Phía sau trang sách

Bước tới thảnh thơi: Tự do khởi nguồn trong khuôn khổ là tự do vững chãi

Published

on

Phải đọc Bước tới thảnh thơi, hay phải đi xuyên suốt các tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong cái tâm không chướng ngại, có như vậy mới đủ kiên nhẫn để cảm nhận từng ý nghĩa, từng lợi ích sâu xa từ một cuốn sách có vẻ dành cho người xuất sĩ (xuất gia), hơn là hướng về đại chúng.

Tạo năng lượng trong những điều thường ngày

Người đi tu tạo ra năng lượng thông qua các sinh hoạt thường nhật. Bước tới thảnh thơi có ba nội dung chính nhằm miêu tả cuộc sống thường ngày nên có của một vị xuất sĩ.

Đầu tiên là Thi kệ

Đánh răng
Đánh răng và súc miệng
Cho sạch nghiệp nói năng
Miệng thơm lời chánh ngữ
Hoa nở tự vườn tâm

Đầu tiên là Thi kệ, công cụ giúp khởi tâm đúng đắn trước khi sinh hoạt, để duy trì chánh niệm được lâu hơn.

Chánh niệm là khả năng tập trung vào một hành động đang diễn ra, mà không suy nghĩ vẩn vơ bên này, bên kia. Giỏi hơn thì người duy trì chánh niệm nên có khả năng quán niệm về hành động mình đang làm, để có thể hoàn thành nó một cách đúng đắn và tạo tác được niềm vui trong quá trình sinh hoạt.

Đơn cử như việc đánh răng, mục đích là để làm sạch bộ hàm và giúp khởi động một ngày mới tỉnh táo, thì nên đánh sao cho kĩ, cho nhẹ nhàng, cho ân cần; dành hết sự trân quý cho bộ hàm đã giúp mình nhai nhỏ thức ăn mỗi ngày, giúp mình cười duyên, cho cái lưỡi đã giúp mình nói những lời ái ngữ; thay vì suy nghĩ lan man như sau khi đánh răng thì nên ăn gì, hoặc sáng nay có cuộc họp nào không.

Hãy dành hết tâm trí để thực hiện những sinh hoạt này như lúc bản thân dành hết tâm trí khi ở bên người mình thương vậy. Bởi nếu thực sự tập trung và hiểu được ý nghĩa việc mình cần làm, thì làm sao nghĩ đến việc khác được.

Đó gọi là chánh niệm. Năng lượng an lạc khởi nguồn từ đây.

Có gần 100 bài thi kệ trong Bước tới thảnh thơi, bổ trợ cho người xuất sĩ khởi niệm về một sinh hoạt thường ngày một cách đúng đắn.

Thứ hai là Mười giới mà một vị Sa di (xuất sĩ) bắt buộc phải giữ gìn. 

Hãy xem về giới thứ tư: Thực tập chánh ngữ và lắng nghe

Vì lời nói thiếu chánh niệm sẽ gây khổ đau cho nhiều người, gây đổ vỡ, gây chia rẽ, gây căm thù, bạo động nên nguyện không nói dối, không phê bình, lên án, cũng không kể ra lỗi lầm của ai. Người xuất gia sẽ nguyện thực tập lắng nghe với tâm từ bi, tôi hiện diện ở đây là vì bạn, chỉ để mang đi những buồn phiền, trăn trở đang tồn tại trong lời người nói.

Giúp người khác thức tỉnh là một quá trình của duyên hội tụ, nên lời nói thẳng thắn, xát muối thường chỉ để lại nhiều day dứt mà không có tác dụng chữa lành ngay tức khắc.

Khi nói về đạo Phật thực hành, ta sẽ nói về sự hiểu biết đi kèm với sự thực tập bằng tâm từ bi. Khi phát nguyện giữ giới, người xuất sĩ từ đầu đã quán triệt triết lý duyên sinh duyên khởi và nguyện giữ giới để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn đó hoặc không vẽ cái vòng đó cho người khác. Hiểu về nguồn gốc của khổ đau nên nguyện không sinh ra khổ đau cho chúng sanh. Công dụng của đạo Phật thực hành nằm ở đây.

Cho nên người ta mới thấy tự do mà chịu đưa mình vào khuôn khổ.

Tu tập cao hơn thì có thể thực tập chỉ trì. Nghĩa là khi sắp phạm giới đến nơi rồi, thì biết dừng lại và tiếp tục hành trì. Khả năng ý thức tập khí bên trong trỗi dậy và chuẩn bị tác động vào lời nói của mình, sau đó bình tĩnh dừng lại và duy trì việc lắng nghe người kia là một kiểu tay nghề điêu luyện của người chọn giữ giới. Phải kiên tâm tập hành thiền, tập giữ chánh niệm một thời gian dài.

