Trà chiều

Ảnh hưởng của nhạc Jazz trong văn học Hoa Kỳ cận đại

Published

on

Đầu mùa hè, Newark, thành phố lớn nhất của tiểu bang New Jersey, nơi tôi đang làm việc, có tổ chức trình diễn nhạc “Jazz trong Vườn”[1]. Chương trình này diễn ra hằng tuần và liên tiếp trong sáu tuần lễ. “Vườn” là một khuôn viên nho nhỏ sau lưng thư viện thành phố. Vé vào cửa là ba Mỹ kim, được dùng để ủng hộ thư viện, nơi càng ngày càng vắng khách. Thời buổi này, ba Mỹ kim chỉ mua được một cái hotdog, không đủ nếu mua hotdog ở thành phố New York, thế mà chỉ ngần ấy tiền tôi có thể nghe được một chương trình nhạc đầy văn hóa và rất thanh lịch. Tôi lấy giờ ăn trưa đi xem.

Buổi đầu tiên là buổi trình diễn saxophone. Buổi thứ nhì, Jazz được trình diễn bằng đàn organ bởi một nữ nghệ sĩ người Nhật tên là Akiko. Sân khấu dựng trong một cái lều trắng. Ghế xếp trên sân cỏ dành cho khán giả. Khu vườn có thể chứa ba trăm người một cách dễ dàng. Giai điệu bao trùm không gian, có lúc ngọt ngào, có lúc rộn ràng. Mùa hè miền Đông Bắc có những ngày nắng rất dịu, trời trong xanh với vài cụm mây trắng lững lờ bay. Quanh vườn, hoa Black-eyed Susan màu vàng lẫn với Blazing Star màu tím; hoa Tường Vi đỏ, trắng và hồng chen chúc nở hương ngan ngát, dây trường xuân quấn quít trên tường. Tôi sung sướng hưởng thụ một nét văn hóa đặc thù của Hoa Kỳ, giữa một công viên đầy hoa với một số kiến trúc cổ được xây cất khoảng chừng hơn một trăm năm trước.

Thật tình, tôi không biết nhạc Jazz là gì. Làm sao để phân biệt nhạc nào là jazz, nhạc nào là popular. Có những lúc đang giữa cuộc biểu diễn, người ta vỗ tay tôi cũng vỗ tay theo, nhưng tôi không biết vì sao người ta lại khen thưởng khúc nhạc đó. Khán thính giả chung quanh tôi, khi hứng thú họ lắc lư thân hình, gục gặc đầu, nhịp nhịp chân, hoặc gõ ngón tay nhè nhẹ lên đùi. Hỏi Jazz là gì cũng giống như hỏi vọng cổ là gì. Nghe thì có thể nhận biết ngay nhưng giải thích thật là không dễ. Một vài giáo sư âm nhạc Hoa Kỳ, khi bị bắt định nghĩa nhạc Jazz thì họ thường trả lời: nếu bạn phải hỏi câu đó có nghĩa là bạn sẽ không bao giờ hiểu. Nói thế, nhưng tôi tin một vài nét phác họa có thể giúp những người không chuyên về âm nhạc, nhưng tò mò muốn tìm hiểu về nhạc Jazz, như tôi.

Cuộc trình diễn nhạc “Jazz trong Vườn” buổi thứ nhì do Akiko, một nữ nghệ sĩ người Nhật, trình tấu bằng đàn organ. Bà được đào tạo ở Nhật và chỉ mới sang Hoa Kỳ sinh sống khoảng mười lăm năm nay theo lời mời của một số nhạc sĩ Jazz nổi tiếng ở Hoa Kỳ. Buổi trình diễn lần thứ tư là của một ban nhạc nữ trình diễn nhạc Jazz Latin. Sự góp mặt của những nghệ sĩ ngoại quốc cho thấy nhạc Jazz rất phổ biến, không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn ở thế giới. Người Nhật, vốn phong kín và luôn giữ gìn truyền thống lâu đời. Họ phải rất yêu thích nhạc Jazz, và có nhiều người thưởng ngoạn, đủ để Haruki Murakami, nhà văn Nhật Bản rất được độc giả Việt Nam yêu chuộng, mở một quán nhạc Jazz làm phương tiện kiếm sống trước khi trở thành nhà văn. Theo Murakami, nhạc Jazz ảnh hưởng rất sâu đậm đến sự phát triển tài năng của ông. Ông viết văn hay là nhờ ông nghe và yêu thích nhạc Jazz.

Dù là âm nhạc hay truyện, điều căn bản là nhịp điệu. Văn phong của bạn cần phải có nhịp điệu vững vàng, tự nhiên và đều đặn, nếu không thì độc giả sẽ không tiếp tục đọc tác phẩm của bạn. Tôi học sự quan trọng của nhịp điệu trong âm nhạc – và căn bản là ở nhạc Jazz[2].

Năm 1964, Murakami lần đầu tiên đi xem nhạc Jazz ở Kobe. Buổi xem nhạc sống này để lại ấn tượng rất sâu đậm trong tâm hồn ông. Murakami bảo rằng văn phong của ông ảnh hưởng sâu đậm bởi “repeated freewheeling riffs”[3] của Charlie Parker cũng như vẻ thanh thoát trong văn phong của F. Scott Fitzgerald. Fitzgerald là nhà văn nổi tiếng cùng một lúc với thời kỳ vàng son của nền âm nhạc Jazz, suốt thập niên 1920, đặc biệt với tác phẩm The Great Gatsby. Tác phẩm này được Murakami nhắc đến trong Rừng Na-uy, quyển sách đầu tiên đưa ông đến đài danh vọng. Murakami bảo rằng ông dùng sự luôn luôn đổi mới của nhạc sĩ Miles Davis làm khuôn mẫu cho cách viết văn và tìm cách sáng tạo ra những ý tưởng mới từ những ý tưởng cũ như cách trình diễn dương cầm của nhạc sĩ Thelonious Monk[4]. Charlie Parker, Miles Davis, và Thelonious Monk đều là những danh tài của nền nhạc Jazz Hoa Kỳ.

Murakami khiến người đọc nhìn thấy ảnh hưởng sâu đậm của nhạc Jazz đối với một nhà văn Nhật Bản. Thế thì có lẽ nhạc Jazz cũng có ảnh hưởng đến văn học Hoa Kỳ? Để cảm nhận thêm sâu sắc cái hay trong văn của Murakami, hiểu biết thêm về Jazz, có lẽ cũng là điều có ích? Người dịch truyện của Murakami có cần phải biết nhạc Jazz để lột tả cho hết văn phong của Murakami? Nhưng dẫu nhạc Jazz chẳng có tác động gì đến văn học, hiểu biết thêm về Jazz, một nét văn hóa đặc thù của Hoa Kỳ, cũng có ít nhiều thú vị. Trước khi trình bày với độc giả kết quả cuộc tìm hiểu ảnh hưởng của nhạc Jazz trong nền văn học Hoa Kỳ đương đại tôi xin phép được tóm tắt về tiến trình phát triển của nhạc Jazz ở Hoa Kỳ.

