Trà chiều

Ảnh hưởng của nhạc Jazz trong văn học Hoa Kỳ cận đại

Published

on

Đầu mùa hè, Newark, thành phố lớn nhất của tiểu bang New Jersey, nơi tôi đang làm việc, có tổ chức trình diễn nhạc “Jazz trong Vườn”[1]. Chương trình này diễn ra hằng tuần và liên tiếp trong sáu tuần lễ. “Vườn” là một khuôn viên nho nhỏ sau lưng thư viện thành phố. Vé vào cửa là ba Mỹ kim, được dùng để ủng hộ thư viện, nơi càng ngày càng vắng khách. Thời buổi này, ba Mỹ kim chỉ mua được một cái hotdog, không đủ nếu mua hotdog ở thành phố New York, thế mà chỉ ngần ấy tiền tôi có thể nghe được một chương trình nhạc đầy văn hóa và rất thanh lịch. Tôi lấy giờ ăn trưa đi xem.

Buổi đầu tiên là buổi trình diễn saxophone. Buổi thứ nhì, Jazz được trình diễn bằng đàn organ bởi một nữ nghệ sĩ người Nhật tên là Akiko. Sân khấu dựng trong một cái lều trắng. Ghế xếp trên sân cỏ dành cho khán giả. Khu vườn có thể chứa ba trăm người một cách dễ dàng. Giai điệu bao trùm không gian, có lúc ngọt ngào, có lúc rộn ràng. Mùa hè miền Đông Bắc có những ngày nắng rất dịu, trời trong xanh với vài cụm mây trắng lững lờ bay. Quanh vườn, hoa Black-eyed Susan màu vàng lẫn với Blazing Star màu tím; hoa Tường Vi đỏ, trắng và hồng chen chúc nở hương ngan ngát, dây trường xuân quấn quít trên tường. Tôi sung sướng hưởng thụ một nét văn hóa đặc thù của Hoa Kỳ, giữa một công viên đầy hoa với một số kiến trúc cổ được xây cất khoảng chừng hơn một trăm năm trước.

Thật tình, tôi không biết nhạc Jazz là gì. Làm sao để phân biệt nhạc nào là jazz, nhạc nào là popular. Có những lúc đang giữa cuộc biểu diễn, người ta vỗ tay tôi cũng vỗ tay theo, nhưng tôi không biết vì sao người ta lại khen thưởng khúc nhạc đó. Khán thính giả chung quanh tôi, khi hứng thú họ lắc lư thân hình, gục gặc đầu, nhịp nhịp chân, hoặc gõ ngón tay nhè nhẹ lên đùi. Hỏi Jazz là gì cũng giống như hỏi vọng cổ là gì. Nghe thì có thể nhận biết ngay nhưng giải thích thật là không dễ. Một vài giáo sư âm nhạc Hoa Kỳ, khi bị bắt định nghĩa nhạc Jazz thì họ thường trả lời: nếu bạn phải hỏi câu đó có nghĩa là bạn sẽ không bao giờ hiểu. Nói thế, nhưng tôi tin một vài nét phác họa có thể giúp những người không chuyên về âm nhạc, nhưng tò mò muốn tìm hiểu về nhạc Jazz, như tôi.

Cuộc trình diễn nhạc “Jazz trong Vườn” buổi thứ nhì do Akiko, một nữ nghệ sĩ người Nhật, trình tấu bằng đàn organ. Bà được đào tạo ở Nhật và chỉ mới sang Hoa Kỳ sinh sống khoảng mười lăm năm nay theo lời mời của một số nhạc sĩ Jazz nổi tiếng ở Hoa Kỳ. Buổi trình diễn lần thứ tư là của một ban nhạc nữ trình diễn nhạc Jazz Latin. Sự góp mặt của những nghệ sĩ ngoại quốc cho thấy nhạc Jazz rất phổ biến, không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn ở thế giới. Người Nhật, vốn phong kín và luôn giữ gìn truyền thống lâu đời. Họ phải rất yêu thích nhạc Jazz, và có nhiều người thưởng ngoạn, đủ để Haruki Murakami, nhà văn Nhật Bản rất được độc giả Việt Nam yêu chuộng, mở một quán nhạc Jazz làm phương tiện kiếm sống trước khi trở thành nhà văn. Theo Murakami, nhạc Jazz ảnh hưởng rất sâu đậm đến sự phát triển tài năng của ông. Ông viết văn hay là nhờ ông nghe và yêu thích nhạc Jazz.

Dù là âm nhạc hay truyện, điều căn bản là nhịp điệu. Văn phong của bạn cần phải có nhịp điệu vững vàng, tự nhiên và đều đặn, nếu không thì độc giả sẽ không tiếp tục đọc tác phẩm của bạn. Tôi học sự quan trọng của nhịp điệu trong âm nhạc – và căn bản là ở nhạc Jazz[2].

Năm 1964, Murakami lần đầu tiên đi xem nhạc Jazz ở Kobe. Buổi xem nhạc sống này để lại ấn tượng rất sâu đậm trong tâm hồn ông. Murakami bảo rằng văn phong của ông ảnh hưởng sâu đậm bởi “repeated freewheeling riffs”[3] của Charlie Parker cũng như vẻ thanh thoát trong văn phong của F. Scott Fitzgerald. Fitzgerald là nhà văn nổi tiếng cùng một lúc với thời kỳ vàng son của nền âm nhạc Jazz, suốt thập niên 1920, đặc biệt với tác phẩm The Great Gatsby. Tác phẩm này được Murakami nhắc đến trong Rừng Na-uy, quyển sách đầu tiên đưa ông đến đài danh vọng. Murakami bảo rằng ông dùng sự luôn luôn đổi mới của nhạc sĩ Miles Davis làm khuôn mẫu cho cách viết văn và tìm cách sáng tạo ra những ý tưởng mới từ những ý tưởng cũ như cách trình diễn dương cầm của nhạc sĩ Thelonious Monk[4]. Charlie Parker, Miles Davis, và Thelonious Monk đều là những danh tài của nền nhạc Jazz Hoa Kỳ.

