bạn. Nó giống như trồng cây trong đất độc hại rồi lại mong nó lớn lên được. Bất kể bạn có nói với nó là nó có khả năng làm được mọi điều thì cái cây xui xẻo đó kiểu gì cũng sẽ chết mà thôi!

Sự thiếu hiểu biết về cơ chế hóa sinh làm suy yếu các nguyên tắc tâm lý mà chúng ta được dạy để áp dụng. Đó là yếu tố vô hình làm chúng ta trật đường ray, một bàn tay vô hình giữ bạn lại không cho vượt qua vạch đích. Không có thông tin này, bất kỳ chiến lược nâng cao năng suất và hiệu suất nào cũng không đầy đủ và không hiệu quả.

Thay vì nhận ra cơ chế hóa sinh bất ổn của mình, chúng ta gắn một trạng thái tinh thần cảm xúc tiêu cực vào các mục tiêu của mình và tự quyết định mục tiêu đó là quá khó hoặc quá cao. Rốt cuộc chúng ta tự hình thành những suy nghĩ thối chí, chẳng hạn như “Tôi quá mệt mỏi”, “Tôi không có thời gian cho việc này”, “Làm điều đó rồi được gì?” hay “Tôi căng thẳng quá”. Để tránh viễn cảnh đó, có lẽ chúng ta nên tự hỏi bản thân một vài câu:

  • Điều gì sẽ xảy ra nếu thay vì chỉ nghiên cứu thói quen của những người thành công, những bộ óc sáng tạo nhất, những tư tưởng triệu đô, chúng ta dành tâm sức đó để soạn một cơ sở dữ liệu y tế của họ để kiểm tra mức serotonin, dopamine và cơ cấu hệ vi sinh vật cơ thể của họ và so sánh với những người thường xuyên bỏ cuộc, kiếm cớ hoặc trải nghiệm những cảm xúc tiêu cực dữ dội hơn?
  • Liệu cơ chế hóa sinh kém có ảnh hưởng đến khả năng của họ, ngăn họ về đích? Những mức độ sinh hóa này có ảnh hưởng đến khả năng của những người thành công cao để giúp họ vượt qua những thất bại và cán đích? Những quá trình sinh học này có giúp chúng ta hiểu đúng, hiểu đầy đủ tại sao những người thành công lại cư xử theo một cách cụ thể nào đó chứ không chỉ dựa trên thái độ tinh thần và giáo dục?
  • Giả sử một người suy giảm mức độ dopamine và serotonin, hành vi của họ sẽ thay đổi như thế nào?
  • Liệu một người thành công, tự tin có thể bị mất khả năng về thể chất và tinh thần nếu thiếu hụt dinh dưỡng?
  • Nếu nhìn vào mức độ sinh hóa khi họ gặp phải một trở ngại lớn, chúng ta sẽ khám phá ra điều gì?
  • Bằng việc xem xét các khía cạnh khác của cuộc sống khi một người gặp một trở ngại lớn về thể chất và cảm xúc, chúng ta sẽ tìm thấy gì? Họ đã ăn gì vào thời điểm đó? Hành vi của họ đã thay đổi như thế nào? Điều gì xảy ra trong cơ thể chứ không chỉ trong thái độ của họ?

(Tất nhiên ở đây ta đang bỏ qua những nan giải về đạo đức khi thu thập một cơ sở dữ liệu như vậy; những câu hỏi này hoàn toàn là giả thiết.) Lần duy nhất chúng ta xem xét cơ chế hóa sinh là khi chúng ta suy nhược hoặc cố gắng giảm cân, chứ không phải khi chúng ta cố gắng trở thành một phiên bản tốt hơn của chính mình. Khi không đạt được mục tiêu của mình, điều đó ngụ ý rằng chúng ta có một thái độ tinh thần yếu đuối chứ không phải một điểm yếu sinh hóa có thể nhanh chóng được khắc phục nếu có sự giúp đỡ đúng đắn. Quá trình cải biến cá nhân đúng đắn đòi hỏi thay đổi ở cả mặt sinh hóa lẫn tâm lý mới có thể duy trì được sự thay đổi đó về lâu dài. Nếu không, chúng ta sẽ quay trở lại ngay với những gì dễ dàng.

Khi tâm trí yếu đuối, bạn sẽ chẳng làm được việc gì ra hồn. Một phát hiện trong cuộc khảo sát 2.000 doanh nhân khiến chúng tôi khá bất ngờ, nhưng khi nhìn lại thì rõ ràng: 57 đến 65% những người bị “sương mù não” hay đờ đẫn là những người dễ bị phân tâm, thường trì hoãn, mất đi dòng suy nghĩ, cảm thấy quá tải và buồn bã, và cũng cảm thấy thèm ăn. Đây là một yếu tố sinh hóa chính yếu giải thích tại sao họ dễ đi chệch hướng và tại sao họ có xu hướng bỏ cuộc. Khám phá này càng khiến tôi tin rằng thành công không chỉ ở trong tâm trí hay cơ thể; nó ở trong cả hai nơi.