Jelly Roll Morton, một nhạc sĩ Jazz nổi tiếng, năm 1938 đã tuyên bố trong chương trình “Believe it or Not” của Robert Ripley, rằng chính ông ta là người sáng lập ra nhạc Jazz từ năm 1902[5]. Mặc dù cho rằng Morton nói phóng đại, nhiều người cùng thời, trong đó có Louis Amstrong[6], công nhận sự hiện diện của những ban nhạc Jazz ở thành phố New Orleans vào năm 1906, trong các khu phố đèn đỏ. Vào những năm đầu của thế kỷ hai mươi, nhạc Jazz bị xem là sa đọa và thấp hèn. Đó là loại nhạc của Satan. Jazz luôn đi kèm với tình dục, rượu, và các loại ma túy (Jazz, Sex, và Drug). Phim Chicago cho khán giả nhìn thấy phần nào bộ mặt sa đọa đầy dục vọng trong thời kỳ vàng son của nền nhạc Jazz ở Chicago. Sự phát triển mạnh mẽ của nhạc Jazz ở Chicago đã khiến các nhạc sĩ ở New Orleans di cư từ Nam lên Bắc để sinh sống bằng âm nhạc.

Theo Bill Messenger, trong quyển sách audio Elements of Jazz, nhạc Jazz là sự kết hợp của nhạc Ragtime với nhạc Blues dân ca cổ truyền. Blues phát xuất từ những người nô lệ da đen, khi làm việc trong các đồn điền, đốn gỗ, hái bông, hay xây dựng đường rầy xe lửa, họ hát hò đối đáp với nhau để giúp vui quên mệt. Lời hát của họ thường rất đơn giản, phô bày cảm xúc nhất thời. Nhạc cụ của blues cổ truyền rất đơn giản gồm có trống, đàn banjo, mandolin, hay những nhịp vỗ tay. Trong đồn điền khi có tiệc, người ta thường tổ chức cuộc thi cakewalk. Như cái tên của cuộc thi, cái bánh là phần thưởng để ở một cái bàn nào đó. Người dự thi, sắp hàng đi đến nơi đặt cái bánh, trong tiếng nhạc. Ai đi hay nhất, đẹp nhất sẽ được thưởng cái bánh[7]. Loại nhạc dùng cho những buổi cakewalk ban đầu là Ragtime. Ragtime là biến thể của nhạc du nhập từ châu Âu. Rag là biến thể của chữ ragg; Rag biến đổi nhịp điệu và âm điệu của một bài hát, thường thường từ một bài hát thịnh hành, cho đến khi nó thành một bản nhạc mới. Bill Messenger, đưa thí dụ, thay vì đánh nhịp 1, 2, 3, 4, người ta nuốt mất một nhịp 2 hay 3, hay kết hợp 2 với 3 thành một nhịp. Cách biến đổi nhịp điệu này được gọi là “syncopation”. Người ta có thể dùng những bản nhạc cổ điển chính thống và phổ biến, rồi biến đổi chúng thành những bản nhạc khác bằng phương pháp syncopation. Ragtime là lấy theo tên của bản nhạc Maple Leaf Rag của nhạc sĩ Scott Joplin. Ông là một nhạc sĩ da đen, nhà rất nghèo. Bố của Scott Joplin có được cây đàn piano và Joplin học nhạc với một vị mục sư người da trắng trong làng. Được đào tạo bằng nhạc cổ điển Tây phương nên ông rất hổ thẹn không dám sáng tác nhạc Ragtime. Mãi đến khi trưởng thành, ông mới bắt đầu sáng tác Ragtime và sau đó ông mê mải sáng tác không ngừng[8]. Từ Ragtime nghe có vẻ xa lạ, nhưng nếu bạn ở Hoa Kỳ và từng nghe tiếng nhạc phát ra từ những xe bán kem dạo, rất có thể bạn đã được nghe một bản Ragtime.

Scott Joplin qua đời năm 1917, đánh dấu cái chết của Ragtime và sự ra đời của nhạc Jazz. Điệu khiêu vũ swing cũng bắt đầu vào thời kỳ này. Nhạc Jazz được trình diễn để giúp vui khách trên những chuyến tàu trên sông Mississippi đi từ New Orleans đến thành phố Chicago. Các ban nhạc Jazz trình diễn trên các chuyến tàu để phục vụ khách đi thuyền. Cũng trong năm 1917, máy thâu đĩa nhạc được sáng chế, và những bản nhạc với nốt nhạc được in ra trên giấy. Một ban nhạc Jazz mà các nhạc công đều là người da trắng lấy tên là Original Dixieland Jass Band bắt đầu thâu đĩa nhạc đầu tiên, càng làm nhạc khiêu vũ swing trở thành cơn sốt của thời đại. Năm 1920, theo sử gia James Lincoln Collier, nhạc Jazz trở thành loại nhạc ai cũng thích cũng biết và người ta bắt chước nhạc jazz, sáng tác và trình diễn khắp nơi[9].

Những năm đầu của thập niên hai mươi, nhạc Jazz luôn luôn ở giữa cuộc giằng co của hai phái. Một bên xem Jazz là nhạc nghệ thuật; bên kia xem thường giá trị của Jazz và cho đó chỉ là nhạc giải trí. Năm 1922, Fitzgerald đưa một xấp bản thảo cho Marx Perskin. Theo Bill Mesenger, Fitzgerald không biết đặt tựa đề là gì nên gọi đại là Tales of the Jazz Age. Cái tên Jazz Age xuất phát từ Fitzgerald góp phần thay đổi địa vị của Jazz trong mắt các nhà phê bình nghệ thuật. Năm 1924, Paul Whiteman đưa ban nhạc Jazz vào trình diễn ở thính phòng Aeolian Hall của thành phố New York. Nhạc Jazz được sáng tác và trình diễn với cấu trúc và hòa hợp của dàn nhạc giao hưởng. Nhiều nhạc sĩ tài hoa gia nhập dàn nhạc của Paul Whiteman trong đó có Bix Beiderbecke. Năm 1928, Beiderbecke nổi tiếng với sự trình diễn thành công bản nhạc Concerto in F của nhạc sĩ Gershwin. Cuộc đời của Beiderbecke được Dorothy Baker tiểu thuyết hóa trong tác phẩm Young Man with a Horn và tác phẩm này được dựng thành phim.

Sự thành công rực rỡ của Louis Amstrong khiến giới âm nhạc chú ý đến những nhạc sĩ Jazz người da đen nhiều hơn. Duke Ellington là một trong những nhạc sĩ thành công này. Jazz phát triển huy hoàng từ năm 1917 cho đến năm 1929 thì vỡ tan theo bong bóng của thị trường chứng khoán. Nền kinh tế suy sụp (người ta vất vả kiếm sống, không thiết đến chuyện đến thính phòng nghe nhạc và khiêu vũ) khiến các ban nhạc Jazz phải giải tán.

Giữa thập niên ba mươi, thế hệ trẻ lớn lên và tìm kiếm dấu ấn âm nhạc của họ. Benny Goodman, người của thế hệ mới, được mệnh danh là ông Hoàng của nhạc Jazz. Năm 1938, Goodman đưa dàn nhạc Jazz của ông đến trình diễn ở nhạc viện Carnegie Hall, một trong những nhạc viện danh giá nhất Hoa Kỳ và thế giới.

Vào thời kỳ thế chiến thứ Hai, các ban nhạc Jazz lớn lại thêm một lần yểu mệnh. Charlie “Bird” Parker, nhạc sĩ saxophone, người luôn tin tưởng ông là nhạc sĩ của nghệ thuật, thích nhạc cổ điển và rất muốn học sáng tác nhạc. Tuy nhiên, bạc phúc, ông nghiện bạch phiến và qua đời ở tuổi 34 năm 1955. Cùng thời với Parker là Thelonious Monk (dương cầm), Miles Davis (trumpet), và John Coltrane (saxophone). Đây là những tên tuổi lừng danh của nền nhạc Jazz được nhiều người trên thế giới yêu mến trong đó có nhà văn lừng danh Murakami. Tất cả những chi tiết nói trên tôi tóm tắt dựa vào bài tiểu luận Jazz của Terry Teachout[10].

