Chuyện người cầm bút

Chekhov: Cửa vào Vĩnh Cửu

Published

on

“Một trong những nhà văn ‘phá hoại, lật đổ’ sâu thẳm nhất từng có mặt trên cõi đời này”.

Rất ít người, ngay cả trong số những độc giả ái mộ Chekhov, đồng ý với nhận định trên của Simon Karlinsky, người tuyển chọn và bình luận một số thư từ của nhà văn Nga thường vẫn được coi là “hiền lành” này.[1]

Khác với tiểu thuyết của Dostoevsky – cơn lũ ma quái, của cái gọi là tâm lý con người – kịch và truyện của Chekhov là về những con người bình thường, với cuộc sống nhàm chán, vô vị của họ. Trong khi Tolstoy rao giảng chủ nghĩa vô chính phủ chống lại Nhà Thờ Nga và Nhà Nước, Anton Chekhov lặng lẽ làm một ông thầy thuốc nhà quê, một ông chủ trại nho nhỏ, cho tới khi tình trạng sức khoẻ bắt buộc ông phải lui về sống những mùa đông ở Yalta. Một cuộc sống tránh né mọi vấn nạn nóng hổi của thời đại, cuối cùng cho thấy sự thiếu vắng ý thức “dấn thân” như thế đó đã làm cho những gì ông viết ra đầy chất phá hoại (subversive). Ông “coi thường” rất nhiều những “tín lý” của xã hội hiện đại, về tiến bộ, tự do, đạo đức cá nhân và (không như Tolstoy), ông không tìm cách thay thế những gì mà ông huỷ diệt, bằng những “huyền thoại” riêng của mình.

Xã hội thời đó trông mong nhà văn như những người dẫn đường về ý thức hệ và đạo đức trong cuộc chiến chống lại vương quyền. Trong khi những nhà phê bình cấp tiến đề cao những nhà văn “hạng nhì” như Zlatovrasky và Gled Uspensky với những nhân vật đối nghịch: thầy tu, nhà buôn, sĩ quan (những nhân vật phản diện xấu xa) trong thế đối lập với những người dân quê và những con người trẻ tuổi lý tưởng (những nhân vật với trái tim trong trắng), Chekhov viết thư cho vị chủ báo bắt đầu in tác phẩm của mình: Tôi chẳng cấp tiến, chẳng bảo thủ, chẳng tu sĩ, chẳng dửng dưng. Tôi chỉ muốn là một nghệ sĩ tự do, và chẳng cần chi nữa. Thái độ đạo đức giả, sự ngu si đần độn, hành động hiếp đáp, cả vú lấp miệng em, bạo chúa… ngự trị không chỉ ở trong những gia đình con buôn, những trạm cảnh sát. Tôi thấy chúng ở trong khoa học, văn chương, thế hệ trẻ. Đó là lý do tại sao tôi chẳng trông mong gì ở đó. Điều thánh thiện nhất trong mọi điều thánh thiện, riêng với tôi, đó là thân thể người ta, sức khoẻ, sự thông minh, tài năng, hứng khởi, tình yêu và… tự do – thoát ra khỏi bạo lực và những điều dối trá – không cần biết hai thứ sau mang hình dáng nào.”

Lá thư, một tập hợp 12 truyện ngắn của Chekhov, mỗi truyện như một thước phim sinh động ghi lại cuộc sống của những người xung quanh ông.

Sự ghê tởm bạo lực và giọng ấm ớ đạo đức, Chekhov có rất sớm, ngày càng lộ rõ. Ông có lần nhận xét (nhân nói về thái độ lý tưởng của Tolstoy đối với dân quê Nga): “Tôi nhà quê ở trong máu, và tôi chẳng hề bị xúc động bởi những đức hạnh của họ.”

Ông sinh năm 1860, được một tuổi là bãi bỏ chế độ nông nô. Ông nội, ông ngoại là nông nô. Ông già trút được lốt nhà quê khi chen chân làm chủ một cửa tiệm tại thành phố Taganrog ở phía Nam nước Nga. Là con trai thứ ba trong sáu người, ông nhớ hoài nguồn gốc nông dân, chế độ gia trưởng tàn bạo của ông bố mà ông và hai người em trai là nạn nhân, chưa kể những giờ dài đằng đẵng quỳ trên đá lạnh, hát thánh ca tại nhà thờ dưới con mắt khắc nghiệt của ông thầy dậy nhạc. Mười sáu tuổi, bị bỏ lại ở Taganrog, tự lo thân khi ông bố khánh tận phải đem gia đình về Moscow tìm việc làm. Trong ba năm vừa học vừa lo kèm trẻ, ông làm được điều Tolstoy suốt đời mơ ước nhưng không sao thực hiện được: tái tạo ra chính mình, một con người như một toàn thể đạo đức, thoát ra khỏi những biến dạng bởi chế độ bạo chúa vốn đè nặng đời đời kiếp kiếp lên người dân Nga.

Ông trở thành đầu đàn trong gia đình; sự sống còn chỉ còn trông vào số tiền ông gửi về. Cùng thời gian, ông lo tự trau dồi bằng những giờ tại thư viện thành phố. Thành quả của những năm tháng cô đơn đó, chúng ta có thể nhìn ra, trong thư viết cho người em Nicolai: “để vượt lên khỏi những ngọn roi khốc liệt thuở ấu thời, (em) phải làm sao tạo được sự kính trọng của những con người có nhân cách; phải tự kiềm chế trước hành động nông nổi, liều lĩnh, và lừa dối; không được ngừng đọc, nghiền ngẫm sâu xa, trau dồi ý nguyện của mình. Mỗi giờ là một hiếm hoi, quý báu.” Vào năm ba mươi tuổi, ông đã chứng tỏ điều này, khi một nhà xuất bản coi ông là một nhà văn “vô nguyên tắc”: “Tôi chưa từng nịnh bợ, nói dối, sỉ nhục bất cứ một ai”, “chưa từng viết ra một dòng mà tôi cảm thấy nhục nhã vì nó.”