Murakami khiến người đọc nhìn thấy ảnh hưởng sâu đậm của nhạc Jazz đối với một nhà văn Nhật Bản. Thế thì có lẽ nhạc Jazz cũng có ảnh hưởng đến văn học Hoa Kỳ? Để cảm nhận thêm sâu sắc cái hay trong văn của Murakami, hiểu biết thêm về Jazz, có lẽ cũng là điều có ích? Người dịch truyện của Murakami có cần phải biết nhạc Jazz để lột tả cho hết văn phong của Murakami? Nhưng dẫu nhạc Jazz chẳng có tác động gì đến văn học, hiểu biết thêm về Jazz, một nét văn hóa đặc thù của Hoa Kỳ, cũng có ít nhiều thú vị. Trước khi trình bày với độc giả kết quả cuộc tìm hiểu ảnh hưởng của nhạc Jazz trong nền văn học Hoa Kỳ đương đại tôi xin phép được tóm tắt về tiến trình phát triển của nhạc Jazz ở Hoa Kỳ.

Jelly Roll Morton, một nhạc sĩ Jazz nổi tiếng, năm 1938 đã tuyên bố trong chương trình “Believe it or Not” của Robert Ripley, rằng chính ông ta là người sáng lập ra nhạc Jazz từ năm 1902[5]. Mặc dù cho rằng Morton nói phóng đại, nhiều người cùng thời, trong đó có Louis Amstrong[6], công nhận sự hiện diện của những ban nhạc Jazz ở thành phố New Orleans vào năm 1906, trong các khu phố đèn đỏ. Vào những năm đầu của thế kỷ hai mươi, nhạc Jazz bị xem là sa đọa và thấp hèn. Đó là loại nhạc của Satan. Jazz luôn đi kèm với tình dục, rượu, và các loại ma túy (Jazz, Sex, và Drug). Phim Chicago cho khán giả nhìn thấy phần nào bộ mặt sa đọa đầy dục vọng trong thời kỳ vàng son của nền nhạc Jazz ở Chicago. Sự phát triển mạnh mẽ của nhạc Jazz ở Chicago đã khiến các nhạc sĩ ở New Orleans di cư từ Nam lên Bắc để sinh sống bằng âm nhạc.

Theo Bill Messenger, trong quyển sách audio Elements of Jazz, nhạc Jazz là sự kết hợp của nhạc Ragtime với nhạc Blues dân ca cổ truyền. Blues phát xuất từ những người nô lệ da đen, khi làm việc trong các đồn điền, đốn gỗ, hái bông, hay xây dựng đường rầy xe lửa, họ hát hò đối đáp với nhau để giúp vui quên mệt. Lời hát của họ thường rất đơn giản, phô bày cảm xúc nhất thời. Nhạc cụ của blues cổ truyền rất đơn giản gồm có trống, đàn banjo, mandolin, hay những nhịp vỗ tay. Trong đồn điền khi có tiệc, người ta thường tổ chức cuộc thi cakewalk. Như cái tên của cuộc thi, cái bánh là phần thưởng để ở một cái bàn nào đó. Người dự thi, sắp hàng đi đến nơi đặt cái bánh, trong tiếng nhạc. Ai đi hay nhất, đẹp nhất sẽ được thưởng cái bánh[7]. Loại nhạc dùng cho những buổi cakewalk ban đầu là Ragtime. Ragtime là biến thể của nhạc du nhập từ châu Âu. Rag là biến thể của chữ ragg; Rag biến đổi nhịp điệu và âm điệu của một bài hát, thường thường từ một bài hát thịnh hành, cho đến khi nó thành một bản nhạc mới. Bill Messenger, đưa thí dụ, thay vì đánh nhịp 1, 2, 3, 4, người ta nuốt mất một nhịp 2 hay 3, hay kết hợp 2 với 3 thành một nhịp. Cách biến đổi nhịp điệu này được gọi là “syncopation”. Người ta có thể dùng những bản nhạc cổ điển chính thống và phổ biến, rồi biến đổi chúng thành những bản nhạc khác bằng phương pháp syncopation. Ragtime là lấy theo tên của bản nhạc Maple Leaf Rag của nhạc sĩ Scott Joplin. Ông là một nhạc sĩ da đen, nhà rất nghèo. Bố của Scott Joplin có được cây đàn piano và Joplin học nhạc với một vị mục sư người da trắng trong làng. Được đào tạo bằng nhạc cổ điển Tây phương nên ông rất hổ thẹn không dám sáng tác nhạc Ragtime. Mãi đến khi trưởng thành, ông mới bắt đầu sáng tác Ragtime và sau đó ông mê mải sáng tác không ngừng[8]. Từ Ragtime nghe có vẻ xa lạ, nhưng nếu bạn ở Hoa Kỳ và từng nghe tiếng nhạc phát ra từ những xe bán kem dạo, rất có thể bạn đã được nghe một bản Ragtime.

Scott Joplin qua đời năm 1917, đánh dấu cái chết của Ragtime và sự ra đời của nhạc Jazz. Điệu khiêu vũ swing cũng bắt đầu vào thời kỳ này. Nhạc Jazz được trình diễn để giúp vui khách trên những chuyến tàu trên sông Mississippi đi từ New Orleans đến thành phố Chicago. Các ban nhạc Jazz trình diễn trên các chuyến tàu để phục vụ khách đi thuyền. Cũng trong năm 1917, máy thâu đĩa nhạc được sáng chế, và những bản nhạc với nốt nhạc được in ra trên giấy. Một ban nhạc Jazz mà các nhạc công đều là người da trắng lấy tên là Original Dixieland Jass Band bắt đầu thâu đĩa nhạc đầu tiên, càng làm nhạc khiêu vũ swing trở thành cơn sốt của thời đại. Năm 1920, theo sử gia James Lincoln Collier, nhạc Jazz trở thành loại nhạc ai cũng thích cũng biết và người ta bắt chước nhạc jazz, sáng tác và trình diễn khắp nơi[9].