Để thực sự thành công có nghĩa là không chỉ bẻ khóa tâm trí mà còn phải bẻ khóa cả cơ chế hóa sinh của bản thân nữa. Nhìn nhận câu hỏi hóc búa này từ một quan điểm mới đã thách thức mọi thứ tôi từng tin về sự tự lực. Tôi, cũng như những người khác, đã bị thuyết phục rằng mình có thể dùng ý chí để thoát khỏi những lý do, sự trì hoãn, sự đờ đẫn, suy nghĩ tiêu cực và nỗi buồn, nhưng khi bị trầm cảm bạn lại cần uống thuốc.

Nhưng nếu điều đó không đúng thì sao?

Tâm lý đóng vai trò như thế nào trong thành công của bạn, còn cơ chế sinh hóa đóng vai trò bao nhiêu?

Thực tế là bạn không thể sử dụng khả năng tinh thần để bù đắp cho một cơ chế sinh hóa yếu kém. Tinh thần tốt có thể hỗ trợ, nhưng nếu không hiểu và giải quyết được các vấn đề tiềm ẩn, bạn sẽ tiếp tục tránh né và trì hoãn. Những hoạt động thực hành phát triển cá nhân của bạn sẽ chỉ có hiệu quả khi cơ chế hóa sinh của bạn hoạt động với hiệu quả cao nhất và hỗ trợ cơ thể bạn hoạt động ở mức tối đa.

Cách tiếp cận mới đối với các vấn đề cũ

Bạn giải quyết vấn đề gì trước tiên, tâm lý hay sinh lý của mình? Trước đây, chúng ta sẽ chọn một cuốn sách tự lực hoặc tìm kiếm một nhà trị liệu, người có thể hoặc không thể giải quyết sự thiếu hụt dinh dưỡng của chúng ta.

Nếu là một thập kỷ trước, cách này có thể hiệu quả, vì đó là trước khi có những thay đổi lớn diễn ra trong môi trường và nguồn cung thực phẩm, trước khi ô nhiễm ánh sáng và tác động tâm lý của phương tiện truyền thông xã hội bắt đầu ảnh hưởng đến hành vi hàng ngày của chúng ta. Tuy nhiên, bộ não thời tiền sử của chúng ta đã không bắt kịp những tiến bộ công nghệ ngày nay; hệ thống sinh hóa của chúng ta bị mắc kẹt trong quá khứ tiến hóa. Do đó, chúng ta dán mắt vào màn hình máy tính, điện thoại và máy tính xách tay 24/7, và việc nghiện công nghệ này đang có tác động sâu sắc đến cách chúng ta cư xử.

Các nghiên cứu cho thấy các công ty phát triển ứng dụng và mạng xã hội đang sử dụng công nghệ của họ để tạo ra những nền tảng gây nghiện mà chúng ta vô tình phải trả giá.[1] Họ sử dụng những biểu tượng cảm xúc dễ thương và theo dõi số lần chúng ta sử dụng ứng dụng của họ, do đó tạo ra thói quen truyền thông xã hội gây nghiện. Những thói quen này thỏa mãn người dùng, tạo ra cho họ nhu cầu phải lặp lại hành vi đó một lần nữa để có được niềm vui thích ngắn ngủi như thế. Facebook đúng là đã tấn công một trong những chất dẫn truyền thần kinh của chúng ta, dopamine, để thu lợi tài chính. Dopamine, hay còn được gọi là “hormone khen thưởng” do nó chịu trách nhiệm về hệ thống khen-thưởng-gợi-cảm-giáchài-lòng (pleasure-reward system) của não bộ, mang lại cho chúng ta động lực và sự tập trung mà chúng ta cần để làm việc hiệu quả. Thật không may, chúng ta luôn luôn không nhận thức rằng điều này đang xảy ra, cho đến khi chúng ta cảm thấy nó ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác trong cuộc sống.

Dopamine là thành tố quan trọng tham gia vào nhiều chức năng khác nhau của não bộ, liên quan đến giấc ngủ, học tập, điều khiển vận động, trí nhớ làm việc, khả năng tập trung và chú ý.[2] Trong phổ nồng độ dopamine từ thấp tới cao, các bệnh như Parkinson, rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) và các tình trạng bệnh khác nằm ở phân cực nồng độ dopamine thấp. Nói cách khác, nghiện mạng xã hội có phải là kết quả của mức độ dopamine thấp hơn do tình trạng căng thẳng và thế giới hiện đại mà chúng ta đang sống? Những lời bào chữa, tính chần chừ và tình trạng đờ đẫn là những triệu chứng có thể do mức độ thiếu hụt dopamine gây ra, chứ chúng không phải là nguyên nhân gây thiếu dopamine.