Đời văn của Chekhov bắt đầu là để giúp đỡ gia đình khi ông được học bổng và rời thành phố quê hương tới Moscow làm sinh viên Đại học Y khoa. Trước tiên là những bài viết nho nhỏ, gửi cho những tuần báo. Thành công đến nỗi, sau khi tốt nghiệp y khoa, ông “đành” phải chia thời giờ ra làm hai, “giữa y học… người vợ hợp pháp, và văn chương… người tình (bà vợ bé), của tôi.”

Truyện ngắn của ông có một sắc thái riêng, đề tài đa dạng, trải dài toàn cảnh nước Nga với những con người của nó. Chưa tới ba mươi, ông đã là một nhà văn lớn. Năm 1887, vở Ivanov cho ông danh hiệu: người viết bi kịch. Nhờ nó, ông mua được căn nhà cho gia đình thuộc vùng ngoại vi Moscow. Trở thành nhân vật trung tâm của giới văn nghệ thủ đô và của phái đẹp; một số người tình (trước khi có vợ, vào năm bốn mươi) sau này trở thành bạn thân. Bạn trai cũng “mê” ông: họa sĩ Konstantin Korovin mô tả bạn mình “cực kỳ đẹp trai”, với đôi mắt dịu dàng, và một nụ cuời “e thẹn lạ chi đâu”, “toàn vẻ bề ngoài gây một sự tin cậy đặc biệt”. Niềm tin cậy đặc biệt này, là do tình nhân loại “chân trần”, luôn luôn bám vào đất của ông. Chính nó đem đến cho ông “một cái mũi rất nhọn” chuyên trị mùi ghê tởm, của “thói đời”.

Những nghiên cứu, ghi nhận riêng của ông, về “việc thiện”, các công trình nhân đạo, thật đáng nể. Cuốn sách của ông về đảo tù Sakhalin (The Island of Sakhalin, 1893, dựa trên số liệu từ những cuộc thanh tra tình trạng y tế ở đó) đã bầy ra cho cả nước Nga thấy sự khủng khiếp, ghê rợn của hệ thống nhà tù. Những cố gắng của ông trong việc cứu đói tại vùng ông vào năm 1891-1892, được kèm theo bằng những chuyến đi mệt nhoài, thường lội bộ suốt vùng băng giá, như một ông thầy thuốc không được trả lương có nhiệm vụ ngăn chặn một trận dịch, bên cạnh một trận đói. Ông đã chữa trị hàng ngàn dân quê tại y viện địa phương, hoạch định, tham gia việc xây cất trường lớp, thư viện, đóng góp tiền bạc cho những công trình phúc lợi, trong đó có việc cứu trợ một tờ báo y học bị khánh tận, mua ngựa phân phát cho dân chúng, làm phương tiện chuyên chở lúa gạo. Chính thái độ lăn xả vào cuộc sống hàng ngày đã khiến ông trở nên khinh khi những phương thuốc về một “ngày mai ca hát”, hay rõ hơn, một cuộc cứu đói toàn cầu: nhân một chuyến thăm Venice, ông đưa ra nhận xét, một trong những niềm vui của “Đến thăm Venice rồi hãy chết”: thành phố thiếu vắng hẳn những bộ mặt làm ra vẻ quan trọng của mấy ông Mác-xít. Khi đến thăm Hong Kong, ông nhận xét, so với người Nga, người Anh vậy mà đã nhiệt tình quan tâm tới những “người làm” (employees) của họ. Ông viết, tôi chẳng hề tin vào tầng lớp trí thức “en masse”; ông đặt để niềm hy vọng của mình ở nơi những cá nhân, bất kể trí thức hay nông dân, rải rác khắp nước Nga, chỉ có họ là đáng kể: chỉ với những hiểu biết, những cố gắng của họ mà xã hội từ từ biến đổi.

“Tôi có niềm tin vào sự tiến bộ, ngay khi còn là một đứa bé, nhưng chuyện đó chẳng giúp tôi, khi không tin vào nó, bởi vì sự khác biệt giữa thời kỳ thấm đòn và hết còn bị đòn thật là lớn lao.” Ông ngưỡng mộ thái độ lý tưởng của những người Nga cấp tiến, nhưng những lời hô hào của họ chỉ làm ông nhớ lại ấu thời: “Tôi quá ớn sự lạm dụng, bất kể nó nhắm vào ai.” Ông buộc tội tầng lớp trí thức, do không tưởng nên bỏ qua những thành quả của zemstva – Những Thay Đổi Lớn, The Great Reforms, hay là những định chế mà chính quyền đưa ra vào thập niên 1860 – nhằm canh tân xã hội Nga. Về những tiến bộ trong ngành giải phẫu tại Nga trên hai thập niên trước đó, ông có lần đưa ra nhận xét, “nếu phải chọn lựa giữa không tưởng cấp tiến, được miêu tả như trong tiểu thuyết của Nicolai Chernyshevsky, What Is to Be Done? nổi tiếng vào thập niên 1980, và bệnh viện tồi tệ nhất ‘zemstvo’, tôi chẳng do dự lấy một chút, khi ôm lấy bệnh viện.”

Đề tài trấn ngự cơ bản của nghệ thuật “Chekhovian” là từ cuộc chiến đấu đầu đời, cộng với những thực hành do nghề thầy thuốc mang lại: cuộc chiến đấu của những ước vọng con người, chống lại những hoàn cảnh “bất thuận lợi”. Những năm tháng ở Taganrog đã dạy ông một điều: những cuộc chiến đấu quan trọng nhất, mang tính đạo đức, “được hay thua” không phải vào thời điểm căng thẳng, bi đát, mà thông qua một quá trình những chọn lựa chẳng có gì đáng kể, rất cá nhân. Chúng ta có thể nhận ra dáng dấp của “người hùng Chekhovian” qua lời khuyên của ông gửi tới nhà xuất bản, và cũng là bạn, Aleksei Suvorin, khi ông này viết một bi hài kịch truyền thống: Bạn không thể kết thúc với những người theo chủ nghĩa hư vô. Với họ, chỉ có bão tố, hung bạo. Điều vở kịch của bạn cần là một kết cục êm ả, trữ tình, cảm động… Nếu nữ nhân vật của bạn, sau cùng nhận ra, những con người quanh cô đều làm tầm thường, vô dụng, xấu xa… điều này chẳng lẽ không “khủng khiếp” hơn cả chủ nghĩa hư vô hay sao?