Trở lại với Bill Messenger, sự hình thành và phát triển của nhạc Jazz được ông thuyết trình trong quyển sách Elements of Jazz. Tiến trình của nền nhạc Jazz có thể nói vắn gọn như sau: Đầu tiên là nhạc blues dân ca cổ truyền kết hợp với nhạc châu Âu thành Ragtime. Ragtime phát triển rồi suy tàn. Nhạc Jazz trở nên hưng thịnh, Blues được trình diễn hầu như độc quyền bởi các giọng ca nữ. Nhạc Swing ra đời phát triển như một cơn bão, đến thể loại nhạc Boogie Woogie, đến những ban nhạc Blues hiện đại và dàn nhạc rất đông người, đến nhạc Be-bop là một hình thức phản kháng một cách ôn hòa đối với sự thịnh hành của Swing, sau đó đến nhạc Jazz hiện đại từ thập niên năm mươi cho đến thập niên chín mươi. Ngày nay tuy nhạc Jazz hiện đại vẫn còn có khán giả, blues kết hợp với rock biến thành Jazz fusion và Rock’n’Roll.

Bên cạnh Jazz âm nhạc của Hoa Kỳ, Haruki Murakami còn ngưỡng mộ văn của Fitzgerald. Fitzgerald thuộc về “The Lost Generations,” cùng với Ernest Hemingway, Gertrude Stein, Cole Porter (nhạc sĩ Jazz chuyên về dương cầm), Josephine Baker (nghệ sĩ trình diễn) và các nhạc sĩ Jazz khác đã sang Paris sinh sống vì cuộc sống ở Paris ít đắt đỏ hơn cuộc sống ở Hoa Kỳ, nhưng điều chính yếu là các nhạc sĩ jazz, phần lớn là nhạc sĩ da đen, cảm thấy nơi đây họ có tự do sáng tác, tự do trình diễn và không bị kỳ thị như ở Hoa Kỳ. Louis Amstrong cũng từng sang Paris trình diễn. Nhạc Jazz được các nhạc sĩ da đen đặc biệt yêu mến vì đây là lãnh vực mà họ được tự do biểu lộ tính chất cá nhân bằng cách trình diễn.

The Great Gatsby (1925), Tales of the Jazz Age (1922), The Flappers and Philosophers (1921) là những tác phẩm của F. Scott Fitzgerald có liên quan đến nhạc Jazz. Cái ảnh hưởng của Jazz trong tác phẩm của Gatsby không rõ rệt lắm. Ở truyện The Great Gatsby, lúc mở đầu buổi dạ hội thứ nhì, Gatsby mời Daisy và chồng của nàng đến dự, Fitzgerald viết:

Có tiếng bùm bùm của trống bass, và giọng của vị nhạc trưởng thình lình vang vọng ở vườn hoa. “Kính thưa quí vị,” ông nói. “Thể theo lời yêu cầu của ông Gatsby chúng tôi sẽ trình diễn tác phẩm của nhạc sĩ Tostoff, người đã gợi chú ý ở Carnegie Hall vào tháng Năm vừa qua. Nếu quí vị có đọc báo, quí vị ắt biết tin này nóng sốt biết dường nào. Ông ta mỉm cười nhạo báng, và nói thêm: “Thật là nóng hổi!” khiến cho mọi người cười vang. “Tên nhạc khúc này là,” ông ta nói thêm đầy mời mọc, “LỊCH SỬ JAZZ CỦA THẾ GIỚI của nhạc sĩ Vladimir Tostoff.”[11]

Chỉ mang chữ Jazz vào truyện thì không thể nói là chịu ảnh hưởng của nhạc Jazz. Flapper cũng là một danh từ thường dùng trong thời kỳ nhạc Jazz, dùng để chỉ một kiểu mẫu của phụ nữ theo thời trang Âu châu, tóc ngắn kiểu pompei (bom bê), đội mũ nồi, váy ngắn ngang tầm đầu gối, trang điểm đậm, thích nhạc jazz, hút thuốc, lái xe, xem nhẹ quan hệ tình dục, không quan trọng chuyện hôn nhân. Tóm lại, là những cô gái mệnh danh là yêu cuồng sống vội. Truyện của Fitzgerald, nếu có ảnh hưởng của nhạc Jazz, thì đó là những truyện miêu tả đời sống xã hội với những cuộc hôn nhân phù phiếm, cách sống xa hoa, như chính cuộc hôn nhân của F. Scott với cô vợ Zelda. Truyện ngắn The Offshore Pirate trong tuyển tập The Tales of the Jazz Age tôi thấy có chút ít hơi hướm của nhạc Jazz, Blues thì đúng hơn. Truyện nói về một cô gái trẻ và đẹp đang ở trên một du thuyền. Gia đình cô chuẩn bị mai mối gả cô cho một chàng trai con nhà giàu nào đó nhưng cô muốn bỏ trốn. Cô muốn tự tìm cho mình một anh chồng phiêu lưu và lãng mạn. Giữa lúc cô đang nghĩ ngợi thì thuyền của cô gặp một chiếc thuyền nhỏ hơn. Những người chèo thuyền là người da đen, và họ hát những câu hát rất hay khi họ chèo thuyền. Thuyền họ song song và cặp sát thuyền cô. Người trưởng toán là một anh chàng trẻ tuổi khá đẹp trai, dĩ nhiên là da trắng, tuyên bố anh ta là trưởng đoàn hải tặc và họ chiếm thuyền của cô. Chuyện rất thơ mộng và kết cuộc rất đẹp nên chẳng có gì đáng để nói, ngoại trừ đoàn hải tặc này vốn là một ban nhạc jazz.

Từ phía dưới bỗng dưng vọng lên giọng hát trầm trầm. Nhóm người da đen đã tụ tập lại trên khoang tàu và giọng hát của họ to dần lên một điệu nhạc khắc khoải hòa quyện nỗi buồn phiền bay về hướng mặt trăng. Ardita nghe như bị mê hoặc.

Ồ xuống đây-
Ồ xuống đây,
Mạ muốn lôi tôi xuống khỏi dòng ngân hà,
Ồ xuống đây,
Cha bảo rằng để ma-a-a-ai
Nhưng mạ cương quyết bữa nay
Vâng – mạ nói bữa nay thì bữa nay!
[12]

Nếu F. Scott Fitzgerald là một trong những nhà văn tiêu biểu cho The Lost Generation thì sau Fitzgerald chừng ba chục năm chúng ta có Jack Kerouac là một trong những nhà văn tiêu biểu cho The Beat Generation. Jack Kerouac có một thời là phóng viên phụ trách mục nhạc Jazz và dĩ nhiên là ông rất yêu thích nhạc này. Tôi có đọc On the Road nhưng không đọc hết vì không tìm thấy sự đồng cảm bởi sự khác biệt giữa nam với nữ, Tây với Đông, và trẻ với già. Kerouac sinh vào năm 1922, xuất bản On the Road vào năm 1954, tức là ông viết quyển truyện này khi ông mới trên dưới ba mươi, quá trẻ so với tôi của ngày hôm nay. Vì đọc chưa hết, và khi đọc tôi chưa có khái niệm gì về nhạc Jazz nên tôi không biết nhạc Jazz đã ảnh hưởng như thế nào trong văn và thơ của ông. Wikipedia có nói rằng ông “muốn được xem là một nhà thơ Jazz thổi những đoạn nhạc Blues dài trong những buổi chiều Chủ Nhật trình diễn nhạc Jazz.” Wikipedia viết thêm:

Nhiều bài thơ của Kerouac được viết như thể cho dòng thơ tuôn chảy tự nhiên, những câu văn không gò bó, kèm thêm những chi tiết của nhạc Jazz và triết lý của Phật giáo. Mexico City Blues, một tuyển tập thơ có nhịp điệu giống như nhạc Jazz. Để bắt chước nhịp điệu của Jazz, Kerouac dùng gạch nối (kéo dài hơn gạch nối bình thường). Thí dụ như đoạn thơ sau:

Everything
Is Ignorant of its own emptiness—
Anger
Doesnt like to be reminded of fits—

Thật tình, tôi không thấy được cái gạch nối dài này nó được thể hiện như thế nào trong nhạc Jazz. Bill Messenger trong Elements of Jazz cũng nói thêm là Jack Kerouac có tổ chức những buổi đọc thơ có đệm nhạc jazz. Cuộc đọc thơ rất hấp dẫn nên thơ ông bán rất chạy. Lời phê bình của Bill Messenger về cả hai nhà văn, Fitzgerald lẫn Kerouac, làm tôi nghĩ: Jazz sells! Dường như hai nhà văn này biết cách lợi dụng chữ Jazz cũng như nhà văn thời bây giờ lợi dụng chữ sex vì biết rằng hễ nói về tình dục là đắt hàng.