Bạn không phải là một người giống như trong những cái cớ bạn đưa ra; cái nguyên cớ đúng lý ở đây chính là cơ chế hóa sinh của bạn.


Đó chính là khi một tia sáng chói lóa giúp tôi nhận ra: Những lời bào chữa của tôi, những suy nghĩ tiêu cực, sự thiếu động lực và tinh thần không chỉ đơn giản là kết quả của một thái độ tinh thần yếu đuối. Vấn đề nằm ở sự thiếu hụt chất dẫn truyền thần kinh kết hợp với nhiều yếu tố khác. Vốn dĩ không ai là không xứng đáng, vô dụng hoặc yếu đuối; tất cả chúng ta luôn thay đổi trong suốt cuộc đời của mình. Cuộc sống, như bạn sẽ tìm hiểu trong suốt cuốn sách này, không phải là một thử nghiệm có kiểm soát. Suy nghĩ tích cực không thể thay thế cho sự thiếu hụt dinh dưỡng. Thật không may, chúng ta không liên kết các triệu chứng mơ hồ như lòng tự trọng thấp, tức giận, cơn thèm carbohydrate, rối loạn tiêu hóa, cảm thấy quá tải, mất ngủ, không vui, đờ đẫn, chức năng nhận thức kém với mức độ serotonin thấp. Thay vào đó, chúng ta tự hành hạ bản thân vì không giỏi được như những người khác.[3]

Khi nghĩ đến điều đó, liệu cơ chế hóa học bên trong có phải là yếu tố kích hoạt sự trì hoãn, sợ hãi, lo lắng, muốn bỏ cuộc không? Trong quá khứ, tôi đã từng trải nghiệm những điều này nhưng chúng chỉ thoáng qua và luôn lắng xuống. Còn lần này chúng đã cắm rễ, tôi phải đào lên. Câu trả lời ngắn gọn là một tiếng CÓ vang vọng.

“Chẩn đoán” sự thất bại

Vấn đề lớn nhất với cách tiếp cận cũ về thành công là nó không thể thu hẹp khoảng cách giữa cơ chế hóa sinh và tâm lý học. Cả hai hòa quyện đến mức không thể tách rời, tuy nhiên hệ thống y tế của chúng ta, lĩnh vực phát triển cá nhân, nhà tâm lý học, những người tin tưởng liệu pháp chữa bệnh tự nhiên, các chuyên gia dinh dưỡng và nhà trị liệu đã phân tách các phương pháp của họ trong nhiều thập kỷ, dẫn đến việc tâm lý học được nhấn mạnh hơn sinh hóa hoặc ngược lại chứ không kết hợp cả hai.

Sự tiến hóa thực sự sẽ xảy ra khi chúng ta có sự hội tụ của tất cả các ngành y học. Điều này đang bắt đầu xảy ra trong lĩnh vực dược chức năng, và nó sẽ cách mạng hóa việc chăm sóc sức khỏe và cách chúng ta nghĩ về bản thân, về khoa học của sự thành công. Nhưng trước khi nói về thành công, hãy nói về thất bại.

Tại sao chúng ta thực sự thất bại

Thất bại không chỉ do mức độ dopamine thấp. Đó còn là vấn đề làm chủ phản ứng “chiến đấu hay trốn chạy” của chúng ta. Khi chúng ta bị căng thẳng, hệ thống thần kinh soma của cơ thể (hệ thần kinh thân thể) sẽ kích hoạt phản ứng chiến đấu hoặc trốn chạy. Cơ thể rơi vào trạng thái tập trung cao độ và dồn các nguồn năng lượng của nó vào việc chống lại mối đe dọa hoặc chạy trốn khỏi kẻ thù.

Phản ứng chiến đấu hay trốn chạy giải phóng các hormone adrenaline và cortisol, tạo ra một loạt các quá trình bên trong, bao gồm hô hấp nhanh, tim đập nhanh và mạch máu giãn ra ở tay và chân, kích hoạt hệ thống tiêu hóa tăng mức đường huyết để đối phó với tình huống khẩn cấp. Một khi tình trạng khẩn cấp kết thúc, mọi thứ trở lại bình thường.[4]