Điều kỳ lạ ở cái bình thường; thảm kịch của điều “chẳng có gì bi thảm”, đó là đề tài kịch Chekhov, cùng với nó là cuộc cách mạng kịch nghệ Nga vào thập niên cuối đời ông. Vở kịch lớn đầu tay, Ivanov, vẫn còn giữ những yếu tố bi kịch truyền thống, đã được đón nhận khá nồng nhiệt; vở kế, The Seagull (trong đó, ông đưa ra kỹ thuật của mình, bỏ đi những “mưu đồ” kịch mang tính ước lệ) là một thất bại thê thảm ngay đêm đầu được trình diễn vào tháng Mười 1896; nhưng lần trình diễn thứ nhì, tại Moscow vào năm 1898, đã được nồng nhiệt đón nhận, cũng như những vở kế tiếp: Uncle Vanya, Three Sisters, và vào tháng Giêng 1904, The Cherry Orchard. Sự kiện “chẳng có gì xảy ra” ở trong kịch Chekhov đã trở thành “dấu ấn” của ông, nhưng giới phê bình lại coi đây là khả năng tạo nên không khí, trạng thái kịch, chúng thường được cắt nghĩa như những gợi nhớ u buồn về một nước Nga tranh tối tranh sáng, khi những bậc trưởng thượng, đại diện cho giai cấp đang hấp hối, “nhìn ngắm những cuộc đời thừa thãi của họ.”

Richard Gilman, trong Kịch Chekhov: Cửa vào Vĩnh cửu[2], đả phá những nhận định “bản kẽm” như thế. Ảnh hưởng Francis Ferguson, khi coi The Cherry Orchard là “thơ-kịch của nỗi khổ đau, do tang thương dâu bể”, Gilamn tiếp cận kịch Chekhov: “một điều giả dụ như là không-bi đát”; “miêu tả, không phải một hành động, nhưng một điều kiện”; nỗi thống khổ ở đây là do cảm nghĩ của chúng ta – những con người sinh tử lão bệnh – về thế gian; chúng ta: mồi ngon của thời gian, và của đổi dời. Khả năng của Chekhov – khi “bi đát hóa” nỗi “không-bi đát”, thảm kịch của điều vô ích, của chuyện thường ngày – thật mãnh liệt, ở Three Sisters, trong đó, bước đi thời gian xói mòn dần mọi hy vọng về tương lai vẹn toàn, qua chuyến về thành phố, nơi đồng nhất với quá khứ lý tưởng của họ. “Nó đâu mất rồi? Đâu? Đâu? Chúng ta sẽ chẳng bao giờ trở về được Moscow, chẳng bao giờ… giờ này, tôi thấy rõ điều đó.”

Như Gilman chỉ ra, rất nhiều nhân vật của Chekhov mong ước trở thành một người nào khác, ở một nơi chốn nào khác, “kịch” bắt họ trở về nơi chốn, con người, là họ hiện giờ. Nhưng ở đây không có vấn đề “số mệnh, căn phần”. Diễn tiến đơn tuyến, ước lệ đưa đến nút mở chót, được thay thế bằng điều mà Gilman gọi là “trường bi kịch” (dramatic field): chuỗi phản ứng đưa đến cảm nhận về sự mất mát. Chúng ta chỉ nhìn thấy những nhân vật, một khi bị giam cứng vào vùng ao tù đóng váng, họ chẳng còn chi để mà vui đùa, giải trí, ngoại trừ những câu nói dấm dẳn, những mẩu chuyện nhát gừng, đong đưa giữa hoài nhớ và nhận thức, được đánh dấu bằng những trống vắng, bằng đột biến, từ khôi hài qua nghiêm trọng. Như Karlinsky chỉ ra, một trong những tư tưởng “chìa khóa” của Chekhov là trong bản tự thuật tóm tắt (resumé), theo đó, tác giả khẳng định nghề y của ông đã có một ảnh hưởng quan trọng đến sáng tác văn học. Ông nhấn mạnh, nhà văn phải trung thành với thực tại thực nghiệm, với thế giới, hành vi cư xử của con người; và đưa ra những nhân vật, với những cái nhìn “khách quan tuyệt hảo”. Khi một truyện ngắn của ông bị coi là không có một thái độ rõ ràng về chủ nghĩa bi quan, ông trả lời: công việc của nhà văn không phải là giải quyết những vấn đề như là Thượng Đế, bi quan… nhưng ghi nhận, ai, trong điều kiện nào, đã nói hay đã nghĩ thế này thế nọ về Thượng Đế, về bi quan.

Trên tờ TLS, July 18, 97, John Stokes, khi điểm cuốn Anton Chekhov: A Life, đã cho rằng chủ nghĩa nhân bản Chekhovian, vốn nhập thân vào những nhân vật thầy thuốc, mãnh liệt, vì nó kính trọng “tiếng hát nhân ngư” từ cõi tư riêng (the siren-songs of privacy), từ nỗi bầm rập, té lên té xuống của con người. Những đức hạnh của con người, “chân thật nhất, hướng thượng nhất, nhưng cũng khó khăn nhất”, có cội rễ ở từ “Sod”, tên con mongoose, hay mangu, của Chekhov. Ông nói, những đặc tính của con vật, là “can đảm, tò mò, và rất mến con người”. Con vật Sod tội nghiệp có cơ hội là bỏ chạy, cuối cùng chấm dứt cuộc đời, tại Sở Thú Moscow. Chủ của nó cũng chia sẻ với con vật thân yêu của ông, “đặc tính” chạy trốn đó, nhất là khi có đàn bà dính vào! Rayfield cho biết Chekhov sợ tình dục như sợ bệnh nghiền; nếu ông đầu hàng, nó sẽ tiêu huỷ tự do và tài năng sáng tạo của ông. Thù Zola, khi miêu tả những cuộc tình “nhà nghề, thô bỉ”, ông đã viết về một gái điếm Nhật, “nghề riêng ăn đứt” đến nỗi “bạn cảm thấy không phải đang tình tự, mà là tham dự một lớp cao học, về nghệ thuật cưỡi ngựa.” Tuy đẹp trai, nhưng qua cuốn tiểu sử của Rayfield, chúng ta thấy đây là một con người với những cuộc tình “bỏ đi”. Thê thảm nhất là cuộc tình với “Lika” Mizinova, một người đẹp nghệ sĩ. Trong nhiều năm họ chia sẻ hoan lạc, hiến dâng và sự lạnh lùng, dửng dưng.