Thứ ba là Bốn mươi mốt thiên uy nghi dành cho vị xuất sĩ thọ giới Sa di.

Nếu ngồi ăn một quả quýt trong chánh niệm, thì đâu là sự khác biệt giữa người có tu học và người chưa tu học? Vì đâu đó trong số đại chúng, vẫn có nhiều người ăn quýt chỉ để ăn quýt mà thôi, tận hưởng, không suy nghĩ đến việc khác, cũng không cần học về đạo mới biết cách ăn như vậy. 

Tuy nhiên, giữa người ngồi ăn quýt trong tư thế lịch sự, vững chãi, khoan thai và người ngồi gác một chân lên ghế, thì dễ phân biệt rồi đúng không?

Thiên uy nghi là vẻ đẹp của chánh niệm, biểu hiện trong tư thế, động tác, ngôn từ, và cách xử sự. Người thực tập thiên uy nghi sẽ tạo tác thêm nhiều kiên cố và ung dung trong từng động tác chánh niệm. Bốn mươi mốt thiên uy nghi này không phải thứ bạn có thể “nuốt ngay” như kiểu mì ăn liền. Đây là kiểu công thức, tuyệt chiêu dành cho những lúc cần đến, thì giở ra mà học.

Thiên uy nghi thứ bốn mươi: Làm mới

Trong tiến trình của một mối quan hệ, hay là của vạn vật, sẽ có giai đoạn đóng băng trước khi thoái trào. Làm mới là một sự chủ động, khi người xuất sĩ nhận ra giữa mình và một vị sư muội/sư huynh kia đang có sự “lăn tăn” dẫn đến khó mà cùng nhau tu học.

Vậy mới nói rằng đời sống tu sĩ đóng khuôn trong giới luật và uy nghi, xa rời thú vui tiêu khiển, đâu có nghĩa là buồn chán và lạc hậu. Uy nghi thứ bốn mươi chỉ rằng, khi biết người bạn đồng tu của mình có chút giận hờn, hiểu lầm, hoặc làm sai quấy, thì người xuất sĩ nên tìm cách giãi bày ngay với người bạn này, trong vòng bảy ngày nếu sự việc vẫn chưa êm xuôi, cần thông báo đến tăng thân trong tu viện để có biện pháp kịp thời.

Vậy giãi bày như thế nào cho khéo léo? Giãi bày như thế nào để không tạo thêm sân si, đổ vỡ?

Người tu học sẽ dùng sự hiểu biết và phân tích sâu của mình để khởi tâm chân thành và từ bi để làm theo 3 bước như sau: Công nhận, khen ngợi người bạn kia – Tự kiểm điểm những thiếu sót của chính mình – Nói ra những khổ tâm mà mình đang chịu đựng. Rồi kết luận bằng cách đề nghị hoặc nhờ vả người kia tiếp tục tu tập có hợp tác cùng nhau.

Đời sống thế tục cần bạn tranh thủ nghỉ ngơi mỗi khi được ở một mình, tái tạo lại năng lượng đã tiêu hao cho những thời giờ giao tiếp với xã hội. Còn đời sống tu học sẽ dạy bạn cách phát triển và nuôi dưỡng năng lượng tâm linh trong từng thời khắc của cuộc sống; cách bảo toàn sự an lạc khi gặp phải những bực dọc, giận hờn, lo toan, si mê trong công việc và các mối quan hệ.

Có phải đại đa số chúng ta đều tìm được công việc mình yêu thích, để có thể sống trọn từng ngày? Hay đại đa số chúng ta, đều có thể tránh né được những điều kém may mắn, phật lòng? 

Người viết nghĩ lợi ích của Bước tới thảnh thơi chính là ở đây. “Cầm tay” chỉ ngay phương pháp tu tâm dưỡng tính mà bạn có thể áp dụng tại nhà. Và vì sao cuốn sách này nên được gọi là sách gối đầu giường của tất cả mọi người.

Lời khuyến khích dành cho người tu học

Người ta hay nói rằng

Nhất niên Phật hiện tiền
Nhị niên Phật ngoài hiên
Tam niên Phật thăng thiên

Ý chỉ việc học lúc nào bắt đầu cũng thật nhiều thôi thúc, nhiều sáng suốt nhưng về sau thì động lực càng vơi dần, kiến thức nhiều không biết vận dụng, tổng hợp cũng dẫn đến ngu muội. Lúc này nên quay về quán chiếu lại những hạt giống ban đầu, để soi rọi lại lý tưởng ban sơ, để xem đường mình đi đang là chính đạo hay rẽ lối nào rồi. Những lời khuyến khích của người đi trước là lời nhắc nhở về những cái cơ bản như vậy.