Tuy nhiên, nếu điều này tiếp tục trong một thời gian dài, căng thẳng mãn tính có thể gây ra các vấn đề từ suy giảm nhận thức và mất ổn định cảm xúc cho tới bệnh tật thể chất. Các triệu chứng cảm xúc bao gồm kích động, ủ rũ, cảm thấy quá tải, không có khả năng thư giãn, lòng tự trọng thấp, cảm giác vô dụng, trầm cảm và cô lập. Các triệu chứng thể chất có thể bao gồm đau đầu, năng lượng thấp, đau dạ dày, căng cơ, đau ngực, mất ngủ, cảm lạnh và nhiễm trùng, mất ham muốn, hồi hộp, run rẩy hoặc khó nuốt. Căng thẳng cũng có thể dẫn đến các triệu chứng nhận thức: suy nghĩ lướt qua nhanh, hay quên, vô tổ chức, không có khả năng tập trung, đờ đẫn, phán đoán kém, bi quan và lo lắng liên tục.[5]

Căng thẳng, thèm ăn và không có khả năng tập trung vào những gì quan trọng

Căng thẳng có tác động rất lớn. Một tỷ lệ đáng kinh ngạc 71% trong số 2.000 người được hỏi cho biết họ đã trải qua mức độ căng thẳng cao, và điểm thú vị là: Căng thẳng gây ra cảm giác thèm ăn, đặc biệt thèm đường và thực phẩm chế biến nhiều lần. Quá trình tiêu hóa loại thực phẩm này giải phóng chất dẫn truyền thần kinh serotonin, mang lại cho chúng ta làn sóng bình tĩnh và thư giãn, cho phép chúng ta lấy lại sự tập trung tạm thời, cho đến khi mức serotonin giảm dần.

Từ 57 đến 65% số người đang bị đờ đẫn, cảm thấy choáng ngợp, lo lắng và buồn bã cũng trải qua cảm giác thèm ăn.

Cảm giác thèm ăn carbohydrate có thể là do mức serotonin thấp vì loại “hormone hạnh phúc” này được tiết ra trong quá trình tiêu hóa thức ăn. Điều này dẫn đến một vòng luẩn quẩn khi người ta tiêu thụ lượng carbohydrate quá mức nhằm cảm thấy vui vẻ hơn. Những cảm giác thèm ăn này thường thấy ở những cá nhân phải chịu mức độ căng thẳng cao.[6]

Mối liên hệ với việc chúng ta không có khả năng thành công nằm ở hai yếu tố đang diễn ra hàng ngày. Khi cảm thấy thèm ăn hoặc căng thẳng, phản ứng chiến đấu hay trốn chạy của chúng ta được kích hoạt lên. Quá trình này dẫn máu ra khỏi vỏ não trước, nơi điều khiển vô số chức năng điều hành, bao gồm các hành vi phức tạp như phối hợp, kiểm soát xung lực, phản ứng cảm xúc, tính cách, tập trung, tổ chức, lập kế hoạch phức tạp và ưu tiên thông tin đồng thời.[7]

Điều này tạo ra một vòng luẩn quẩn khó chịu: Lượng đường trong máu của chúng ta giảm, cảm giác thèm ăn của chúng ta tăng lên và lượng cortisol tăng, làm hạn chế khả năng kiểm soát các xung động, sự chú ý và phản ứng cảm xúc của chúng ta. Chúng ta tìm đến carbohydrate ngọt hoặc tinh chế cao và lượng đường trong máu tăng lên, sau đó là sự sụt giảm đột ngột, dẫn đến sự đờ đẫn, không thể tập trung, mất động lực, mất khả năng đạt được mục tiêu.

Chúng ta cố gắng giải quyết vòng luẩn quẩn này ở con cái bằng cách hạn chế lượng đường của chúng, nhưng lại không kiểm soát nó vì sức khỏe tâm lý của chính mình. Chúng ta cũng đã bị bịt mắt bởi các công ty nói rằng họ đang đưa “nhân tố lành mạnh” vào sản phẩm, mặc dù nhiều sản phẩm trong số đó có nhiều đường, chất làm ngọt nhân tạo sucralose, carbohydrate tinh chế, caffeine và chất bảo quản, tất cả đều ảnh hưởng đến khả năng suy nghĩ thông suốt của chúng ta.

Khi lượng đường trong máu của bạn giảm hoặc bạn gặp phải mức độ căng thẳng cao, não của bạn sẽ chuyển sang chế độ sinh tồn, thúc đẩy bạn liều lĩnh hơn và đưa bộ não nguyên thủy của bạn vào trạng thái hưng phấn kích thích cao độ. Sự thay đổi này khiến tính cách, tâm trạng và bản sắc của bạn dao động suốt cả ngày. Động lực của bạn có thể cao vào buổi sáng, nhưng vào buổi chiều, bạn thà ngồi trên ghế và xem tivi còn hơn vì bạn đã sử dụng hết khả năng tinh thần của mình trong ngày.