“Tin tưởng vào Chúa, một chuyện quá dễ dàng. Đám ‘mật vụ’ nhà thờ người Tây Ban Nha (inquisitors) tin vào Chúa. Không, bạn phải tin vào con người! Niềm tin này, chỉ có thể khả hữu, ở một số rất ít những con người hiểu và cảm thấy Christ.”, một truyện ngắn Giáng Sinh của Chekhov đã kết thúc như vậy, nhưng đã bị kiểm duyệt đục bỏ.

Hết.

Chú thích:

  1. Anton Chekhov’s Life and Thought: Selected Letters and Commentary, Michael Henry Heim và Simon Karlinsky dịch từ tiếng Nga, 494 trang, nhà xb Northwestern University Press, 1997.
  2. Yale University Press, 261 trang, 1997.

Nguyễn Quốc Trụ

Theo bài viết Chekhov, the Subversive của Aileen Kelly, NYR Nov 6, 1997; và The Human Virtues của John Stokes TLS July 18, 1997.

Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chuyện người cầm bút

Hải Âu: Dịch Siêu Nhân Loại là khóa học tôi trân trọng về hiện thực

Tôi không coi hành trình dịch sách Siêu Nhân Loại là một công việc, mà là một khóa học bổ ích và hết sức đáng trân trọng. Tôi thấy mình thật may mắn.

Published

on

By

Siêu Nhân Loại – tác phẩm mới nhất do Phương Nam Book tổ chức xuất bản và phát hành – là sự kết hợp hoàn hảo giữa thể loại sách tâm linh và sách khoa học tâm lí, đem đến cho bạn đọc nhiều kiến thức thú vị về tâm lí con người nói chung, khái niệm Siêu Nhân Loại nói riêng. Deepak Chopra – tác giả của quyển sách – từng được tạp chí Time vinh danh là “1 trong 100 anh hùng và biểu tượng hàng đầu thế kỷ”.

Xoay quanh tác phẩm này, Bookish đã có cuộc trò chuyện với Hải Âu – dịch giả chuyển ngữ sang tiếng Việt của Siêu Nhân Loại để bạn đọc có thể biết được câu chuyện hậu trường về quá trình dịch tác phẩm, đồng thời tiếp cận Siêu Nhân Loại từ góc nhìn của người dịch.

Siêu Nhân Loại là một tác phẩm có hàm lượng kiến thức khổng lồ từ nhiều lĩnh vực khác nhau, chủ yếu là các lĩnh vực nằm trong khoa học tự nhiên. Khi dịch sách, bạn có gặp khó khăn về vấn đề này không và bạn đã vượt qua bằng cách nào?

Hàm lượng thông tin khoa học khá dày và đa dạng trong sách đúng là một thử thách với tôi xuyên suốt quá trình dịch thuật. Song tôi không thấy mệt mỏi chút nào, ngược lại còn rất phấn khích. Có lẽ vì tôi vốn đã luôn dành nhiều thiện cảm và thời gian cho các đầu sách/bài nghiên cứu khoa học từ trước. Hơn nữa, đồng hành cùng tôi trên con đường này còn có Bác sĩ – Tiến sĩ Vũ Phi Yên, một nhà khoa học và tâm lý học kỳ cựu. Chị cũng chính là người đã giới thiệu cho tôi đọc sách Siêu Nhân Loại bản gốc tiếng Anh. Những thông tin khoa học mà tôi chưa nắm rõ, đặc biệt là ở lĩnh vực y tế và sinh học, đều được chị Vũ Phi Yên cố vấn tỉ mỉ.

Ngoài ra, tôi cũng chủ động tham vấn ý kiến chuyên gia trong những lĩnh vực khác mà Siêu Nhân Loại đề cập. Từ thầy giáo vật lý, kỹ sư công nghệ cao, cho tới người làm vườn, đầu bếp và nhà ngôn ngữ học... chỉ cần có cơ hội tôi đều cắp sách tới học hỏi. Đây là lý do tôi không coi hành trình dịch sách Siêu Nhân Loại là một công việc, mà là một khóa học bổ ích và hết sức đáng trân trọng. Tôi thấy mình thật may mắn.

Hải Âu

Deepak Chopra thậm chí còn trích dẫn một số bài thơ để phục vụ cho luận điểm của mình trong sách. Thơ là một mạch nguồn cảm xúc khác hẳn với văn phân tích; những lúc đó, bạn chuyển đổi mạch nguồn tư duy thế nào để dịch thơ?

Xuất phát điểm của tôi là ngành khoa học xã hội, cụ thể là ngôn ngữ học. Vậy nên tôi vốn đã quen thuộc với việc dịch các bản thảo văn chương và thi ca từ thời còn đi học. Cuốn sách dịch đầu tay của tôi cũng thuộc thể loại tiểu thuyết chứ không phải phi hư cấu. Tôi chuyển mình từ văn phân tích sang thơ hay các trích đoạn kịch cổ điển cũng tự nhiên, giống như đổi từ bút bi sang bút mực nước vậy thôi.

Cái khó của quá trình này thực ra nằm ở việc tái hiện phong cách của từng tác giả được trích dẫn. Thơ William Blake chắc chắn phải khác thơ Rumi hay Kabir; kịch Shakespeare từ nước Anh thế kỷ 16 không thể dịch cùng một lối với lời kinh cổ về thần Shiva của Ấn Độ được. Mong muốn chuyển ngữ sao cho trung thành với văn phong của tác giả nhất, tôi cố gắng tham khảo từ các tác phẩm cùng chủ bút và các bản dịch kinh điển khác. Ngoài ra, tôi cũng có một típ dịch văn chương yêu thích là tìm nghe âm nhạc cùng thời đại, cùng xuất xứ với tác giả để khám phá không gian cảm xúc đã nuôi dưỡng tâm hồn họ. Trải nghiệm này luôn thú vị và khơi dậy cảm hứng.

Điều gì khiến bạn thích thú nhất về miền đất của Siêu Nhân Loại mà tác giả đã vẽ ra?