John Leland có những nhận xét rất thú vị về tính chất Jazz của Jack Kerouac. Trong bài tiểu luận The Tao Of Orooni ông viết:

“Trong tất cả phong cảnh được nhắc đến trong quyển sách On the Road, không có gì mang nhiều tham vọng hơn thế giới của nhạc Jazz. Không có nhạc Jazz, Sal có thể đã ở nhà và viết quyển truyện The Town and the City, và Dean có thể trở thành diễn viên chầu rìa ở Hollywood hoặc là một chàng điếm đực, luôn ca cẩm là muốn làm đạo diễn.”[13]

Ở một đoạn khác trang 122:

“Những điều anh gán ghép với nhạc Jazz chẳng giải thích gì nhiều về bản thân anh cũng như tác phẩm On the Road.  Bạn không thể ca hát cuốn sách hay nhảy swing với nó. Nói cho chính xác, văn của anh ta viết giống nhạc Jazz như thế nào? Chính bản thân Kerouac cũng thường khi thay đổi trong cái việc tự phong cho văn thơ của mình có nhịp điệu giống như nhạc jazz, đặc biệt là khi nhạc rock bắt đầu làm cho nhạc Jazz bị lu mờ.”

Leland kể rằng Kerouac đã từng muốn đổi tên quyển sách On the Road thành Rock and Roll on the Road để tăng sức bán sách lên gấp đôi[14].

Trong khi đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi như Jazz là gì, nhạc Jazz ảnh hưởng như thế nào trong văn học Hoa Kỳ, và có liên quan hay không đến văn hóa của tôi, một người Việt sống ở hải ngoại; tôi như người đứng trên một vòng quay chậm, lần lượt ngắm nghía một số tác phẩm văn học, chỉ ngắm nghía thôi chứ không có thì giờ và điều kiện để săm soi chi tiết. Nếu tôi không thể mường tượng được tiếng nhạc từ trong văn của ba nhà văn lẫy lừng vừa kể trên thì làm sao bạn đọc có thể mường tượng được tiếng nhạc Jazz của ba nhà văn qua chữ của tôi. Như đã nói, nghe và nhận ra nhạc Jazz dễ hơn và thú vị hơn là đọc bài viết về ảnh hưởng của nhạc Jazz. Nhiều người bạn của tôi tuyên bố là họ rất ghét nhạc Jazz. Tôi cho là họ ghét nhạc Jazz vì thành kiến, vì chưa quen nghe nhạc Jazz. Rất có thể họ không thích tiếng gào thét của người hát Rock-n-Roll, tiếng rên rỉ của Blues, tiếng ồn ào của Swing và Be-bop. Bạn có thể nghe một thể loại của Jazz rồi thích hay không thích chỉ dựa vào thể loại ấy. Điều này cũng đúng nhưng chỉ đúng một phần. Một thể loại của Jazz không hoàn toàn là Jazz, nó là một phần độc đáo của Jazz. Âm nhạc cũng như con người, có lúc hay lúc không hay, tùy theo sở thích của người nghe.  Rất có thể người ta không thích một loại nhạc nào đó chỉ vì không thích hợp với cách trình diễn của một người hay một ban nhạc. Và cũng có thể vì thành kiến. Người ta vẫn quan niệm Jazz đi kèm với sex và rượu tạo thêm phần trụy lạc của giới hưởng thụ.

Bạn có thể tình cờ nghe nhạc Jazz mà không biết đó là nhạc jazz. Nếu có một lúc nào đó bạn dạo chơi trên youtube và tình cờ nghe Trần Vĩnh độc tấu saxophone những bài như Hạ trắng, Đêm đông và bị mê hoặc bởi tiếng kèn đồng khi tha thiết khi bay bổng này thì “Ô la, Ô lê” bạn đã nghe nhạc jazz. Nếu bạn đã từng nghe ca sĩ Bích Chiêu hát bài Nỗi lòng, có lẽ bạn cũng biết nàng hát theo kiểu nhạc Blues của một số nữ ca sĩ da đen Hoa Kỳ. Có khi bạn không thích nhạc Jazz chỉ vì nó khác biệt và xa lạ với bạn. Một cô bạn của tôi phàn nàn, nhạc sĩ saxophone Trần Mạnh Tuấn, trong buổi hợp tác biễu diễn với một ban nhạc Jazz ngoại quốc đã phát ra những âm thanh, chẳng có nghĩa lý gì cả. Cách hát đó được gọi là scat singing. Malcolm Cowley, nhà phê bình nhạc Jazz,  đã ví “những câu thơ của Jack Kerouac trong bài thơ Mexico Blues giống như những câu scat singing được hát rất chậm.”[15]

Jazz xuất hiện trong văn học Hoa Kỳ thường ở hai dạng: Jazz được dùng để tạo không khí hay bối cảnh cho truyện hoặc là cuộc đời của nhạc sĩ Jazz được tiểu thuyết hóa, biến nhạc sĩ thành nhân vật của truyện. Ở dạng thứ hai, có Young Man With a Horn của Dorothy Baker nói về cuộc đời của Bix Beiderdecker; Coming Through Slaughter của Micheal Ondatjee viết về cuộc đời của Buddy Bolden, nhạc sĩ kèn trumpet sống ở New Orlean; Eudora Welty viết về nhạc sĩ Fats Waller trong tác phẩm Powerhouse. Charlie Parker là đối tượng của vài quyển sách như The Color of Jazz của Jon Panish, và The Night Song của Ross Russell. Ở dạng thứ nhất, Jazz là bối cảnh, tạo không khí cho truyện, là chi tiết tăng thêm phần hấp dẫn của truyện. Vài tác phẩm được nhắc đến như là On the Road của Jack Kerouac, The Great GatsbyTales of the Jazz Age của F. Scott Fitzgerald, Jazz của Toni Morrison, và khá nhiều truyện thuộc thể loại trinh thám kinh dị tuy không mấy nổi tiếng. Jazz của Toni Morison là chuyện ba người, lấy bối cảnh là Harlem vào thập niên 1920. Người đàn ông có người tình, mười bảy tuổi, trẻ và đẹp. Đang cơn mê đắm muốn giữ cảm giác mê đắm đó anh ta giết người tình. Người đàn bà lên cơn điên vì ghen đến nhà quàng, đám tang của người tình, dùng dao rạch mặt người chết là lôi thi hài xuống đất. Một số nhà phê bình cố giải thích Jazz xuất hiện như thế nào trong truyện Jazz của bà Morrison, tôi không nhìn thấy gì ngoài những đoạn văn rất đậm chất thơ của bà. Có lẽ cũng như truyện của Fitzgerald, Jazz xuất hiện như một cách sống trụy lạc, đen tối, đau khổ.

Viết về jazz, dù chỉ nhắc nhở thoáng qua hay dùng Jazz làm bối cảnh và tạo không khí truyện, đa số các nhà văn viết với tầm nhìn của người ngoại cuộc. Viết bằng quan điểm của người trong cuộc chỉ có vài nhà văn hiếm hoi, trong đó nổi bật nhất là Ralph Ellison. Ralph Ellison, trước khi trở thành nhà văn ông là một nhạc sĩ Jazz. Theo Peter Townsend, “cả bốn tác phẩm (của Ellison) đều tràn ngập những viện dẫn jazz, và một số tiểu luận của ông về jazz, được chọn đăng trong Shadow and ActGoing to the Territory bao gồm những bài tiểu luận thể hiện rõ ràng tư tưởng độc lập dù những bài tiểu luận này được chọn bởi bất cứ nhà văn nào chuyên viết về đề tài Jazz. Ellison sinh trưởng ở Oklahoma City, học nhạc ở Tuskegee Institute, có nhiều bạn là nhạc sĩ danh tiếng. Tuy chủ ý của ông là học sáng tác theo khuynh hướng nhạc cổ điển châu Âu, ông trình diễn và xem Jazz là một cách sống bình thường của cộng đồng người da đen.”

Quyển sách lưu tên tuổi của Raph Ellison là quyển Invisible Man. Tôi xin mượn nhận xét của Peter Townsend để giới thiệu Ellison.

Invisible Man đặt nhân vật chính vào các tình huống ngặt nghèo khiến cho nhân vật nhận ra rằng cuộc đời của anh ta bao gồm nhiều kiểu bị bóc lột, hết bóc lột này đến bóc lột khác. Qua kinh nghiệm bản thân, nhân vật chính kết luận rằng, một người da đen là một người vô hình trong xã hội, và lý luận rằng có những tình huống mà anh ta không nên hiện diện, thế thì anh tự biến mất, bằng cách chui xuống lòng đất theo đúng nghĩa đen. Đoạn mở đầu và đoạn kết thúc của tác phẩm này đã tiết lộ anh ta sống ở dưới mặt đất, một nơi đâu đó giữa thành phố Manhattan, thắp đèn và sưởi ấm bằng điện câu trộm từ cột điện của thành phố, nhờ vậy mà anh ta có thể nghe mãi nghe hoài lập đi lập lại cái đĩa nhạc ‘Black and Blue’ của Louis Amstrong.

[…] ‘Có lẽ tôi thích Louis Amstrong’ nhân vật tiếp tục nói, ‘bởi vì ông làm ra thơ từ sự vô hình của ông. Tôi nghĩ phải như thế bởi vì ông không biết là ông vô hình. Nhờ cố gắng tìm hiểu về sự vô hình tôi hiểu âm nhạc của ông.’

Bài hát Black and Blue lời của Andy Razaf, nhạc của Fats Waller, thâu đĩa lần đầu bởi Amstrong năm 1929, là một bài hát đặc biệt vượt hẳn các bài hát nổi tiếng thời bấy giờ vì nó đề cập thẳng vào vấn đề kỳ thị chủng tộc. Amstrong dùng kèn trumpet, đây là một nhạc cụ được xem là của quân đội. Ralph Ellison cảm thấy thú vị khi Amstrong áp đặt ca từ của người da đen lên một nhạc cụ quân đội. Ca từ của bài hát Black and Blue ngầm biểu lộ ý nghĩ và sự phản kháng của nhân vật. “What did I do / To be so black and blue?” Đây là một ca từ đơn giản nghe có thể hiểu ngay nhưng dịch ra thật là không dễ. Chữ blue được hiểu theo hai nghĩa, buồn bã và cũng là một điệu nhạc của người da đen.

Ralph Ellison là một nhà trí thức. Ông rất tự hào về chủng tộc da đen và nền âm nhạc giàu có mà người da đen đã xây dựng. Tự hào đến độ ông không thích nhạc Jazz hiện đại (kết hợp Jazz truyền thống với âm nhạc cổ điển Tây phương, trình diễn bằng các ban nhạc giao hưởng vĩ đại) vì ông cho rằng các nhạc sĩ người da đen đã cố gắng để được lòng các ông chủ làng âm nhạc cũng như giới thưởng ngoạn là những người da trắng thuộc giai cấp trung lưu. Tuy thế ông cũng nhận ra rằng “Jazz vẫn bị những người Negroes có uy thế đáng trọng vọng của cộng đồng da đen xem là một cách biểu lộ chậm tiến và hạ cấp.”

Những năm sáu mươi ở Việt Nam có nhà thơ Thanh Tâm Tuyền mang Jazz vào bài thơ của ông. Bài thơ có tựa đề “Đen.”

Một người da đen một khúc hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những dòng nước mắt
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
[…]
Vì Blues không xanh vì điệu Blues đen
Trên màu da nức nở
Trong hộp đêm
Bắt đầu chảy máu thầm kín khóc cổ họng mình
Ngón tay cấu lấy ống kèn như một bùa thiêng.

Chỉ tò mò tự hỏi, nhạc Jazz là gì, và nhạc Jazz ảnh hưởng đến văn học Hoa Kỳ như thế nào, trong khi đi tìm câu trả lời cho chính mình tôi rơi vào một kho tàng văn hóa. Tôi như người nhìn những đồ vật quí giá trong kho tàng nhưng không biết làm cách nào để mang về bởi vì mỗi món đồ đều to hơn tầm tay tôi và sức lực của tôi. Tôi nhận ra rằng chủ đề này quá rộng lớn. Chỉ cần chọn một nhà văn trong số những nhà văn tôi vừa kể để quan sát ảnh hưởng của Jazz (và Blues) trong tác phẩm của họ cũng đủ chiếm một thời gian rất lớn. Nhạc Jazz và Blues đặc biệt ảnh hưởng nhiều đến các nhà văn da đen như Toni Morrison, Ralph Ellison, James Baldwin và Langston Hughes.

Sau sáu tuần lễ nghe nhạc Jazz, đọc một ít sách về nhạc Jazz, nghe một ít nhạc Jazz, xem vài cuộn phim về cuộc đời các nhạc sĩ nhạc Jazz, tôi kết luận: Cuộc đời của các nhạc sĩ Jazz, ngay vào lúc đỉnh cao của loại nhạc này, đa số có cuộc sống bất hạnh, họ sống trong không khí ăn chơi tự do trác táng nên có người đâm ra nghiện rượu hay nghiện ma túy. Có người trút hết tấm lòng vào tiếng nhạc đến cuối đời mòn mỏi mất cả ý chí muốn sống. Cũng có người giàu có và hạnh phúc nhưng số người này không nhiều. Bây giờ, một cách tương đối, tôi có thể phân biệt được nhạc Jazz và nhạc Blues. Tôi có thể nhận ra sau một màn “free wheeling riff” hay một đoạn “syncopation” hay “improvisation” độc đáo, tôi có thể khen tặng nhạc sĩ một tràng pháo tay, đúng lúc.

Nhạc Jazz có lẽ cũng không xa lạ lắm với giới thưởng ngoạn người Việt ngày nay.

Hết.