Trong trạng thái nguyên thủy này, mục đích chính của bộ não là duy trì sự sống chứ không phải để khiến bạn tập trung vào việc đạt được mục tiêu của mình. Não bộ thậm chí còn không xếp việc “đạt được mục tiêu” vào danh sách các chức năng quan trọng cần thiết để duy trì cuộc sống. Trong trạng thái này, còn được gọi là chế độ tự bảo tồn, não bộ mặc định duy trì hiện trạng của bạn chứ không làm thêm gì khác.

Vấn đề là hầu hết chúng ta không thể tắt chế độ này đi, hoặc nếu chúng ta làm vậy, nó sẽ nhanh chóng quay trở lại sau đó, tạo ra một chuyến tàu lượn đầy cung bậc cảm xúc và cảm giác bất lực không thể hoàn thành các dự án đúng hạn. Sự xáo trộn cảm xúc này dễ dàng diễn ra như vậy là do ảnh hưởng trực tiếp của quá trình chúng ta học cách xử lý các mối đe dọa tiềm tàng. Quá trình đó dựa trên nhiều yếu tố như giáo dục, di truyền và cả mức độ các hormone như serotonin và dopamine. Nếu mức serotonin hoặc dopamine của bạn thấp, bạn sẽ khó đương đầu với những thất bại, và nhiều khả năng có tâm thế thụ động thay vì chủ động.

Ngày qua ngày, lối sống hiện tại tàn phá chúng ta bằng các yếu tố căng thẳng, bắt đầu từ một yếu tố nhỏ nào đó tưởng chừng vô hại. Ví dụ về các yếu tố căng thẳng này có thể là phản ứng với thực phẩm không lành mạnh, dị ứng, tin xấu, mất ngủ, ô nhiễm, đồng nghiệp thù địch, căng thẳng tài chính, quá nhiều caffeine, xung đột trong các mối quan hệ, vấn đề gia đình, căng thẳng liên tục hoặc đơn giản là ai đó trên đường nhìn bạn đầy soi mói. Sự căng thẳng bắt đầu tăng tốc và kết quả là các vấn đề khác xuất hiện. Quá trình này xảy ra chậm đến mức ban đầu chúng ta không nhận ra cho đến khi mọi nỗ lực thoát ra đều trở nên vô ích vì các chức năng nhận thức của chúng ta đã bị vô hiệu hóa; nó giống như đi tìm chìa khóa trong một căn phòng tắt đèn tối om vậy.

Để tìm ra công tắc bật đèn, chúng ta phải thay đổi nhân cách và nguồn nhiên liệu, ngay cả khi chỉ trong chốc lát, để khởi động lại tinh thần, cơ thể và tâm trí của chúng ta cùng một lúc.

Các mô hình điều trị cũ

Khi nói chuyện với các chuyên gia trong lĩnh vực y học, tâm thần học, phát triển cá nhân, bẻ khóa sinh học, phản hồi thần kinh, phản hồi sinh học và khoa học thần kinh, tôi phát hiện ra một điều thú vị. Mỗi người trong số họ đều có công thức riêng để thành công, nhưng họ hiếm khi hợp nhất chúng thành một khuôn khổ gắn kết để tạo ra sự thay đổi lâu dài cho chúng ta, những người đang đòi hỏi nhiều hơn từ chính mình. Một số khung này bao gồm:

  • Mô hình y tế: chẩn đoán và điều trị bệnh, kê đơn thuốc để kiểm soát các triệu chứng mà thường không phát hiện và giải quyết nguyên nhân gốc rễ, dẫn đến các tác dụng phụ có thể xảy ra. Mô hình này xem cơ thể như một tập hợp các cơ quan độc lập được phân chia theo các chuyên ngành y tế.
  • Mô hình tự lực: thúc đẩy nhận thức, khám phá hành vi tự phá hoại, truyền cảm hứng thông qua cách kể chuyện, khuyến khích khách hàng thay đổi niềm tin của họ và noi gương những người thành công, có bàn luận thêm các yếu tố tâm lý. Thật không may, phương pháp này không xác định được bất kỳ sự thiếu hụt dinh dưỡng nào có thể góp phần vào những hành vi này, những thiếu hụt dinh dưỡng vẫn tạo ra được thành công nhưng chỉ trong ngắn hạn chứ không thể tạo được sự thay đổi lâu dài. Khách hàng được “tiêm” một luồng ý chí, nhưng khi hết, họ mặc định trở lại chế độ cài đặt trước đây của mình.
  • Các mô hình trị liệu: gồm nhiều liệu pháp như nhận thức, chánh niệm, liệu pháp hành vi và liên nhân. Tương tự như mô hình tự lực, những liệu pháp này có thể khiến bệnh nhân không thực hiện những thay đổi cơ bản trong cơ chế sinh hóa của họ mà chỉ đưa cho họ một mảnh ghép về lý do tại sao họ lại thiếu động lực, thiếu tinh thần, thiếu tập trung, thiếu bình tĩnh.