Những năm đầu của thập niên hai mươi, nhạc Jazz luôn luôn ở giữa cuộc giằng co của hai phái. Một bên xem Jazz là nhạc nghệ thuật; bên kia xem thường giá trị của Jazz và cho đó chỉ là nhạc giải trí. Năm 1922, Fitzgerald đưa một xấp bản thảo cho Marx Perskin. Theo Bill Mesenger, Fitzgerald không biết đặt tựa đề là gì nên gọi đại là Tales of the Jazz Age. Cái tên Jazz Age xuất phát từ Fitzgerald góp phần thay đổi địa vị của Jazz trong mắt các nhà phê bình nghệ thuật. Năm 1924, Paul Whiteman đưa ban nhạc Jazz vào trình diễn ở thính phòng Aeolian Hall của thành phố New York. Nhạc Jazz được sáng tác và trình diễn với cấu trúc và hòa hợp của dàn nhạc giao hưởng. Nhiều nhạc sĩ tài hoa gia nhập dàn nhạc của Paul Whiteman trong đó có Bix Beiderbecke. Năm 1928, Beiderbecke nổi tiếng với sự trình diễn thành công bản nhạc Concerto in F của nhạc sĩ Gershwin. Cuộc đời của Beiderbecke được Dorothy Baker tiểu thuyết hóa trong tác phẩm Young Man with a Horn và tác phẩm này được dựng thành phim.

Sự thành công rực rỡ của Louis Amstrong khiến giới âm nhạc chú ý đến những nhạc sĩ Jazz người da đen nhiều hơn. Duke Ellington là một trong những nhạc sĩ thành công này. Jazz phát triển huy hoàng từ năm 1917 cho đến năm 1929 thì vỡ tan theo bong bóng của thị trường chứng khoán. Nền kinh tế suy sụp (người ta vất vả kiếm sống, không thiết đến chuyện đến thính phòng nghe nhạc và khiêu vũ) khiến các ban nhạc Jazz phải giải tán.

Giữa thập niên ba mươi, thế hệ trẻ lớn lên và tìm kiếm dấu ấn âm nhạc của họ. Benny Goodman, người của thế hệ mới, được mệnh danh là ông Hoàng của nhạc Jazz. Năm 1938, Goodman đưa dàn nhạc Jazz của ông đến trình diễn ở nhạc viện Carnegie Hall, một trong những nhạc viện danh giá nhất Hoa Kỳ và thế giới.

Vào thời kỳ thế chiến thứ Hai, các ban nhạc Jazz lớn lại thêm một lần yểu mệnh. Charlie “Bird” Parker, nhạc sĩ saxophone, người luôn tin tưởng ông là nhạc sĩ của nghệ thuật, thích nhạc cổ điển và rất muốn học sáng tác nhạc. Tuy nhiên, bạc phúc, ông nghiện bạch phiến và qua đời ở tuổi 34 năm 1955. Cùng thời với Parker là Thelonious Monk (dương cầm), Miles Davis (trumpet), và John Coltrane (saxophone). Đây là những tên tuổi lừng danh của nền nhạc Jazz được nhiều người trên thế giới yêu mến trong đó có nhà văn lừng danh Murakami. Tất cả những chi tiết nói trên tôi tóm tắt dựa vào bài tiểu luận Jazz của Terry Teachout[10].

Trở lại với Bill Messenger, sự hình thành và phát triển của nhạc Jazz được ông thuyết trình trong quyển sách Elements of Jazz. Tiến trình của nền nhạc Jazz có thể nói vắn gọn như sau: Đầu tiên là nhạc blues dân ca cổ truyền kết hợp với nhạc châu Âu thành Ragtime. Ragtime phát triển rồi suy tàn. Nhạc Jazz trở nên hưng thịnh, Blues được trình diễn hầu như độc quyền bởi các giọng ca nữ. Nhạc Swing ra đời phát triển như một cơn bão, đến thể loại nhạc Boogie Woogie, đến những ban nhạc Blues hiện đại và dàn nhạc rất đông người, đến nhạc Be-bop là một hình thức phản kháng một cách ôn hòa đối với sự thịnh hành của Swing, sau đó đến nhạc Jazz hiện đại từ thập niên năm mươi cho đến thập niên chín mươi. Ngày nay tuy nhạc Jazz hiện đại vẫn còn có khán giả, blues kết hợp với rock biến thành Jazz fusion và Rock’n’Roll.

Bên cạnh Jazz âm nhạc của Hoa Kỳ, Haruki Murakami còn ngưỡng mộ văn của Fitzgerald. Fitzgerald thuộc về “The Lost Generations,” cùng với Ernest Hemingway, Gertrude Stein, Cole Porter (nhạc sĩ Jazz chuyên về dương cầm), Josephine Baker (nghệ sĩ trình diễn) và các nhạc sĩ Jazz khác đã sang Paris sinh sống vì cuộc sống ở Paris ít đắt đỏ hơn cuộc sống ở Hoa Kỳ, nhưng điều chính yếu là các nhạc sĩ jazz, phần lớn là nhạc sĩ da đen, cảm thấy nơi đây họ có tự do sáng tác, tự do trình diễn và không bị kỳ thị như ở Hoa Kỳ. Louis Amstrong cũng từng sang Paris trình diễn. Nhạc Jazz được các nhạc sĩ da đen đặc biệt yêu mến vì đây là lãnh vực mà họ được tự do biểu lộ tính chất cá nhân bằng cách trình diễn.