Điều tôi thích thú nhất về miền đất Siêu Nhân Loại có lẽ là ý tưởng “con người thật của bạn vượt khỏi cả thời gian và không gian”. Tiềm năng của con người là vô hạn – nghe như kịch bản của một bộ phim viễn tưởng nhưng lại được tác giả chứng minh bằng rất nhiều lập luận đáng suy ngẫm. Khao khát được tự do và vượt thoát là điểm chung của con người ở mọi thời đại, mọi nền văn hóa. Cảm giác bản thân mênh mang như vũ trụ, tràn đầy tiềm năng và sự tự chủ có sức mạnh động viên to lớn với cá nhân tôi.

Hải Âu

Trong Siêu Nhân Loại, tác giả thường nhấn mạnh ý mỗi chúng ta thường chỉ tập trung lao vào vòng xoáy của vật chất – thứ vốn là ảo ảnh giữa đời thường, mà không bận tâm cải tạo hiện thực của riêng mình. Mỗi người lại có một định nghĩa về hiện thực khác nhau. Định nghĩa về hiện thực của bạn là gì và định nghĩa đó thay đổi như thế nào sau khi bạn dịch Siêu Nhân Loại?

Nhiều năm trước, tôi từng chắc mẩm mình có tư duy “thực tế”, sát với hiện thực cuộc sống. Và “hiện thực cuộc sống” là hiện thực tôi nhìn – nghe – chạm – ngửi thấy. Sau đó, tôi có cú chuyển nhận thức lần một vào ngày hiểu ra rằng: hiện thực khác nhau trong ý thức của từng người. Trước khi biết đến Siêu Nhân Loại, có nhiều tác phẩm điện ảnh và học thuyết khoa học khác đã khiến tôi phải đặt câu hỏi về hiện thực. Nổi bật trong số đó, tất nhiên là series phim kinh điển The Matrix. Tiên đề của hành trình Siêu Nhân Loại cũng như The Matrix, mô tả một hiện thực ảo đã được lập trình mà con người ra sức bám chắc lấy, tự làm cùi mòn đi tiềm năng vô hạn sẵn có trong mình. Đứng trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ AI, đôi khi tôi cũng trộm nghĩ, liệu có khả năng nào con người trên Trái đất là AI bậc cao đang được người ngoài hành tinh thí nghiệm không? Và chúng ta chỉ đang sống trong một ma trận giả lập mà thôi? (cười).

Có một khoảng thời gian dài tôi không còn dám chắc hiện thực là gì và bây giờ là bao giờ. Đến nay, tôi vẫn chưa thể đưa ra lời khẳng định rành rọt nào cho bạn. Song ít nhất tôi đã phát hiện được ở mức này: hiện thực khó định nghĩa còn siêu hiện thực với đa số chúng ta, là chưa thể định nghĩa. Vậy thì chúng ta cứ tạm sống cùng hiện thực mình đang tri nhận, nhưng đồng thời cũng sẵn lòng mở trí để tin rằng, hiện thực ấy có thể là đồ giả. Mọi sướng vui buồn khổ có thể đều chỉ là mơ. Một giấc mơ sáng suốt.

Ở phần cuối sách, Deepak Chopra đem đến cho người đọc một liệu trình để thức tỉnh tâm trí trong 31 ngày. Khi dịch xong sách, bạn có thử thực hiện liệu trình này?

Tôi không đợi kết thúc bản thảo dịch mới thực hành liệu trình Một Tháng Thức Tỉnh. Khi còn đang làm việc ở phần một cuốn sách, tôi đã in riêng liệu trình này ra giấy và đặt thường trực ở nơi dễ thấy nhất trong nhà để nhắc nhở mình thực hành. Có thể nói rằng phần mô tả của mỗi ngày trong liệu trình là tinh túy của cả cuốn sách được chắt lọc.

Tôi thích bài tập của toàn bộ 31 ngày; mỗi bài tập lại mang đến những trải nghiệm đặc biệt riêng. Thế nhưng nếu buộc phải chọn ra một ngày ấn tượng nhất, có lẽ tôi sẽ chọn ngày thứ 16 – ngày tác giả nói về giấc mơ sáng suốt và so sánh hiện thực hằng ngày là một giấc mơ sáng suốt. “Tưởng tượng xem, đây chỉ là một giấc mơ, và tôi chỉ là kẻ đang mơ”.

Deepak Chopra

Trong Siêu Nhân Loại, tác giả cung cấp rất nhiều câu chuyện, thông tin, những thí nghiệm khoa học thú vị. Đâu là phần khiến bạn thấy bất ngờ và thú vị nhất vì chưa được biết qua trước khi dịch tác phẩm này?

Rất khó để nêu một ví dụ duy nhất, vì có nhiều phần khiến tôi ngạc nhiên xen lẫn thích thú trong quá trình dịch. Tôi đành mượn vô thức bật thật nhanh ra câu trả lời đầu tiên trong tâm trí, nhưng lại có tới hai dữ kiện đồng thời xuất hiện. Thứ nhất là đoạn nói về loài chim hải âu pêtren tuyết – một loài chim hiếm, kiên cường sinh sống ở lục địa Nam Cực hoang lạnh. Trước đây tôi chưa từng biết đến loài chim này. Chúng xinh đẹp theo cách kỳ lạ lắm.

Dữ kiện thứ hai là chi tiết rất nhỏ thôi, nằm phần đầu sách: “Thông tin đến mắt chỉ cho thấy căn phòng bạn đang ngồi có những bức tường tụ vào nhau ở góc phòng, nhưng bạn biết căn phòng này hình vuông, vì vậy bạn nắn chỉnh dữ liệu cho khớp với hiểu biết đó”. Tôi vẫn nhớ như in cảm giác “a ha” khi hiểu được ẩn ý của ví dụ này. Một thông tin tưởng chừng hiển nhiên, các bức tường phòng thường tình sao có thể trông giống góc gì khác ngoài góc vuông được? Nhưng bạn thử làm bài tập này với tôi nhé. Bạn nhìn thật kĩ xem, thực tế ở điểm giao nhau của 3 mặt tường phòng, bạn thấy góc gì vậy? Hoặc bạn có thể phác thảo ra giấy chính xác hình ảnh mắt nhìn thấy để dễ hình dung hơn.

Bật mí với bạn, tôi đã ngỡ ngàng nhận ra hình ảnh thực tế mắt mình nhìn thấy là góc tù, nhưng ý thức lại tự động “điều chỉnh” thông tin ghi được thành vuông cho khớp với thực tế là tôi đang đứng trong một khối hộp lập phương. Thật thú vị phải không?

Deepak Chopra thường được xem là đứng giữa khoa học và tâm linh khi ông dùng nhiều kiến thức khoa học để lí giải vấn đề tâm linh. Những người theo khoa học thuần túy cho rằng sách của ông là ngụy khoa học; tuy nhiên, đứng từ góc nhìn khách quan, sách của ông tạo được ảnh hưởng rộng lớn đến công chúng phổ thông có lẽ cũng đến từ sự kết hợp hài hòa giữa khoa học và tâm linh. Là người dịch quyển sách, là người đã chậm rãi đi cùng quyển sách trong suốt một năm, bạn có thể chia sẻ một đoạn trích trong tác phẩm mà cá nhân bạn cho rằng đó là những dòng đẹp nhất, kết hợp những điều tinh túy nhất từ khoa học và tâm linh trong tác phẩm không?

Tiếp tục là một câu hỏi khó cho tôi vì hầu như ở chương nào của cuốn sách, độc giả cũng có thể tìm được bằng chứng thuyết phục về sự kết hợp khéo léo này. Tôi lại xin chọn một ví dụ ngẫu nhiên bật ra từ vô thức, nằm ở trang 156-157 (Chương 5 – Tâm trí, Cơ thể, Não bộ, và Vũ trụ đều là ý thức biến đổi):

“Thay vì thụ động chấp nhận thế giới thông thường, siêu hiện thực cho chúng ta một lựa chọn mới – coi vạn vật trong vũ trụ đều là những biểu hiện biến đổi của ý thức. Ví dụ, một cái cây thực ra đã được tùy chỉnh sao cho phù hợp với cách con người tiếp nhận nó. Bất kỳ đặc tính nào của cái cây cũng có thể tháo rời khỏi khung nhận thức xác định và gắn vào một khung nhận thức khác, không còn thuộc về con người. Với người mù, màu sắc của cái cây không tồn tại. Với neutrino – một hạt hạ nguyên tử có thể lao xuyên qua Trái đất dễ dàng như giữa khoảng không vũ trụ, độ rắn của cái cây không tồn tại. Nếu bạn bứng cái cây lên Trạm Vũ trụ Quốc tế, trọng lượng của nó biến mất. Nếu so sánh với thời gian hàng tỷ năm để phân rã proton trong hạt nhân phân tử, tuổi thọ của cái cây cũng không còn đáng là bao.

Vạn vật có “tính thực” thông qua phương pháp biến đổi mà ý thức áp dụng. Khi bạn ngủ, toàn bộ thế giới vật chất mờ đi và biến mất. Thế giới ấy vẫn tồn tại nói chung, được duy trì bằng những quy luật của bầu thực tế ảo. Nhưng khi ngủ, bạn thoát khỏi thực tế ảo bằng cách mở rộng trải nghiệm tới một thế giới khác, nơi không phải miền vô thức trống rỗng như con người vẫn tưởng. Chúng ta có thể cảm nhận giấc ngủ sâu như một nhận thức thuần khiết mà không có các kích thích – thật vậy, đó chính là trải nghiệm của những bậc thầy tâm linh, yogi và nhiều dạng thức siêu nhân khác qua hàng thế kỷ. Khái niệm Niết Bàn của Phật giáo gần với trạng thái ngủ say hơn là tỉnh táo, bởi Niết Bàn tái kết nối con người với miền nhận thức thuần khiết”.

Cảm ơn bạn vì những chia sẻ về Siêu Nhân Loại. Chúc bạn sẽ luôn vững bước trên hành trình phát triển bản thân, mở khóa tiềm năng vô hạn trong bạn.

Đọc bài viết

Bookish Best

Nguyễn Hoàng Mai: Tôi muốn viết về những vấn đề gai góc nhất của tuổi trẻ

Published

on

By

Nguyễn Hoàng Mai là tác giả của hai tác phẩm đầy cảm xúc về tuổi trẻ: Đung đưa trên những đám mây (tiểu thuyết, 2018), Bây giờ mình đi đâu (tập truyện ngắn, 2019). Hiện nay, cô đang sinh sống và làm việc tại Tokyo. Tuy đã xa Việt Nam nhiều năm, Hoàng Mai vẫn đọc và thường xuyên theo dõi tình hình văn chương nước nhà. Trong khuôn khổ của giải thưởng Bookist Best 2022, Ban Tổ chức đã có cuộc trò chuyện với Hoàng Mai xoay quanh việc đọc và sáng tác văn chương.

Chào Nguyễn Hoàng Mai. Cảm ơn Mai vì đã nhận lời phỏng vấn của Bookish về những tác phẩm bạn đã đọc năm 2022 nhân dịp mùa giải Bookish Best lần II đang diễn ra. Bạn nghĩ gì về giải thưởng Bookish Best?

Được biết Bookish Best là một giải thưởng văn học mới được thành lập tròn một năm nhưng mang nhiều ý nghĩa đặc biệt đi cùng với cộng đồng – hầu hết là những bạn trẻ thực sự yêu, dành nhiều tâm huyết với sách vở. Bookish Squad có hơn 13.000 thành viên mà tôi cũng “nằm vùng” trong số đó. Ở giải thưởng này, độc giả những người trực tiếp thưởng thức văn học được cất lên tiếng nói, tự tay bình chọn cho những tác phẩm gần với trái tim của mình nhất.

Là một người viết trẻ, tôi mong sẽ có nhiều sân chơi hơn nữa, để thị trường sách Việt Nam thêm sắc màu, sôi động, gần hơn với độc giả trẻ tuổi, và dòng chảy xã hội.

Năm nay, Mai có theo dõi tình hình xuất bản trong nước không? Có cuốn sách của tác giả Việt Nam nào khiến bạn ấn tượng không?