Nguyễn Thị Hải Hà

Chú thích:

  1. “Jazz in the Garden.”
  2. Murakami, Haruki. “Jazz Messenger.”, The New York Times [New York], 08 July, 2007.
  3. Riff là một từ chuyên môn dùng trong âm nhạc, jazz và rock, để chỉ sự lập lại của nhịp điệu, hay một số nốt nhạc, với một chút thay đổi của một nốt nhạc trong một nhóm nốt nhạc hay bỏ một nhịp (của trống hay bass) trong một chuỗi nhịp điệu.
  4. Tương tự như footnote Haruki Murakami [1].
  5. Teachout, Terry. “Jazz.” The Wilson Quarterly (1976-), Vol. 12, No. 3 (Summer, 1988), pp 66-76. Tham khảo ngày: 19-07-2015.
  6. Louis Amstrong là một thiên tài của nền nhạc. Ông có tài trình diễn kèn đồng, và có giọng hát trầm và khàn. Ông khuếch động sáng tạo trong trình tấu độc diễn bằng syncopation, nhạc trưởng của hai ban nhạc jazz nổi tiếng Hot Five và Hot Seven.
  7. Uncle Tom’s Cabin – Group and Solo Cakewalk dance (1903) hoặc là Cakewalk – Vintage/Vernacular Dance
  8. Messenger, Bill. “Elements of Jazz – From Cakewalk to fusion.” CD book. Springfield, VA: Teaching Co., 1998.
  9. Tương tự Terry Teachout.
  10. Terry Teachout là nhà phê bình nhạc jazz của báo Kansas City Star (1977–83). Ông cũng là nhà tư vấn về các bộ môn âm nhạc nghệ thuật của Time-Life Records Giants of Jazz. Ông sử dụng đàn bass và dương cầm.
  11. Fitzgerald, Francis Scott. The Great Gatsby (Kindle Locations 666-671). Feedbooks.
  12. Fitzgerald, F. Scott. Jazz Age Stories – Edited with an introduction and explanatory notes by Patrick O’Donnell, New York: Penguin Books, 1998. p. 17
  13. Leland, John. “The Tao of Orooni” in “Why Jack Kerouac Matters – The Lessons of On the Road.” New York, Penguin Books, 2007.
  14. John Leland. Trang 123.
  15. Malcom, Douglas. “‘Jazz America’: Jazz and African American Culture in Jack Kerouac’s ‘On the Road’.” Contemporary Literature, Vol. 40, No. 1 (Spring, 1999), p. 86. University of Wisconsin Press. Quoted from Malcom Cowley. Đọc ngày 25-07-2015.

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Sự kiện giao lưu & ký tặng: Bước Qua Nước Mắt, Tự Khắc Trưởng Thành

Published

on

Nhân dịp ra mắt tác phẩm mới Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành, Nhà Sách Phương Nam và Phương Nam Book phối hợp cùng tác giả Anh Khang tổ chức sự kiện giao lưu và ký tặng vào lúc 16g00, thứ Bảy ngày 16.11.2024 tại sân khấu A – Đường sách TP. Hồ Chí Minh (Nguyễn Văn Bình, P. Bến Nghé, Q.1, TP. HCM).

Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành là tác phẩm kỷ niệm hơn một thập kỷ viết văn của tác giả Anh Khang. Anh gọi đây là một “cuốn sách làm lành” – thay vì “chữa lành” như cách gọi thường thấy trong xã hội hiện đại. Tác phẩm được chia làm hai phần, mở đầu bằng “Độc thoại” với những dòng tư lự đơn lẻ như tự trấn an “đứa trẻ bên trong đang ăn vạ trên đường trưởng thành”, rồi sang đến “Đối thoại” là những lời tâm can san sẻ cùng Gen Z lẫn Gen Z(à) để tìm sự ủi an. Mỗi câu, mỗi lời tâm tình thủ thỉ đều quá đỗi chân thành, như chính lời tác giả tự nhận thì đây “chính là những ghi chép trong lúc ‘khóc một trận đã đời’, rồi từ nay, chỉ nhìn về phía trước”.

Kể từ khi xuất bản tác phẩm đầu tay Ngày trôi về phía cũ… vào năm 2012, đến nay Anh Khang đã trở thành “tác giả triệu bản” với nhiều tác phẩm nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả. Anh còn được bạn đọc thương tặng tên gọi “nhà văn của những nỗi buồn tuổi trẻ” vì những chia sẻ sâu sắc và đầy cảm thông trong từng trang sách. Sách Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành đánh dấu sự trở lại của Anh Khang sau 4 năm tạm vắng mặt trên văn đàn, đồng thời cũng là món quà tri ân dành tặng cho thế hệ độc giả đã trưởng thành cùng những bài viết của anh.

Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành – tác phẩm mới nhất của tác giả Anh Khang do Phương Nam Book liên kết xuất bản.

Đến với sự kiện giao lưu và ký tặng, độc giả sẽ có cơ hội trò chuyện cùng nhà văn Anh Khang và lắng nghe anh chia sẻ về những thăng trầm trong quá trình sáng tác cuốn Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành. Đặc biệt, sự kiện còn chào đón sự góp mặt của ca sĩ - nhà văn Hamlet Trương.

Giao Lưu & Ký Tặng: Bước Qua Nước Mắt, Tự Khắc Trưởng Thành

  • Thời gian: 16:00 – Thứ bảy, ngày 16.11.2024
  • Địa điểm: Sân khấu A – Đường sách TP. Hồ Chí Minh (Nguyễn Văn Bình, P. Bến Nghé, Q.1, TP. HCM)
  • Vào cửa tự do

Về tác giả: Quách Lê Anh Khang

  • Công việc chính là làm báo, công việc phụ là làm mệt mình bằng những cảm xúc đa mang. Mọi nghề nghiệp đã và đang làm như phóng viên, biên tập viên, PR, MC... đều có vẻ khá nghiệp dư, nhưng lại rất chuyên nghiệp trong vai trò làm “người độc thân nhạy cảm”.
  • Ngày sinh: 11/8
  • Cung Hoàng đạo: Sư Tử (Leo)
  • Cử nhân khoa Báo chí & Truyền thông – Đại học KHXH&NV TP.HCM
  • Sách đã xuất bản:
    • Ngày trôi về phía cũ... (2012)
    • Đường hai ngả, người thương thành lạ (2013)
    • Buồn làm sao buông (2014)
    • Đi đâu cũng nhớ Sài Gòn và... Em (2015)
    • Thương mấy cũng là người dưng (2016)
    • Trời vẫn còn xanh, em vẫn còn anh (2017)
    • Người xưa đã quên ngày xưa (2018)
    • Những năm tháng đó, có tôi yêu người (2019)
    • Thả thính chân kinh (2020)
    • Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành (mới xuất bản – năm 2024)
Đọc bài viết

Trà chiều

Sự kiện giao lưu THÓI QUEN CÁ NHÂN MỚI VỚI “ATOMIC HABITS” TRONG THỜI ĐẠI SỐ

Published

on

By

Hưởng ứng Tuần lễ Sách và Chuyển đổi số, Nhà sách Phương Nam phối hợp cùng Đường sách TP. Hồ Chí Minh tổ chức sự kiện giao lưu vào lúc 17g ngày 28.10.2024 với chủ đề Thói quen cá nhân mới với “Atomic Habits” trong thời đại số cùng hai diễn giả là: bác sĩ Vũ Phi Yên, dịch giả Trần Quỳnh Như.

Tác phẩm Atomic Habits – Thay đổi tí hon, hiệu quả bất ngờ của tác giả James Clear đã trở thành hiện tượng sách bán chạy toàn cầu và tiếp tục khẳng định vị thế tại thị trường Việt Nam với 8 lần tái bản do Phương Nam Book phát hành. Atomic Habits cung cấp phương pháp khoa học và thực tiễn để xây dựng thói quen tốt, loại bỏ thói quen xấu, tạo nên thay đổi lớn từ những điều nhỏ bé – đây là các yếu tố then chốt để có một cuộc sống thành công và hạnh phúc. Tuy nhiên, hành trình thay đổi bản thân thường đầy chông gai và dễ dàng khiến chúng ta nản lòng khi chưa đạt được mục tiêu.