Lĩnh vực y học chức năng đang thay đổi cách thức điều trị bệnh tật. Nó tìm kiếm và giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của bệnh. Không giống như y học truyền thống vốn xem cơ thể là một tập hợp các cơ quan độc lập, y học chức năng xem cơ thể như một hệ thống tích hợp. Mục tiêu của nó là điều trị toàn bộ cơ thể, không chỉ các triệu chứng.

Những hiểu biết tôi nhận được từ các chuyên gia mà tôi đã nói chuyện và từ vô số các thực phẩm chức năng, chế độ ăn uống, chiến lược chánh niệm và các thiết bị đeo tôi thử nghiệm trong thời gian 90 ngày này dẫn đến việc tôi suy ngẫm lại toàn bộ ngành khoa học về thành công, nhìn nhận lại đâu là gốc rễ để đạt được thành công đó. Tôi đã thử nghiệm một phương pháp y học chức năng hoàn chỉnh để đạt hiệu suất cao nhất và giờ tôi sẽ hướng dẫn bạn bắt đầu từ việc tìm ra khoảng hở trong nhân cách cho đến trở thành người dẫn đầu, thành người không thể cản ngăn. Hãy cùng tìm hiểu nào.

-Còn tiếp-

Chú thích:

  1. Eva Ritvo, “Facebook and Your Brain: The Inside Dope on Facebook” (Facebook và bộ não của bạn: Thuốc mê trên Facebook), Psychology Today, 24/5/2012, www.psychologytoday.com/us/blog/vitality/201205/facebook-and-your-brain.
  2. Deane Alban, “Dopamine Deficiency, Depression and Mental Health” (Thiếu hụt dopamine, trầm cảm và sức khỏe tâm thần), Be Brain Fit, https://bebrainfit. com/dopamine-deficiency/.
  3. Deane Alban, “Serotonin Deficiency: Signs, Symptoms, Solutions” (Thiếu hụt serotonin: Dấu hiệu, triệu chứng, giải pháp), Be Brain Fit, https://bebrainfit. com/serotonin-deficiency/.
  4. “Stress Effects on the Body” (Tác động của căng thẳng đến cơ thể), Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ, www.apa.org/helpcenter/stress-body.aspx.
  5. “Stress Symptoms” (Các triệu chứng căng thẳng), WebMD, 11/7/2017, www.webmd. com/balance/stress-management/stress-symptoms-effects_of-stress-on-the-body#2.
  6. R.J. Wurtman, “Brain serotonin, carbohydrate-craving, obesity and depression” (Serotonin của não, thèm carbohydrate, béo phì và trầm cảm), 3/11/1995, www. ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/8697046.
  7. “Prefrontal Cortex” (Vùng vỏ não trước trán), GoodTherapy.org, www. goodtherapy.org/blog/psychpedia/prefrontal-cortex.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tiếng đờn ca ở tiệm hớt tóc

Published

on

Hồi ức Phú Nhuận

Đầu thập niên 1960, dân cư quanh khu Bàn Cờ thấy có một tiệm hớt tóc được mở ra ở số 405B đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu - TP.HCM), đoạn giữa chợ Vườn Chuối và đường Cao Thắng. Tiệm có tên Đời Mới, bảng hiệu vẽ ba đầu tóc đàn ông chải bồng kiểu tăng gô không khác gì những mái tóc của kép Dũng Thanh Lâm, kép Minh Phụng sau này. Tiệm không có gì đặc biệt, bề ngang chỉ 2,2m, nhưng ai nấy đều chú ý vì ở đó thỉnh thoảng lại có tiếng đờn ca cổ...

Ban đờn ca tài tử này, tuy lúc rảnh mới tụ lại với nhau mà tồn tại hơn chục năm. Dấu ấn của nó sâu đậm tới mức đến giờ người vùng Bàn Cờ còn nhắc, dù đã hơn 40 năm và các nhân vật trong câu chuyện này hầu như không còn mấy ai.

Ông Tư Triều, chủ tiệm hớt tóc Đời Mới vốn dân gốc ở quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa. Về Sài Gòn lập nghiệp giữa thập niên 1950 sau khi gãy đổ cuộc hôn nhân đầu, ông cưới vợ lần nữa và mở tiệm hớt tóc khi vừa có đứa con gái.

Tiệm cũng là nhà ở, ông sống cùng hai người thợ. Vì có máu văn nghệ, thích ca cổ lại có nghề làm nhạc cụ, ông biến tiệm hớt tóc của mình thành nơi đờn ca tài tử những lúc rảnh. Từ hồi trai trẻ, ông đã mê cải lương, đờn ca cổ nhạc bên cạnh những thú vui khác như đá gà, đua ngựa...