Do sống học tập ở Nhật nhiều năm, tôi đã không có cơ hội đọc văn học trong nước trong một khoảng thời gian dài. Sau này khi có dịp tiếp xúc trò chuyện, với những cây bút trẻ có tiếng như chị Nguyễn Dương Quỳnh, Huỳnh Trọng Khang, Thái Cường, Phát Dương… Ở họ, tôi đều cảm nhận sự nghiêm túc, trăn trở với nghề. Những bạn văn tôi được tiếp xúc đều sáng tạo, nghị lực, khiến tôi học hỏi nhiều.

Về văn học trong nước đã đọc gần đây tôi ấn tượng với tập truyện Chuyến Bay Tháng Ba của tác giả Lê Khải Việt, Chopin biến mất của Hiền Trang. Và đặc biệt tôi quá yêu mến Đà Lạt bàng bạc, ẩn hiện trong cuốn Thành phố những lục địa bay của tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên.

Là một người viết, khi đọc tác phẩm Thành phố những lục địa bay, bạn có học hỏi được gì về kĩ năng viết không?

Như đã nói, tôi thích chất thơ man mác lạnh như sương mù trên đỉnh núi, phảng phất trong từng câu văn, nhịp điệu của cuốn sách này.

Từng câu chữ không hề nhắc đến danh từ Đà Lạt, nhưng thành phố ấy vẫn hiện ra trong từng lát cắt mỏng, rồi nhẹ nhàng len lỏi vào lòng người như những hơi thở nhẹ. Vì tôi luôn nghĩ cuốn sách đẹp nhất, ý nghĩa nhất không phải nằm im lìm trên những ngôn từ trang giấy, mà sẽ không ngừng sinh sôi nảy nở trong tâm trí người đọc theo trải nghiệm của cá nhân nên rất ấn tượng với tập truyện mỏng của anh Nguyễn Vĩnh Nguyên.

Thành phố những lục địa bay là một thực hành của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên về việc phá vỡ ranh giới những thể loại, bất phân giữa hư cấu và phi hư cấu. Mai nghĩ gì về thực hành này? Bạn có cảm hứng muốn thực hành thủ pháp này cho những truyện sắp tới của mình không? Nếu có thì đâu sẽ là địa danh được bạn chọn lựa?

Tôi cảm nhận Thành phố những lục địa bay là cuốn sách rất đặc biệt bởi lẽ nó đã phá vỡ ranh giới của các thể loại. Độc giả khi lần đầu bước vào thế giới trong sách sẽ đầy nghi hoặc: Truyện ngắn? Tất nhiên không rồi. Hư cấu? Không hẳn, cũng không phải tản văn hay phi hư cấu. Những nhà nghiên cứu sẽ không gọi đó là Haiku hay truyện cực ngắn dù rất gần trong bản chất.

Và đáp án dành cho mỗi người có lẽ là, thực ra không cần phải quá chú trọng vào ranh giới giữa các thể loại văn học. Giữ trí tưởng tượng của chúng ta vượt qua những khuôn khổ, vượt qua những giới hạn, biết đâu đó là vùng đất văn chương thực sự?

Tôi được tác giả tặng tập truyện này trong một chuyến về Việt Nam chơi, khi đang ấp ủ viết cuốn truyện mới về thành phố tôi đang sống – Tokyo. Đó là tuổi trẻ hoang hoải đầy rực rỡ và cũng nhiều vấp ngã tôi đã trải qua, và vẫn muốn khám phá thêm. Giống như một cái Duyên vậy, nên tôi cũng muốn học hỏi một chút thôi vào tập truyện mới của mình. Không, tôi sẽ không phân tích bút pháp cụ thể để cố “bắt chước” cho giống đâu, mà muốn mình học tập từ trong vô thức khi đã gấp sách lại, để thời gian lắng xuống. Tập truyện mới về Tokyo của tôi sẽ đi giữa vùng đất của những địa danh hiện thực và trí tưởng tượng.

Mai có thường xuyên theo dõi tình hình xuất bản ở Nhật không? Nếu có thì năm vừa qua, có cuốn sách nào mới xuất bản khiến bạn ấn tượng không? Bạn có nhận thấy thị trường sách ở Nhật có điểm nào hay mà thị trường Việt còn đang thiếu không?

Tôi rất thích không gian của những chuỗi nhà sách lớn, lâu đời của Nhật như Maruzen, Kinokuniya, Junkudo… Mỗi khi đến đó tôi đều cảm nhận được văn hóa đọc, niềm say mê với sách của người Nhật không thể diễn tả thành lời. Nhà sách là nơi những cuốn sách ấy thực sự sống, theo kịp với những thay đổi của xã hội theo đúng nghĩa đen.

Vì yêu sách nên mỗi năm tôi đều theo dõi hai giải thưởng văn học uy tín, lớn nhất của Nhật Bản cũng đồng thời tượng trưng cho hai trường phái văn học Nghệ Thuật và Đại Chúng là: Giải thưởng Akutagawa và Naoki.

Tôi thích hầu hết những tác phẩm bước ra từ giải thưởng này như: Hibana (2015, tác giả Naoki Matayoshi), Konbini ningen (2016, tác giả Sayaka Murata)… nhưng gần đây, đặc biệt ấn tượng cuốn tiểu thuyết tâm lý ngắn Oishigohan ga taberaremasu youni (tạm dịch: Để thưởng thức được thức ăn ngon) của nữ tác giả 34 tuổi Junko Takase, vừa mới đoạt giải Akutagawa năm 2022. Tôi nghĩ sự phức tạp của tính cách và mối quan hệ chân thành, vừa đối nghịch vừa gắn bó giữa bộ ba nhân vật, được miêu tả tinh tế thông qua những món ăn trong cuốn sách này sẽ chạm đến trái tim của nhiều độc giả trẻ tuổi.

Được biết bạn đang viết một tập truyện ngắn xoay quanh đời sống du học sinh ở Nhật và có dự định xuất bản thời gian sắp tới. Bạn có thể chia sẻ một chút điều mình tâm đắc về tác phẩm này không?