The Great Gatsby (1925), Tales of the Jazz Age (1922), The Flappers and Philosophers (1921) là những tác phẩm của F. Scott Fitzgerald có liên quan đến nhạc Jazz. Cái ảnh hưởng của Jazz trong tác phẩm của Gatsby không rõ rệt lắm. Ở truyện The Great Gatsby, lúc mở đầu buổi dạ hội thứ nhì, Gatsby mời Daisy và chồng của nàng đến dự, Fitzgerald viết:

Có tiếng bùm bùm của trống bass, và giọng của vị nhạc trưởng thình lình vang vọng ở vườn hoa. “Kính thưa quí vị,” ông nói. “Thể theo lời yêu cầu của ông Gatsby chúng tôi sẽ trình diễn tác phẩm của nhạc sĩ Tostoff, người đã gợi chú ý ở Carnegie Hall vào tháng Năm vừa qua. Nếu quí vị có đọc báo, quí vị ắt biết tin này nóng sốt biết dường nào. Ông ta mỉm cười nhạo báng, và nói thêm: “Thật là nóng hổi!” khiến cho mọi người cười vang. “Tên nhạc khúc này là,” ông ta nói thêm đầy mời mọc, “LỊCH SỬ JAZZ CỦA THẾ GIỚI của nhạc sĩ Vladimir Tostoff.”[11]

Chỉ mang chữ Jazz vào truyện thì không thể nói là chịu ảnh hưởng của nhạc Jazz. Flapper cũng là một danh từ thường dùng trong thời kỳ nhạc Jazz, dùng để chỉ một kiểu mẫu của phụ nữ theo thời trang Âu châu, tóc ngắn kiểu pompei (bom bê), đội mũ nồi, váy ngắn ngang tầm đầu gối, trang điểm đậm, thích nhạc jazz, hút thuốc, lái xe, xem nhẹ quan hệ tình dục, không quan trọng chuyện hôn nhân. Tóm lại, là những cô gái mệnh danh là yêu cuồng sống vội. Truyện của Fitzgerald, nếu có ảnh hưởng của nhạc Jazz, thì đó là những truyện miêu tả đời sống xã hội với những cuộc hôn nhân phù phiếm, cách sống xa hoa, như chính cuộc hôn nhân của F. Scott với cô vợ Zelda. Truyện ngắn The Offshore Pirate trong tuyển tập The Tales of the Jazz Age tôi thấy có chút ít hơi hướm của nhạc Jazz, Blues thì đúng hơn. Truyện nói về một cô gái trẻ và đẹp đang ở trên một du thuyền. Gia đình cô chuẩn bị mai mối gả cô cho một chàng trai con nhà giàu nào đó nhưng cô muốn bỏ trốn. Cô muốn tự tìm cho mình một anh chồng phiêu lưu và lãng mạn. Giữa lúc cô đang nghĩ ngợi thì thuyền của cô gặp một chiếc thuyền nhỏ hơn. Những người chèo thuyền là người da đen, và họ hát những câu hát rất hay khi họ chèo thuyền. Thuyền họ song song và cặp sát thuyền cô. Người trưởng toán là một anh chàng trẻ tuổi khá đẹp trai, dĩ nhiên là da trắng, tuyên bố anh ta là trưởng đoàn hải tặc và họ chiếm thuyền của cô. Chuyện rất thơ mộng và kết cuộc rất đẹp nên chẳng có gì đáng để nói, ngoại trừ đoàn hải tặc này vốn là một ban nhạc jazz.

Từ phía dưới bỗng dưng vọng lên giọng hát trầm trầm. Nhóm người da đen đã tụ tập lại trên khoang tàu và giọng hát của họ to dần lên một điệu nhạc khắc khoải hòa quyện nỗi buồn phiền bay về hướng mặt trăng. Ardita nghe như bị mê hoặc.

Ồ xuống đây-
Ồ xuống đây,
Mạ muốn lôi tôi xuống khỏi dòng ngân hà,
Ồ xuống đây,
Cha bảo rằng để ma-a-a-ai
Nhưng mạ cương quyết bữa nay
Vâng – mạ nói bữa nay thì bữa nay!
[12]

Nếu F. Scott Fitzgerald là một trong những nhà văn tiêu biểu cho The Lost Generation thì sau Fitzgerald chừng ba chục năm chúng ta có Jack Kerouac là một trong những nhà văn tiêu biểu cho The Beat Generation. Jack Kerouac có một thời là phóng viên phụ trách mục nhạc Jazz và dĩ nhiên là ông rất yêu thích nhạc này. Tôi có đọc On the Road nhưng không đọc hết vì không tìm thấy sự đồng cảm bởi sự khác biệt giữa nam với nữ, Tây với Đông, và trẻ với già. Kerouac sinh vào năm 1922, xuất bản On the Road vào năm 1954, tức là ông viết quyển truyện này khi ông mới trên dưới ba mươi, quá trẻ so với tôi của ngày hôm nay. Vì đọc chưa hết, và khi đọc tôi chưa có khái niệm gì về nhạc Jazz nên tôi không biết nhạc Jazz đã ảnh hưởng như thế nào trong văn và thơ của ông. Wikipedia có nói rằng ông “muốn được xem là một nhà thơ Jazz thổi những đoạn nhạc Blues dài trong những buổi chiều Chủ Nhật trình diễn nhạc Jazz.” Wikipedia viết thêm:

Nhiều bài thơ của Kerouac được viết như thể cho dòng thơ tuôn chảy tự nhiên, những câu văn không gò bó, kèm thêm những chi tiết của nhạc Jazz và triết lý của Phật giáo. Mexico City Blues, một tuyển tập thơ có nhịp điệu giống như nhạc Jazz. Để bắt chước nhịp điệu của Jazz, Kerouac dùng gạch nối (kéo dài hơn gạch nối bình thường). Thí dụ như đoạn thơ sau:

Everything
Is Ignorant of its own emptiness—
Anger
Doesnt like to be reminded of fits—

Thật tình, tôi không thấy được cái gạch nối dài này nó được thể hiện như thế nào trong nhạc Jazz. Bill Messenger trong Elements of Jazz cũng nói thêm là Jack Kerouac có tổ chức những buổi đọc thơ có đệm nhạc jazz. Cuộc đọc thơ rất hấp dẫn nên thơ ông bán rất chạy. Lời phê bình của Bill Messenger về cả hai nhà văn, Fitzgerald lẫn Kerouac, làm tôi nghĩ: Jazz sells! Dường như hai nhà văn này biết cách lợi dụng chữ Jazz cũng như nhà văn thời bây giờ lợi dụng chữ sex vì biết rằng hễ nói về tình dục là đắt hàng.

John Leland có những nhận xét rất thú vị về tính chất Jazz của Jack Kerouac. Trong bài tiểu luận The Tao Of Orooni ông viết:

“Trong tất cả phong cảnh được nhắc đến trong quyển sách On the Road, không có gì mang nhiều tham vọng hơn thế giới của nhạc Jazz. Không có nhạc Jazz, Sal có thể đã ở nhà và viết quyển truyện The Town and the City, và Dean có thể trở thành diễn viên chầu rìa ở Hollywood hoặc là một chàng điếm đực, luôn ca cẩm là muốn làm đạo diễn.”[13]

Ở một đoạn khác trang 122:

“Những điều anh gán ghép với nhạc Jazz chẳng giải thích gì nhiều về bản thân anh cũng như tác phẩm On the Road.  Bạn không thể ca hát cuốn sách hay nhảy swing với nó. Nói cho chính xác, văn của anh ta viết giống nhạc Jazz như thế nào? Chính bản thân Kerouac cũng thường khi thay đổi trong cái việc tự phong cho văn thơ của mình có nhịp điệu giống như nhạc jazz, đặc biệt là khi nhạc rock bắt đầu làm cho nhạc Jazz bị lu mờ.”

Leland kể rằng Kerouac đã từng muốn đổi tên quyển sách On the Road thành Rock and Roll on the Road để tăng sức bán sách lên gấp đôi[14].

Trong khi đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi như Jazz là gì, nhạc Jazz ảnh hưởng như thế nào trong văn học Hoa Kỳ, và có liên quan hay không đến văn hóa của tôi, một người Việt sống ở hải ngoại; tôi như người đứng trên một vòng quay chậm, lần lượt ngắm nghía một số tác phẩm văn học, chỉ ngắm nghía thôi chứ không có thì giờ và điều kiện để săm soi chi tiết. Nếu tôi không thể mường tượng được tiếng nhạc từ trong văn của ba nhà văn lẫy lừng vừa kể trên thì làm sao bạn đọc có thể mường tượng được tiếng nhạc Jazz của ba nhà văn qua chữ của tôi. Như đã nói, nghe và nhận ra nhạc Jazz dễ hơn và thú vị hơn là đọc bài viết về ảnh hưởng của nhạc Jazz. Nhiều người bạn của tôi tuyên bố là họ rất ghét nhạc Jazz. Tôi cho là họ ghét nhạc Jazz vì thành kiến, vì chưa quen nghe nhạc Jazz. Rất có thể họ không thích tiếng gào thét của người hát Rock-n-Roll, tiếng rên rỉ của Blues, tiếng ồn ào của Swing và Be-bop. Bạn có thể nghe một thể loại của Jazz rồi thích hay không thích chỉ dựa vào thể loại ấy. Điều này cũng đúng nhưng chỉ đúng một phần. Một thể loại của Jazz không hoàn toàn là Jazz, nó là một phần độc đáo của Jazz. Âm nhạc cũng như con người, có lúc hay lúc không hay, tùy theo sở thích của người nghe.  Rất có thể người ta không thích một loại nhạc nào đó chỉ vì không thích hợp với cách trình diễn của một người hay một ban nhạc. Và cũng có thể vì thành kiến. Người ta vẫn quan niệm Jazz đi kèm với sex và rượu tạo thêm phần trụy lạc của giới hưởng thụ.

Bạn có thể tình cờ nghe nhạc Jazz mà không biết đó là nhạc jazz. Nếu có một lúc nào đó bạn dạo chơi trên youtube và tình cờ nghe Trần Vĩnh độc tấu saxophone những bài như Hạ trắng, Đêm đông và bị mê hoặc bởi tiếng kèn đồng khi tha thiết khi bay bổng này thì “Ô la, Ô lê” bạn đã nghe nhạc jazz. Nếu bạn đã từng nghe ca sĩ Bích Chiêu hát bài Nỗi lòng, có lẽ bạn cũng biết nàng hát theo kiểu nhạc Blues của một số nữ ca sĩ da đen Hoa Kỳ. Có khi bạn không thích nhạc Jazz chỉ vì nó khác biệt và xa lạ với bạn. Một cô bạn của tôi phàn nàn, nhạc sĩ saxophone Trần Mạnh Tuấn, trong buổi hợp tác biễu diễn với một ban nhạc Jazz ngoại quốc đã phát ra những âm thanh, chẳng có nghĩa lý gì cả. Cách hát đó được gọi là scat singing. Malcolm Cowley, nhà phê bình nhạc Jazz,  đã ví “những câu thơ của Jack Kerouac trong bài thơ Mexico Blues giống như những câu scat singing được hát rất chậm.”[15]