Bạn thân ông đều là người thích tiếng hát, tiếng đờn như bác Năm Trèo ở Hóc Môn, cha của nghệ sĩ cải lương Hoài Thanh. Trước khi có tiệm hớt tóc, giữa thập niên 50, ông chơi thân với nghệ sĩ tài danh Hữu Phước và danh hài Văn Hường. Lúc đó họ chưa nổi tiếng, ông gọi Hữu Phước là Ri vì ông này quốc tịch Pháp có tên Henry và nghệ danh Hữu Phước chưa xuất hiện.

Ông Tư Triều cắt tóc cho một người khách ái mộ cải lương (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Khách đến hớt tóc có đủ loại người, già trẻ lớn bé, từ người trong giới bình dân, trí thức, luật sư, cảnh sát, hoặc phục vụ trong quân đội Sài Gòn, có cả một vị bộ trưởng. Ông Tư Triều là người từng trải, lịch duyệt lại có máu nghệ sĩ nên giỏi ăn nói, rành chuyện cải lương, rành nhạc cụ cổ nhạc. Ông còn biết sửa chữa nhạc cụ. Thoạt đầu, ông mua đờn cũ mang về chỉnh sửa theo ý mình rồi đưa cho bạn bè trong nhóm đờn ca dùng thử. Đến khi cứng tay nghề, ông đến xưởng gỗ bên Chánh Hưng (quận 8) đặt từng thanh gỗ để làm cần đờn, mặt đờn.

Về nhà, ông tiếp tục gọt giũa từng chi tiết rất công phu. Ông tự chế keo dán gỗ, mua dây đàn nhập từ Tây Đức... Khi đờn hình thành, ông đem đi cẩn ốc xà cừ. Ông cầu kỳ đến mức mua đờn tranh, thấy 16 “con nhạn”(miếng gỗ kê dây đờn) không đẹp, đặt luôn những miếng gỗ hình tam giác mang về gọt giũa thành những “con nhạn” mới.

Từ khi nhóm đờn ca tài tử của ông bắt đầu tụ lại, khách đến đông thêm. Những người thường ghé chơi là mấy thầy dạy bên trường Quốc gia âm nhạc như bác Hai Khuê, bác giáo Thinh và bác Bảy Hàm, có nhạc sĩ Vĩnh Bảo, nghệ sĩ tiền phong Duy Lân, bác Mười Phú, chú Mười Hoa (nhạc phụ nghệ sĩ Viễn Sơn), nhạc sĩ nổi tiếng Văn Giỏi, anh Minh Hữu nghệ sĩ đờn kìm, bác Tư Tuất (nghệ sĩ đờn cò một thời của gánh Hương Mùa Thu, thân phụ các nghệ sĩ Hoài Dung, Hoài Mỹ)...

Trong số đó, ông Tư Triều thương anh Minh Hữu vì anh có tài và khiêm tốn, luôn nho nhã với sơ mi trắng và đeo kính cận. Sau này, khi gánh hát Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há lên tivi, bà mời anh Minh Hữu chơi đờn kìm cho tuồng của bà và ông Tư Triều rất sung sướng khi nhìn thấy cây đờn kìm ông làm được Minh Hữu dùng biểu diễn trên truyền hình.

Hầu hết họ đều là các nghệ sĩ đánh đờn, chỉ có vài giọng ca là anh Biện (hay Biền) to cao nhưng hiền lành. Một giọng khác là anh Ngọc, đẹp trai còn hơn nghệ sĩ với mái tóc chải ép, ca rất hay. Ngày đó không dễ gì liên lạc nhau nhưng không hiểu sao mấy nghệ sĩ tài tử này "đụng" nhau thường xuyên ở tiệm Đời Mới như đã hẹn hò từ trước. Mỗi tuần ông Tư Triều đều dành một buổi chơi đờn hay hòa đờn với nhau. Lâu lâu vào buổi tối ông mời bạn bè lên gác hát xướng, hòa điệu cho đến khuya.

Bà Tư niềm nở hiếu khách nên bạn bè ông Tư không ngại. Khách đến chơi, hứng thú khi nhìn chung quanh tiệm treo đầy những cây đờn. Ở nhà sau treo trên hai bên vách hơn 30 loại nhạc cụ (kìm, cò, tranh, sến, guitar, gáo, đoản...), có cây vĩ cầm trong chiếc hộp gỗ thiệt đẹp, bên trong lót vải nhung đỏ rực. Đó là tất cả gia tài và niềm đam mê của ông Tư Triều.

Chú bé Tâm, con trai út của ông Tư Triều nay đã ở tuổi năm mươi, sinh sống tại Đức còn nhớ những ngày vui đầu thập niên 1970 khi mới lên bảy. Lúc đó, cuộc sống còn dễ thở, khách đến đông và giới đờn ca tài tử thường xuyên đến góp vui. Mỗi lần tụ họp thường từ 9, 10 giờ sáng đến quá trưa rồi ai về nhà nấy. Khách qua đường thường đứng lại nghe đờn. Nếu có người ca thì người xem đông hơn.

Có chị hàng xóm dắt con đến cắt tóc, cũng xin ngồi vào ca vài bài, rất đúng nhịp trong khi đợi cậu con trai. Các chú các anh ít khi ca bài vọng cổ mà thường ca những bài cổ, khó hơn như Tây Thi, Lưu Thủy Trường, Xàng Xê, Tứ Đại Oán... Anh Ngọc, giọng ca chính có bài ca Phù Đổng Thiên Vương cách thể hiện rất hào hùng. Ông Tư Triều thỉnh thoảng cũng góp giọng, dù làn hơi yếu nhưng điệu ca lạ tai, vững nhịp.

Nhóm đờn ca tài tử ở tiệm hớt tóc Đời Mới (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Tâm còn nhớ nghệ sĩ Duy Lân thường chở cô học trò cưng Ngọc Hoa (bây giờ là nghệ sĩ Thoại Miêu) đến chơi. Thầy bảo hát gì là chị răm rắp nghe lời. Có lần, tàn cuộc thầy dắt chiếc xe Mobylette ra về, đạp hoài không nổ. Thầy bảo: “Phụ thầy đẩy đi con” là chị lập tức cột hai vạt áo dài trắng tinh, cong lưng đẩy ngay. Một lần Tâm chứng kiến ông Tư Triều đồng ý bán cây đờn do ông chế tác.

Số là trong số khách đến hớt tóc có trung tá X., luôn đi bằng xe Jeep. Anh này thích tiếng của cây đờn tranh, có mướn thầy về dạy riêng ở nhà. Anh kính mến ông Tư, nhiều khi tóc chưa dài cũng ghé cắt, chỉ để nói chuyện với ông. Anh mê một cây đờn tranh cẩn xà cừ rất đẹp của ông và sau nhiều lần thuyết phục, anh được ông Tư đồng ý đổi chiếc đờn lấy một tivi Sanyo 17 inch mới toanh, giá lúc ấy 90.000 đồng. Hẳn ông rất quý anh bạn trẻ và cũng muốn có tivi cho vợ con xem cải lương nên chấp nhận cho cây đờn ra đi.

Từ năm 1973, tiệm hớt tóc Đời Mới dần vắng khách. Kinh tế lúc đó bắt đầu đi xuống do người Mỹ rút đi. Chính quyền đặt ra loại thuế T.V.A (trị giá gia tăng), ngoài thuế môn bài. Tất cả cửa tiệm kinh doanh đều phải kê khai từ ngày thành lập cho đến thời điểm hiện tại và phải đóng một số tiền khổng lồ, nếu không thì dẹp. Ông Tư Triều quyết định đóng cửa tiệm lui về Củ Chi trồng rau nuôi gà và cắt tóc cho dân quanh vùng mưu sinh, cuối tuần lại về Sài Gòn thăm vợ con.

Mấy mươi năm theo tiếng đờn ca của những ban nhạc tài tử, ông gặp đủ loại người. Nhưng không bao giờ gặp lại những bạn bè cùng đi hát trên xe vespa từ khi họ nổi danh, thậm chí còn không nhận ra ông là người quen. Đó là lý do ông không thích đến rạp hát nữa. Nhóm đờn ca tài tử, nơi quy tụ những người cùng ngân nga những bài ca cổ đề cao nhân hiếu tiết nghĩa, cũng là nơi lui tới của những người “vui đâu chầu đó”, điều đó không có gì lạ.

Năm 1979, Tâm gặp lại anh trung tá năm xưa mua cây đờn tranh. Biết tin ông Tư đã về Củ Chi, anh buồn buồn chia tay. Sau đó vài năm, ông Tư Triều mất vì tai biến lúc Tâm đã ra nước ngoài.

Ông Tư Triều và ban đờn ca tài tử của ông chỉ là một mảnh nhỏ xíu trong đời sống văn hóa người Sài Gòn - Gia Định. Họ có thể vô danh hay hữu danh, yêu lời ca tiếng nhạc bằng tâm hồn rộng mở, hồn nhiên và tình cờ góp phần tạo nên mạch ngầm chảy âm ỉ nhưng đủ sức nuôi dưỡng vốn cổ văn hóa của ông bà, từ thời mở cõi vô Nam.

Hồi ức Phú Nhuận | Phạm Công Luận

Đọc bài viết

Cafe sáng