Như đã đề cập ở trên, tập truyện ngắn tôi đang viết mang tên Tokyo, khi những cánh hoa anh đào rơi. Tôi đã muốn khai thác sâu hơn những vùng đất mới mẻ, đầy thách thức chưa nhiều người tìm đến, những vấn đề gai góc nhất của tuổi trẻ như: tình một đêm, xăm mình…

Tập truyện này gồm 10 truyện ngắn nhỏ, về cuộc sống, tình yêu, tâm tình của những người trẻ ở Nhật Bản. Ở đó, tôi đã muốn khắc họa một thế giới nơi tuổi trẻ có những niềm đau, cô đơn nỗi sợ hãi, nhưng cũng sẽ tràn đầy tình yêu, sự tươi sáng, ấm áp trên nền thành phố nổi tiếng của Nhật Bản như: Tokyo, Fukuoka, Kyoto.

Cảm ơn Mai đã dành thời gian để tham gia cuộc trò chuyện với Bookish Best.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Nhật Chiêu: Truyện tuyệt ngắn không dễ viết

Published

on

By

Lời tiên tri của giọt sương (xuất bản năm 2011) do nhà văn Nhật Chiêu chấp bút là tập truyện tuyệt ngắn và truyện một câu đầu tiên được xuất bản ở Việt Nam. Qua đó, Nhật Chiêu cũng là một trong những nhà văn tiên phong cho thể loại này ở Việt Nam. Bookish đã có cuộc trao đổi với nhà văn về truyện tuyệt ngắn.

Tại sao ông lại viết truyện tuyệt ngắn?

Có người gọi truyện tuyệt ngắn và truyện một câu là Hint fiction, tức là truyện có số lượng trên dưới khoảng 25 từ, là loại truyện khơi gợi một cái gì lớn hơn và phức tạp hơn với số lượng chữ ít ỏi nhất. Trong văn chương, tôi thích những gì khơi gợi hơn là những gì thuyết lí, phô bày lộ liễu. Sự khơi gợi sẽ đưa ta đến chân trời khoáng đạt, còn sự phô bày lộ liễu chỉ là hủy diệt mà thôi.

Có nhiều ý kiến cho rằng khi chuyển sang viết truyện tuyệt ngắn là ông đang chọn hướng đi dễ dãi với mình hơn, ông viết truyện tuyệt ngắn vì ông không thể viết những truyện dài. Ông nghĩ sao về ý kiến này?

Truyện một câu không hề dễ như người ta tưởng tượng. Bởi vì ngay cả trên thế giới, dù thể loại này đã tồn tại trước Việt Nam thì số lượng tác giả thành công cũng như tác phẩm thành công là rất hiếm. Nếu hỏi truyện một câu trên thế giới mà được nhớ đến và thường được trích dẫn thì chỉ có một, hai trường hợp. Trong đó, có Augusto Monterroso - tác giả Guatemala với truyện một câu: Khủng long gồm 8 chữ chữ như sau: “Thức dậy, con khủng long vẫn còn đó.” Truyện này được nhiều nhà văn lớn, trong đó có Italo Calvino ca ngợi hết lời, là đề tài cho nhiều tiểu luận khác nhau. Nếu truyện một câu là dễ dàng thì thử hỏi vì sao ít truyện một câu đạt được thành tựu đến thế. Người ta vẫn nói thơ Haiku dễ làm nhưng thật ra có bao nhiêu bài thơ Haiku được nhớ đến như là tuyệt tác. Tại sao quanh đi quẩn lại cũng chỉ là Basho, Issa, Buson, Shiki? Cho nên hãy cứ tạm xem truyện một câu hoặc hai, ba câu cũng giống như trường hợp thơ Haiku. Dễ hay khó không chắc gì quyết được và cũng chẳng cần tranh luận. Ai cảm thấy nó dễ thì cứ thử viết chơi vài trăm truyện. Thế thôi, bao giờ cũng vậy, dễ nhất là nói. Làm lại là một chuyện khác.

Trong văn học của nhiều nước vẫn luôn luôn tồn tại những nhà văn chỉ viết truyện ngắn. Như vậy, ngắn hay dài không phải là thước đo và thật sự càng ngày càng có xu hướng nhiều nhà văn viết truyện tuyệt ngắn. Tôi có rất nhiều tập truyện tuyệt ngắn của nhiều nhà văn loại này như Augusto Monterroso hoặc như tập truyện Hint fiction do Robert Swartwood tuyển của nhà xuất bản lừng danh Norton, hoặc các tập sách mang tên Flash fiction, Micro fiction…Mỗi ngày tôi đều đọc một vài truyện tuyệt ngắn hoặc truyện một câu của các nhà văn trên thế giới mà tôi đã may mắn sưu tầm được và càng đọc tôi càng thấy khó viết. Đó là ý kiến của tôi.

Là người đi tiên phong ở thể loại truyện tuyệt ngắn, trong quá trình viết, điều gì khiến ông cảm thấy khó khăn nhất?

Do thói quen thường xuyên đọc thơ Haiku và công án Thiền tông, đôi khi chỉ có vài từ hoặc chỉ duy nhất một từ, tôi từng ao ước trong thể loại truyện này cũng có những hình thức tương tự. Nhưng vấn đề là làm sao để cho dài ngắn thế nào thì truyện cũng phải có cái gọi là diễn biến truyện, nghĩa là có tính chất tự sự. Muốn vậy, phải có phương pháp, có cách sử dụng ngôn từ đặc biệt. Nếu không thì mọi sự sẽ thành nhảm và ai cũng làm được dễ dàng. Ví dụ: truyện có chữ Đất sẽ chẳng có nghĩa lí gì nếu như nó không có một tiêu đề thích hợp để gợi lên một vận động của truyện. Tiêu đề ở đây là Sử thi nàng Sita và “toàn văn” của truyện nhờ cái tiêu đề đó mà phát tiết ý nghĩa.

Khó khăn lớn nhất theo tôi vẫn là làm sao để nó đến được với người đọc một cách thuyết phục. Điều này không một tác giả nào có thể nắm chắc. Có những cái thuộc về thói quen, thành kiến, tầm đón đợi, thiếu thông tin… sẽ là những chướng ngại cho việc người đọc bước vào văn bản mà không e dè. Còn trong khi sáng tác, tôi cảm thấy mình quen thuộc với thể truyện tuyệt ngắn như thể có “nhân duyên gắn kết” - theo cách nói của Hoàng Lương, người viết lời bạt cho Lời tiên tri của giọt sương.

Ảnh: Thiên Kim
Bài viết: Kodaki

Đọc bài viết

Cafe sáng