Thông qua Atomic Habits,tác giả James Clear khẳng định rằng mục tiêu chỉ là đích đến cuối cùng, trong khi hệ thống mới chính là con đường, là phương tiện đưa chúng ta tới đích. Hai người có thể cùng đặt mục tiêu chạy marathon, nhưng hệ thống luyện tập, chế độ dinh dưỡng và cách họ xây dựng tinh thần kiên trì mới là yếu tố quyết định ai sẽ cán đích thành công. Mục tiêu cung cấp cho ta hướng đi, nhưng hệ thống mới là thứ giúp ta tiến về phía trước. Việc tập trung vào hệ thống giúp chúng ta không bị áp lực bởi kết quả cuối cùng, mà tận hưởng quá trình nỗ lực và trưởng thành từng ngày.

Tập trung vào hệ thống còn giúp chúng ta duy trì động lực và sự kiên trì trong suốt hành trình. Mỗi bước tiến trong hệ thống, dù là nhỏ bé đến đâu, cũng là một chiến thắng, giúp củng cố niềm tin và sự quyết tâm. Ngược lại, nếu chỉ chăm chăm vào mục tiêu cuối cùng, chúng ta dễ dàng bị nản chí khi gặp phải khó khăn hoặc khi tiến độ chậm hơn mong đợi. Hệ thống cho phép chúng ta chia nhỏ mục tiêu lớn thành những bước nhỏ dễ thực hiện, giúp quá trình thay đổi trở nên ít áp lực và dễ dàng duy trì hơn.

Một hệ thống tốt không chỉ giúp đạt được mục tiêu mà còn tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển lâu dài. Khi đã hoàn thành mục tiêu chạy marathon, hệ thống luyện tập và chế độ dinh dưỡng lành mạnh vẫn sẽ tiếp tục mang lại lợi ích cho sức khỏe và tinh thần. Hệ thống không chỉ là công cụ để đạt được mục tiêu nhất thời, mà còn là cách sống, là nền tảng cho sự thành công và hạnh phúc bền vững. Xây dựng một hệ thống tốt chính là đầu tư cho bản thân mình để gặt hái được lợi nhuận lâu dài và vô giá.

Tuy nhiên, việc xây dựng được hệ thống những thói quen tốt trong thời đại số đầy biến động và nhiều cám dỗ như ngày nay là cả một thử thách. Vì vậy, buổi giao lưu Thói quen cá nhân mới với “Atomic Habits” trong thời đại số do Phương Nam tổ chức hy vọng sẽ giúp độc giả tham dự hiểu rõ hơn về cách áp dụng các quy luật trong sách vào cuộc sống hàng ngày, và đặc biệt là cách thích nghi những thói quen này trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ. Buổi giao lưu cũng là dịp để kết nối độc giả với hai dịch giả của cuốn sách, tạo nên một diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm và truyền cảm hứng cho hành trình thay đổi tích cực của mỗi cá nhân.

Buổi giao lưu Thói quen cá nhân mới với “Atomic Habits” trong thời đại số nằm trong khuôn khổ Tuần lễ Sách và Chuyển đổi số được tổ chức từ ngày 25 –  31.10.2024, kỷ niệm 72 năm Ngày truyền thống Ngành Xuất bản, In và Phát hành sách Việt Nam (10.10.1952 – 10.10.2024) và hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số Quốc gia 10.10. Tuần lễ Sách và Chuyển đổi số bao gồm triển lãm, trưng bày, hội thảo, giao lưu tác giả và nhiều hoạt động tương tác, góp phần thúc đẩy văn hóa đọc trong thời đại số.

Thói quen cá nhân mới với “Atomic Habits” trong thời đại số:

• Thời gian: 17g00 – Thứ hai, ngày 28.10.2024

• Địa điểm: Sân khấu A – Đường sách TP. Hồ Chí Minh

• Vào cửa tự do

Bác sĩ, Nhà tâm lý Vũ Phi Yên

Chị Vũ Phi Yên là Tiến sĩ - Bác sĩ, chuyên gia Tâm lý học lâm sàng và Huấn luyện viên tâm lý tại trung tâm Better Living. Chị đã có quá trình học, nghiên cứu và thực hành suốt 14 năm trong lĩnh vực Y khoa, chuyên ngành Di truyền học. Không chỉ dừng lại ở cách tiếp cận con người thiên về thể chất, chị còn tự bổ sung cách tiếp cận về tinh thần qua những học hỏi và nghiên cứu Tâm lý học. Năm 2014, chị đã hoàn thành chứng chỉ Thạc sĩ Tâm lý lâm sàng của trường Tâm lý Thực hành Paris, Pháp.

Đồng thời, trong nhiều năm qua, chị Yên cũng tham gia viết, dịch rất nhiều đầu sách tâm lý cho các đơn vị xuất bản khác nhau – trong đó, có nhiều tác phẩm luôn đứng trong danh sách bán chạy do Phương Nam Book xuất bản như: Atomic Habits – Thay đổi tí hon, hiệu quả bất ngờ; Tình yêu, hạnh phúc có tồn tại?, Metahuman – Siêu Nhân Loại…

Đọc bài viết

Book trailer

5 tựa sách cho ngày hè nhàn rỗi

Published

on

By

5-tua-sach-cho-ngay-he-nhan-roi

Từ những cuốn sách phơi bày hậu chứng chiến tranh cho đến những cuốn tiểu thuyết ghi lại thân phận nhỏ bé, mong manh, trôi dạt của con người... Các tác phẩm sau là lựa chọn tuyệt vời cho một ngày hè nhàn rỗi, để tìm thêm lại những phong vị mới.

Đuổi theo ánh sáng – Oliver Stone

Là biên kịch và đạo diễn từng 3 lần đoạt giải Oscar với những tác phẩm nổi tiếng như Express Midnight, Scarface, Salvador, Platoon... cũng như những người ngoại đạo, hành trình vươn đến đỉnh cao trong môn nghệ thuật thứ 7 của Oliver Stone luôn không dễ dàng. Đuổi theo ánh sáng là cuốn hồi ký được ông chắp bút, đưa ta đi từ những ngày đầu tiên ở nước Mỹ huyền diệu, đến tuổi trưởng thành nhiều mới mẻ trong chiến tranh Việt Nam và hành trình nếm mật nằm gai để vươn đến hào quang của Hollywood.

Trong cuốn sách này, ta sẽ thấy bên cạnh một cái tên được ngợi ca cũng là một con người bất toàn, mắc nhiều tội lỗi và cũng có lúc tưởng chừng buông xuôi. Thế nhưng chính quyết tâm, nỗ lực và sức mạnh nội tại đã giúp cho ông vẫn luôn duy trì tình yêu với quỹ đạo đời mình. Đó cũng là một bài học xoay quanh thông điệp luôn luôn vươn lên, từ đó tìm thấy ý nghĩa cho cuộc đời mình.

Với cách viết chân thành, gần gũi, đan kết với nhiều hình tượng, cảnh huống được lấy ra từ các thần thoại cũng như tác phẩm văn chương, phim ảnh nổi tiếng... Đuổi theo ánh sáng không chỉ đơn thuần là một cuốn hồi ký, mà cũng đồng thời là một tác phẩm văn xuôi hấp dẫn về một thời đoạn của tuổi trẻ lạc lối và tuổi trưởng thành không ngừng bỏ cuộc. Một tác phẩm vượt ra khỏi biên giới thể loại để mang đến câu chuyện phổ quát và thông điệp ý nghĩa cho những cá nhân vẫn đang chật vật trên con đường sự nghiệp của bản thân mình.

Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm – Le Thi Diem Thuy

Thuộc thế hệ thứ 2 của những cây bút “di dân”, Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm tuy có dung lượng tương đối khiêm tốn, nhưng nội dung mà nó truyền tải lại vô cùng lớn về mặt cảm xúc cũng như ấn tượng đến từ người đọc. Đó là hành trình tìm lại cội nguồn, xác định bản lai diện mục của một cá nhân với lai lịch “dị thường” qua thứ văn chương đẹp đẽ, thơ mộng với nhiều hình ảnh ám ảnh nối nhau cho đến vô cùng. Le Thi Diem Thuy sở hữu ma thuật của từ ngữ, để nhào nặn nó thành những ấn tượng không thể nào phai.

Cõi người và thân phận ấy cũng mong manh như con bướm suốt đời lưu cữu trong thứ thủy tinh trong suốt và nhìn thấu được. Kiếp người di dân cũng mãi tạc ghi vào mã gene mình ám ảnh về nước, dẫu là cái hồ trong khu dân cư hay thứ nước biển mặn chát của những con thuyền lênh đênh trên biển... thì cũng hình thành ở họ nỗi sợ nguyên thủy về số phận mình và thân phận mình giữa dòng chìm nổi. Le Thi Diem Thuy nắm bắt được chúng một cách tinh tế, và dàn trải ra giữa các trang viết một cách chân thành mà không lên gân.

Về mặt văn chương, Le Thi Diem Thuy cùng Ocean Vuong là 2 nhà văn đại diện cho khả năng nắm bắt được từng khoảnh khắc và cấp đông nó cho đến vĩnh cửu. Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm hay Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian là các tác phẩm có nhiều tầng nghĩa, làm xúc động cả những ký ức cá nhân hay nỗi đau cộng đồng. Và sức ám ảnh ấy sẽ lại khởi đầu mỗi khi những dòng chữ đầu tiên hiện ra và người đọc bị cuốn theo dòng nước ấy.

Những kẻ tuyệt vọng – Minh Tran Huy

Văn chương di dân khắc ghi trong lòng người đọc rất nhiều ấn tượng xoay quanh chủ nghĩa hiện thực, thế nhưng với Minh Tran Huy, cô đã làm điều đó một cách văn chương và vị nghệ thuật đến không ngờ đến. Ở Những kẻ tuyệt vọng ta sẽ không tìm thấy những gia đình tan nát của các thuyền nhân, ta cũng không thấy những chật vật hòa nhập với cuộc sống mới một cách hiển hình... mà thay vào đó là sự giao hòa của những tâm thức với các câu chuyện mang tính đại diện khác lạ.

Cuốn sách kể về chuyện tình vô cùng tươi đẹp của Lise và chàng Louis đầy những khát khao nhưng hành trình đến được với nhau cũng đã trải qua không ít khó khăn cũng như thách thức. Từ Việt Nam đến những lâu đài nước Pháp, từ những công viên bên bờ sông vắng lặng đến tàn tích lâu đài của thời Trung cổ... Cuốn sách xé toạc những đường biên không – thời gian để mang đến một tác phẩm lạ lẫm, thách thức, không ngừng chờ được giải đáp.

Điều ta tìm thấy trong tiểu thuyết này là sự giao thoa của Đông với Tây, của quá khứ với hiện đại, của Á và Âu trong sự tương đồng và phát triển thêm từ Trọng Thủy – Mỵ Châu đến Tristan - Iseult, hay bộ tứ Tấm Cám – Lọ Lem – Bạch Tuyết – Công chúa ngủ trong rừng.... Mang đậm màu sắc của Angela Carter trong không khí Gothic được phối trộn với trọng tâm di dân, đây là cuốn tiểu thuyết được đẩy đến đường biên của những thể nghiệm, đòi hỏi một sự truy tầm giá trị sâu xa hơn việc thưởng thức. Có thể nói Minh Tran Huy đã viết nên một tác phẩm ấn tượng, độc đáo và không thể quên.

Khát khao cây cỏ - Michael Pollan

Từ trước đến nay, trong các tác phẩm nghiên cứu, con người luôn chứng minh mình là chủ nhân của mọi thứ, là đối tượng tác động, là tác nhân chủ chốt... Nhưng với Khát khao cây cỏ, Michael Pollan đã thực hiện điều ngược lại, khi đặt ra một câu hỏi vô cùng thách thức, rằng thực vật nghĩ gì về ta, liệu con người có thật là phía nắm chuôi, quyết định mọi thứ cho giống loài vốn được ngầm hiểu là không có trí thông minh hay nhạy bén này?

Câu hỏi nói trên đã được giải đáp qua 4 phần lớn xoay quanh loài táo, tulip, cần sa và khoai tây, gắn với khát khao vị ngọt, vẻ đẹp, niềm hứng thú và sự an toàn. Từ các rừng táo ở nước Mỹ đến các thùng container trồng cần sa nhân tạo ở Amsterdam, từ ngày hiện tại trong công nghệ biến đổi gen ở khoai tây cho đến nhiều thế kỷ trước khi cơn sốt tulip vẫn còn là thứ gì đó cực kỳ bùng nổ... Pollan từng bước dẫn ta vào mạng lưới gắn kết đặc biệt, để biết con người xét cho đến cùng chỉ là một cực của các mối quan hệ, trong tính chủ động cũng như bị động.

Những câu chuyện về Johnny Hạt Táo, đặc tính có kế hoạch theo trường phái Apollo hay hoang dã của Dionysus... đã đưa người đọc không chỉ lướt qua lịch sử mà các loài cây gắn liền, mà cũng đồng thời là một biên niên sử về các khao khát và niềm đắm say của nhân loại này. Có thể xem đây là một tác phẩm rực rỡ, bao quát và choáng ngợp về mối gắn kết giữa con người cùng tự nhiên.

Con đường thủy vào Trung Hoa - Milton Osborne

Những ngày gần đây câu chuyện xoay quanh sông Mekong bỗng nóng trở lại trong việc xây dựng kênh đào Phù Nam và những được – mất sau đó. Chính điều này cũng đưa ta về lại với quá khứ của hơn 100 năm trước, khi những người Pháp tiên phong đã cố gắng tìm con đường thủy cho việc giao thương nối liền từ điểm tận cùng đổ ra biển Đông trên đất An Nam với thượng nguồn từ dãy Himalaya ở nơi đầu mút Trung Quốc.

Con sông hùng vĩ phần nào dự báo tầm vóc của cuộc thám hiểm, và quả đúng như thế, những gì được Milton Osborne kể lại có thể được xem như một bằng chứng lịch sử, nhưng cũng có thể quan niệm đó là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu nói gót những Thuyền trưởng Corcoran hay tác phẩm của Conrad danh tiếng... Những khó khăn, thách thức; sự thịnh vượng, trù phú nhưng cũng nguy hiểm chết người của miền nhiệt đới... cho ta thấy rằng con đường khai sáng của nơi mẫu quốc chưa khi nào là dễ, chưa cần bàn đến niềm tin, ý dân hay là những thứ thuộc về tư tưởng.

Bằng việc khai thác nguồn sử liệu phong phú và cách kể chuyện cuốn hút, Con đường thủy vào Trung Hoa là một tác phẩm đáng đọc, nên đọc, để biết về những khó khăn của con đường khai sáng văn minh, cũng như sự huyền diệu của miền nhiệt đới từ trăm năm trước hay trăm năm sau vẫn mãi như vậy.

Đọc bài viết

Cafe sáng