Jazz xuất hiện trong văn học Hoa Kỳ thường ở hai dạng: Jazz được dùng để tạo không khí hay bối cảnh cho truyện hoặc là cuộc đời của nhạc sĩ Jazz được tiểu thuyết hóa, biến nhạc sĩ thành nhân vật của truyện. Ở dạng thứ hai, có Young Man With a Horn của Dorothy Baker nói về cuộc đời của Bix Beiderdecker; Coming Through Slaughter của Micheal Ondatjee viết về cuộc đời của Buddy Bolden, nhạc sĩ kèn trumpet sống ở New Orlean; Eudora Welty viết về nhạc sĩ Fats Waller trong tác phẩm Powerhouse. Charlie Parker là đối tượng của vài quyển sách như The Color of Jazz của Jon Panish, và The Night Song của Ross Russell. Ở dạng thứ nhất, Jazz là bối cảnh, tạo không khí cho truyện, là chi tiết tăng thêm phần hấp dẫn của truyện. Vài tác phẩm được nhắc đến như là On the Road của Jack Kerouac, The Great GatsbyTales of the Jazz Age của F. Scott Fitzgerald, Jazz của Toni Morrison, và khá nhiều truyện thuộc thể loại trinh thám kinh dị tuy không mấy nổi tiếng. Jazz của Toni Morison là chuyện ba người, lấy bối cảnh là Harlem vào thập niên 1920. Người đàn ông có người tình, mười bảy tuổi, trẻ và đẹp. Đang cơn mê đắm muốn giữ cảm giác mê đắm đó anh ta giết người tình. Người đàn bà lên cơn điên vì ghen đến nhà quàng, đám tang của người tình, dùng dao rạch mặt người chết là lôi thi hài xuống đất. Một số nhà phê bình cố giải thích Jazz xuất hiện như thế nào trong truyện Jazz của bà Morrison, tôi không nhìn thấy gì ngoài những đoạn văn rất đậm chất thơ của bà. Có lẽ cũng như truyện của Fitzgerald, Jazz xuất hiện như một cách sống trụy lạc, đen tối, đau khổ.

Viết về jazz, dù chỉ nhắc nhở thoáng qua hay dùng Jazz làm bối cảnh và tạo không khí truyện, đa số các nhà văn viết với tầm nhìn của người ngoại cuộc. Viết bằng quan điểm của người trong cuộc chỉ có vài nhà văn hiếm hoi, trong đó nổi bật nhất là Ralph Ellison. Ralph Ellison, trước khi trở thành nhà văn ông là một nhạc sĩ Jazz. Theo Peter Townsend, “cả bốn tác phẩm (của Ellison) đều tràn ngập những viện dẫn jazz, và một số tiểu luận của ông về jazz, được chọn đăng trong Shadow and ActGoing to the Territory bao gồm những bài tiểu luận thể hiện rõ ràng tư tưởng độc lập dù những bài tiểu luận này được chọn bởi bất cứ nhà văn nào chuyên viết về đề tài Jazz. Ellison sinh trưởng ở Oklahoma City, học nhạc ở Tuskegee Institute, có nhiều bạn là nhạc sĩ danh tiếng. Tuy chủ ý của ông là học sáng tác theo khuynh hướng nhạc cổ điển châu Âu, ông trình diễn và xem Jazz là một cách sống bình thường của cộng đồng người da đen.”

Quyển sách lưu tên tuổi của Raph Ellison là quyển Invisible Man. Tôi xin mượn nhận xét của Peter Townsend để giới thiệu Ellison.

Invisible Man đặt nhân vật chính vào các tình huống ngặt nghèo khiến cho nhân vật nhận ra rằng cuộc đời của anh ta bao gồm nhiều kiểu bị bóc lột, hết bóc lột này đến bóc lột khác. Qua kinh nghiệm bản thân, nhân vật chính kết luận rằng, một người da đen là một người vô hình trong xã hội, và lý luận rằng có những tình huống mà anh ta không nên hiện diện, thế thì anh tự biến mất, bằng cách chui xuống lòng đất theo đúng nghĩa đen. Đoạn mở đầu và đoạn kết thúc của tác phẩm này đã tiết lộ anh ta sống ở dưới mặt đất, một nơi đâu đó giữa thành phố Manhattan, thắp đèn và sưởi ấm bằng điện câu trộm từ cột điện của thành phố, nhờ vậy mà anh ta có thể nghe mãi nghe hoài lập đi lập lại cái đĩa nhạc ‘Black and Blue’ của Louis Amstrong.

[…] ‘Có lẽ tôi thích Louis Amstrong’ nhân vật tiếp tục nói, ‘bởi vì ông làm ra thơ từ sự vô hình của ông. Tôi nghĩ phải như thế bởi vì ông không biết là ông vô hình. Nhờ cố gắng tìm hiểu về sự vô hình tôi hiểu âm nhạc của ông.’

Bài hát Black and Blue lời của Andy Razaf, nhạc của Fats Waller, thâu đĩa lần đầu bởi Amstrong năm 1929, là một bài hát đặc biệt vượt hẳn các bài hát nổi tiếng thời bấy giờ vì nó đề cập thẳng vào vấn đề kỳ thị chủng tộc. Amstrong dùng kèn trumpet, đây là một nhạc cụ được xem là của quân đội. Ralph Ellison cảm thấy thú vị khi Amstrong áp đặt ca từ của người da đen lên một nhạc cụ quân đội. Ca từ của bài hát Black and Blue ngầm biểu lộ ý nghĩ và sự phản kháng của nhân vật. “What did I do / To be so black and blue?” Đây là một ca từ đơn giản nghe có thể hiểu ngay nhưng dịch ra thật là không dễ. Chữ blue được hiểu theo hai nghĩa, buồn bã và cũng là một điệu nhạc của người da đen.

Ralph Ellison là một nhà trí thức. Ông rất tự hào về chủng tộc da đen và nền âm nhạc giàu có mà người da đen đã xây dựng. Tự hào đến độ ông không thích nhạc Jazz hiện đại (kết hợp Jazz truyền thống với âm nhạc cổ điển Tây phương, trình diễn bằng các ban nhạc giao hưởng vĩ đại) vì ông cho rằng các nhạc sĩ người da đen đã cố gắng để được lòng các ông chủ làng âm nhạc cũng như giới thưởng ngoạn là những người da trắng thuộc giai cấp trung lưu. Tuy thế ông cũng nhận ra rằng “Jazz vẫn bị những người Negroes có uy thế đáng trọng vọng của cộng đồng da đen xem là một cách biểu lộ chậm tiến và hạ cấp.”

Những năm sáu mươi ở Việt Nam có nhà thơ Thanh Tâm Tuyền mang Jazz vào bài thơ của ông. Bài thơ có tựa đề “Đen.”

Một người da đen một khúc hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những dòng nước mắt
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
[…]
Vì Blues không xanh vì điệu Blues đen
Trên màu da nức nở
Trong hộp đêm
Bắt đầu chảy máu thầm kín khóc cổ họng mình
Ngón tay cấu lấy ống kèn như một bùa thiêng.

Chỉ tò mò tự hỏi, nhạc Jazz là gì, và nhạc Jazz ảnh hưởng đến văn học Hoa Kỳ như thế nào, trong khi đi tìm câu trả lời cho chính mình tôi rơi vào một kho tàng văn hóa. Tôi như người nhìn những đồ vật quí giá trong kho tàng nhưng không biết làm cách nào để mang về bởi vì mỗi món đồ đều to hơn tầm tay tôi và sức lực của tôi. Tôi nhận ra rằng chủ đề này quá rộng lớn. Chỉ cần chọn một nhà văn trong số những nhà văn tôi vừa kể để quan sát ảnh hưởng của Jazz (và Blues) trong tác phẩm của họ cũng đủ chiếm một thời gian rất lớn. Nhạc Jazz và Blues đặc biệt ảnh hưởng nhiều đến các nhà văn da đen như Toni Morrison, Ralph Ellison, James Baldwin và Langston Hughes.

Sau sáu tuần lễ nghe nhạc Jazz, đọc một ít sách về nhạc Jazz, nghe một ít nhạc Jazz, xem vài cuộn phim về cuộc đời các nhạc sĩ nhạc Jazz, tôi kết luận: Cuộc đời của các nhạc sĩ Jazz, ngay vào lúc đỉnh cao của loại nhạc này, đa số có cuộc sống bất hạnh, họ sống trong không khí ăn chơi tự do trác táng nên có người đâm ra nghiện rượu hay nghiện ma túy. Có người trút hết tấm lòng vào tiếng nhạc đến cuối đời mòn mỏi mất cả ý chí muốn sống. Cũng có người giàu có và hạnh phúc nhưng số người này không nhiều. Bây giờ, một cách tương đối, tôi có thể phân biệt được nhạc Jazz và nhạc Blues. Tôi có thể nhận ra sau một màn “free wheeling riff” hay một đoạn “syncopation” hay “improvisation” độc đáo, tôi có thể khen tặng nhạc sĩ một tràng pháo tay, đúng lúc.

Nhạc Jazz có lẽ cũng không xa lạ lắm với giới thưởng ngoạn người Việt ngày nay.

Hết.

Nguyễn Thị Hải Hà

Chú thích:

  1. “Jazz in the Garden.”
  2. Murakami, Haruki. “Jazz Messenger.”, The New York Times [New York], 08 July, 2007.
  3. Riff là một từ chuyên môn dùng trong âm nhạc, jazz và rock, để chỉ sự lập lại của nhịp điệu, hay một số nốt nhạc, với một chút thay đổi của một nốt nhạc trong một nhóm nốt nhạc hay bỏ một nhịp (của trống hay bass) trong một chuỗi nhịp điệu.
  4. Tương tự như footnote Haruki Murakami [1].
  5. Teachout, Terry. “Jazz.” The Wilson Quarterly (1976-), Vol. 12, No. 3 (Summer, 1988), pp 66-76. Tham khảo ngày: 19-07-2015.
  6. Louis Amstrong là một thiên tài của nền nhạc. Ông có tài trình diễn kèn đồng, và có giọng hát trầm và khàn. Ông khuếch động sáng tạo trong trình tấu độc diễn bằng syncopation, nhạc trưởng của hai ban nhạc jazz nổi tiếng Hot Five và Hot Seven.
  7. Uncle Tom’s Cabin – Group and Solo Cakewalk dance (1903) hoặc là Cakewalk – Vintage/Vernacular Dance
  8. Messenger, Bill. “Elements of Jazz – From Cakewalk to fusion.” CD book. Springfield, VA: Teaching Co., 1998.
  9. Tương tự Terry Teachout.
  10. Terry Teachout là nhà phê bình nhạc jazz của báo Kansas City Star (1977–83). Ông cũng là nhà tư vấn về các bộ môn âm nhạc nghệ thuật của Time-Life Records Giants of Jazz. Ông sử dụng đàn bass và dương cầm.
  11. Fitzgerald, Francis Scott. The Great Gatsby (Kindle Locations 666-671). Feedbooks.
  12. Fitzgerald, F. Scott. Jazz Age Stories – Edited with an introduction and explanatory notes by Patrick O’Donnell, New York: Penguin Books, 1998. p. 17
  13. Leland, John. “The Tao of Orooni” in “Why Jack Kerouac Matters – The Lessons of On the Road.” New York, Penguin Books, 2007.
  14. John Leland. Trang 123.
  15. Malcom, Douglas. “‘Jazz America’: Jazz and African American Culture in Jack Kerouac’s ‘On the Road’.” Contemporary Literature, Vol. 40, No. 1 (Spring, 1999), p. 86. University of Wisconsin Press. Quoted from Malcom Cowley. Đọc ngày 25-07-2015.

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Trà chiều

“Cạm bẫy tiện lợi” của AI

Published

on

Vào thứ Sáu ngay trước ngày khai mạc Hội sách Thiếu nhi Bologna, OpenAI đã tung ra công nghệ tạo hình ảnh mới tích hợp trong GPT-4o. Công nghệ này giới thiệu các khả năng đa phương thức tiên tiến, cho phép người dùng tạo ra những hình ảnh vô cùng chi tiết bằng nhiều phong cách nghệ thuật đa dạng. Gần như ngay lập tức, người dùng đã thử tạo hình ảnh theo phong cách thẩm mỹ đặc trưng của Studio Ghibli và thử nghiệm với nhiều phong cách minh họa sách thiếu nhi kinh điển. Độ chính xác của kết quả và khả năng bắt chước các họa sĩ minh họa nổi tiếng của công nghệ này đã thực sự gây sốc cho những người đang tề tựu tại Bologna.

Nổi bật trong các tiếng nói quan ngại về những bước tiến mới này là Nurgül Senefe, họa sĩ minh họa người Thổ Nhĩ Kỳ. Bà là nhà sáng lập của tổ chức vận động Illustrator’s Platform và Mạng lưới ZNN, một công ty đại diện tác giả và họa sĩ minh họa, đồng thời là Tổng Thư ký của Diễn đàn Họa sĩ Minh họa Châu Âu. Bà Senefe chia sẻ với tờ Publisher Weekly rằng, “sự lười biếng trong nhận thức” đang đe dọa khiến con người ngày càng phụ thuộc vào AI.

Bà Nurgül Senefe. Nguồn: Diễn đàn Họa sĩ Minh họa.

Từ kinh nghiệm điều hành một tổ chức với 400 nhân sự đang tận tâm bảo vệ quyền của họa sĩ minh họa và xây dựng những phương thức kinh doanh bền vững, bà Senefe cho rằng: “Điểm yếu lớn nhất của con người là cảm giác vui sướng đến từ sự tiện lợi mà AI mang đến”.

Mạng lưới ZNN hoạt động như một cầu nối trung gian giữa họa sĩ và bên đặt hàng, giúp thiết lập các quy chuẩn tối ưu cho ngành, đồng thời giám sát quy trình đặt hàng tác phẩm. Công việc của họ nay càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết khi AI ngày một tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực sáng tạo.

“Đặc biệt với trí tuệ nhân tạo, chúng tôi đang nỗ lực xây dựng một nền tảng để đại diện cho quyền lợi của họa sĩ minh họa”, bà Senefe cho biết.

Khi khảo sát các thành viên trong tổ chức, bà Senefe thường đưa ra một câu hỏi lấy ví dụ từ bộ phim Ma trận (The Matrix), hỏi họ sẽ chọn viên thuốc nào – đỏ hay xanh. “Mọi người đều nói, ‘Tôi sẽ chọn viên màu đỏ’, bà kể lại, dùng phép ẩn dụ này để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ chính mình “tỉnh táo nhận thức về những gì đang diễn ra hôm nay”.

Mối bận tâm hàng đầu của bà Senefe xoay quanh chính bản chất của con người. “Nếu bạn không ý thức được hành vi của mình, nó sẽ dần định hình nên tính cách của bạn.” Dù vấp phải sự phản đối từ nhiều chuyên gia sáng tạo – “Mọi người nói chúng ta không sử dụng AI tạo sinh, chúng ta chống lại nó”, bà vẫn quan sát thấy người ta tiếp tục thử nghiệm công nghệ này và ghi nhận rằng một số người cho biết nó “khá tiện lợi”.

Bà Senefe nhận định: Yếu tố tiện lợi này chính là mấu chốt của vấn đề. Bà cũng đưa ra các ví dụ tương tự trong đời thực. “Nếu bạn để ý, tôi chắc chắn bạn sẽ thấy ở ga tàu điện hoặc nhà ga xe lửa, mọi người xếp hàng dài hàng mét chỉ để đi thang cuốn, nhưng tại sao họ không leo thang bộ cơ chứ?” Các ví dụ khác bao gồm sự lệ thuộc của xã hội vào thức ăn nhanh, bất chấp những rủi ro sức khỏe đã được chứng minh, hay việc nhiều bậc cha mẹ dùng máy tính bảng làm "người giữ trẻ kiểu mới cho con” khi quá tải hay xao nhãng.

Họa sĩ Hayao Miyazaki, đồng sáng lập Studio Ghibli luôn thể hiện sự phản đối mạnh mẽ đối với AI trong sáng tạo. Trong bộ phim tài liệu Never - ending man: Hayao Miyazaki năm 2016, khi được giới thiệu về một dự án hoạt hình sử dụng AI, ông Hayao Miyazaki đã thẳng thừng chỉ trích công nghệ này. Ông gọi nó là "một sự xúc phạm đến cuộc sống" và nhấn mạnh rằng nghệ thuật không chỉ là kỹ thuật mà còn là cảm xúc, trải nghiệm và tinh thần con người.

Bà Senefe tỏ ra lo lắng về một khả năng trong tương lai, nơi những người làm sáng tạo cuối cùng sẽ phải “làm việc cho máy móc”, khi các nhà xuất bản có khả năng chọn AI thay vì sản phẩm của con người vì chúng “quá tiện lợi, rẻ, hiệu quả và nhanh chóng”.

“Dần dà, chúng ta sẽ quen xem cái ‘chưa đủ’ là đủ, ‘không đẹp’ là đẹp, ‘phi nghệ thuật’ là nghệ thuật. Điều này sẽ kéo tụt mặt bằng giá trị của nhận thức chung, hiểu biết và sự chấp nhận của xã hội, làm thay đổi cả một lĩnh vực mà chúng ta thậm chí không hề hay biết”.

Để mô tả quá trình bình thường hóa đáng lo ngại này, bà Senefe đã đặt hàng một bức tranh minh họa dựa trên ẩn dụ về con ếch trong nồi nước đang nóng dần lên, không nhận ra mối nguy hiểm đang cận kề. Bức tranh này đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Bạn sẽ dùng AI một cách có ý thức và để máy móc phục vụ cho bạn, hay bị AI thống trị và trở thành tay chân cho máy móc?”

“Thử thách lớn nhất của chúng ta trong cuộc đối đầu với AI chính là sự lười biếng trong nhận thức”, bà Senefe kết luận. Bà cho rằng, cũng như sự nghiện ngập và các thói quen độc hại khác, sự phụ thuộc vào AI có thể bén rễ từ từ và len lỏi vào đời sống một cách khó nhận biết nếu giới chuyên môn sáng tạo không duy trì cảnh giác.

Hoàng Thảo dịch từ Publishers Weekly

Đọc bài viết

Cafe sáng