Trong số những vị xuất sĩ thọ giới Sa di, giới Tỳ kheo,… có bao nhiêu vị bị mắc kẹt trong cấp bậc, chức danh, địa vị, tuổi đạo? Có bao nhiêu vị giữ được tâm vô ngã khi đối tiếp bạn đồng tu và đại chúng? Kiến thức không phải là tuệ giác. Kiến thức không phải sự nghiệp của tu học.

Nếu bạn là một xuất sĩ, bạn sẽ đem lại hạnh phúc cho rất nhiều chúng sanh. Vô số chúng sanh được giải thoát sẽ là mục tiêu của bạn. Nếu bạn là cư sĩ (người tu tại gia), bạn sẽ là người con, người vợ, người chồng, cha, mẹ hoặc bất kỳ vai trò nào đem lại hòa khí và an lành cho gia đình bạn; tất cả bằng sự hiểu biết, tâm từ bi, khả năng lắng nghe và rất nhiều công phu tu tập khác. Tu dưỡng thân tâm cũng là tu dưỡng nguồn năng lượng yêu thương cho những người xung quanh.

Sơ tâm là tâm buổi ban đầu, là một trái tim tốt lành nguyên vẹn, và còn nóng hổi. Vạn vật rồi sẽ thay đổi, nhưng năng lượng chân thành của sơ tâm sẽ lắng đọng hoài trong từng khoảnh khắc yêu thương của cuộc sống. Nhiều vết thương xung đột được chữa lành nhờ sơ tâm, nhiều sai trái được uốn nắn trở lại cũng nhờ sơ tâm. Và đôi khi ta bám víu vào những điều dĩ vãng cũng vì sơ tâm lúc ấy quá mạnh mẽ, quá trong sáng. Trong đạo Phật, sơ tâm còn được gọi là tâm Bồ đề do người tu học phát nguyện gieo trồng và vun tưới tâm yêu thương dành cho mọi loài. Đây được xem là suối nguồn năng lượng, không bao giờ cạn kiệt. Và vì vậy cần phải được người tu học ra sức giữ gìn, chăm nom. Giữ gìn sao cho suối nguồn cứ chảy hoài, phải chảy mạnh hoài để cuốn trôi những tiêu cực, buồn phiền trong đời sống gây ra. Giữ gìn sao cho đầu nguồn không bị ô nhiễm, không vẩn đục để đời sống trong tăng đoàn nhờ mình mà được trong sạch.

Còn rất nhiều lời khuyến học khác mà người viết muốn người cầm sách có thể đọc chậm rãi, đọc mỗi ngày một chút, một ít, rồi ngẫm nghĩ để có thể soi ra cái sơ tâm mà Sư Ông – Thiền sư Thích Nhất Hạnh – người thầy của Tỉnh thức và Yêu thương dành cho đại chúng.

Bước tới thảnh thơi còn một số nội dung khác cũng rất hữu ích dành cho bạn nếu muốn tìm hiểu đầy đủ về đời sống người xuất sĩ, và xem thử mình có thể áp dụng tại nhà cái gì không.

Bài viết dành cho những ai đã cầm cuốn sách trên tay nhưng cảm thấy ngột ngạt hoặc khó hiểu vì những lớp từ ngữ của giới tu học, và cho những ai có ý định tìm hiểu nghiêm túc về dòng tu Tiếp Hiện của các chư tăng Làng Mai. Hy vọng mọi người sẽ thấy dễ dàng tiếp cận Bước tới thảnh thơi hơn, và chắt lọc nhiều điều bổ ích để ứng dụng ngay tại giây phút này.

Hết.

Anh Đào

*

Tắm mình trên dòng sông tuệ giác



*

Đối với các đệ tử của Thầy, cũng như những người yêu kính Thiền sư Nhất Hạnh, ngày 11 tháng 10 hằng năm không chỉ là ngày sinh nhật của Thầy mà còn được biết đến với tên gọi Ngày Tiếp Nối, với ý nghĩa tiếp tục lưu giữ và truyền lại những tư tưởng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho thế hệ sau.

Nhân Ngày Tiếp Nối, các tác phẩm sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh được trưng bày trang kính ở hệ thống Nhà Sách Phương Nam trên toàn quốc. Là đơn vị liên kết xuất bản, phát hành nhiều đầu sách của Thiền sư, Nhà Sách Phương Nam tự hào tiếp nối những giá trị tư tưởng của Thiền sư, từ đó trao truyền từng trang sách thấm đẫm những tư tưởng ấy đến với nhiều đối tượng bạn đọc.

Các tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh mà Phương Nam Book đã xuất bản.
Mỗi quyển sách là mỗi giá trị tư tưởng mà Thiền sư Thích Nhất Hạnh trao truyền cho đại chúng.
Ảnh: Nhà Sách Phương Nam Phú Thọ

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng