Chuyện người cầm bút

Những sự thật tự nhiên: Tinh thần Aldo Leopold

Published

on

Bảy mươi năm sau khi Niên lịch miền gió cát được xuất bản lần đầu, Aldo Leopold – “cha đỡ đầu của tư duy sinh thái học hiện đại” đã nói gì về sự tái tạo và đạo đức đất đai?

Ngày 21 tháng Tư năm 1948, Aldo Leopold qua đời vì một cơn đau tim trong khi đang giúp hàng xóm dập lửa lan trên cỏ đầu mùa không xa nơi “lán trại” nổi tiếng của ông bên ngoài Baraboo, Wisconsin. Lúc đó ông chỉ mới 61 tuổi. Một năm sau, cuốn sách nổi tiếng nhất của ông – Niên lịch miền gió cát được xuất bản. Được xem là tác phẩm kinh điển của thời đại với cách kể chuyện đầy hấp dẫn, cuốn sách đã nói lên một điều mà ngày nay chúng ta vẫn biết đến như là “đạo đức đất đai”.

Niên lịch miền gió cát ra đời thức thời hơn bao giờ hết, và có thể nói rằng công dân nào cũng nên đọc nó, dù cho họ sở hữu, phát triển, trồng trọt, chăn nuôi hay môi giới đất đai, hoặc chỉ vu vơ đi qua cánh đồng và sẵn sàng suy ngẫm về sợi dây liên hệ sâu sắc giữa mình với thiên nhiên. Tạp chí Mountain Journal đã có cuộc trò chuyện với nhà báo, nhà sử học, nhà bảo tồn Curt Meine, thành viên cao cấp của Quỹ Aldo Leopold và Trung tâm Con người và Tự nhiên; để thảo luận về ý tưởng của Leopold và suy ngẫm về ảnh hưởng lâu dài của cuốn sách nhân kỷ niệm 70 năm kể từ ngày xuất bản.

Meine gọi Leopold là người vừa theo chủ nghĩa thực dụng (pragmatist), vừa theo đuổi lý tưởng (idealist). Ông nói rằng trích dẫn ông yêu thích nhất của Leopold xuất phát từ bài tiểu luận “Đạo đức đất đai”: “Trong những điều từng được viết ra, không gì quan trọng bằng đạo đức… Nó phát triển trong tâm trí của một cộng đồng biết tư duy.” 

Khi viết ra các nhận định vào thời điểm những năm 1940, Aldo Leopold không hình dung được cuốn sách của mình sẽ ảnh hưởng sâu rộng đến mức nào. Thế nhưng, cho đến nay, cuốn sách vẫn được ngày càng nhiều độc giả yêu thích, trở thành nguồn tư liệu quý giá, làm thay đổi phong trào môi trường và đóng vai trò nền tảng trong lĩnh vực chính sách, đạo đức và khoa học bảo tồn hiện đại.

*

Cuộc phỏng vấn của Mountain Journal với Curt Meine

Lần đầu tiên anh quan tâm đến Leopold diễn ra như thế nào?

Maine: Giống như rất nhiều người, lần đầu tiên tôi đọc Aldo Leopold là qua tác phẩm kinh điển Niên lịch miền gió cát. Tôi trưởng thành trong một gia đình yêu thích câu cá và cắm trại, và tôi cho rằng điều đó khiến tôi dễ bị hớp hồn bởi cuốn sách ấy. Tôi từng sống ở Chicago. Một người bạn cấp ba trở về từ Montana vào kỳ nghỉ đã đọc Leopold và tặng cho tôi một cuốn. Ngay sau đó tôi đã chuyển đến Madison, Wisconsin để học cao học tại Đại học Wisconsin – nơi Leopold từng dạy và cũng là nơi lưu trữ luận án nghiên cứu của ông. Điều này dẫn đến điều khác, cuối cùng tôi đã nghiên cứu và viết về Leopold trong luận án của mình. Nó được xuất bản năm 1988 với tựa đề Aldo Leopold: Cuộc đời và thành tựu, và là cuốn tiểu sử đầy đủ đầu tiên viết về Leopold.

Tuy nhiên, đằng sau tất cả những điều đó là cảm giác rằng chuyện đời Leopold đã cho tôi những kiến thức sâu sắc và bài học quan trọng để hiểu được gốc rễ của ngành bảo tồn và khoa học, chính trị và triết học môi trường. Đối với tôi, nó mang lại cơ hội để tạm xa rời những vấn đề khẩn thiết và cấp bách, để hiểu sâu hơn về nền móng và sự phát triển của phong trào bảo tồn cũng như vòng vận động của môi trường.

Mục đích của Quỹ Aldo Leopold là gì?

Maine: Quỹ Aldo Leopold được khởi lập bởi năm người con của Aldo và vợ Estella để tiếp tục cam kết với công cuộc bảo tồn thiên nhiên. Nền tảng của quỹ là tìm cách nâng cao đạo đức đất đai thông qua các chương trình giáo dục, đào tạo, truyền thông và quản lý đất đai. Điều này bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, bao gồm công việc phục hồi đất đai địa phương, đào tạo các nhà lãnh đạo bảo tồn tương lai, các chương trình giáo dục với quy mô tiếp cận vượt xa căn cứ của chúng tôi gần Baraboo, Wisconsin.

Gia đình Leopold tại “lán trại” của họ ở Wisconsin. Nhiều ý tưởng cho cuốn Niên lịch miền gió cát và các bản vẽ từ nhiệm kỳ của ông ở Sở Lâm nghiệp Hoa Kỳ đã được mạ kẽm ở đây. Hàng sau, từ trái sang phải: Aldo Leopold, vợ Estella, các con trai: Luna và Starker. Hàng dưới, các con gái: Nina và Estella với chú chó của gia đình, Gus. 

Anh mô tả quá trình tuần tự phát triển trong cách tư duy của Leopold như thế nào, và những gì đúc kết nên tư duy này?

Maine: Cách tiếp cận và hiểu biết về bảo tồn của Leopold đã phát triển liên tục trong suốt cuộc đời ông để đáp ứng những nhu cầu môi trường mới xuất hiện, sự thay đổi hoàn cảnh văn hóa – chính trị, sự phát triển khoa học cơ bản và phản ánh liên tục kinh nghiệm cá nhân của ông trong lĩnh vực này. Về cơ bản, Leopold nhận thấy rằng thành công trong bảo tồn không thể xác định bằng các biện pháp kinh tế đơn giản và ngắn hạn; mà bằng cách tạo ra các mối quan hệ lành mạnh hơn với tự nhiên. Nền móng cho kết luận này là ngành khoa học tân tiến về sinh thái học (mà ông là người đi tiên phong) cùng với những thay đổi mà ông chứng kiến trong các hệ thống kinh tế và xã hội của con người.

Năm 1940, Leopold đã viết rằng “Bảo tồn là sự phát triển chậm chạp và tốn nhiều công sức của một mối quan hệ mới giữa con người và đất đai.” Và đất đai vào thời điểm đó, Leopold cho rằng nó bao gồm đất, nước, động – thực vật và con người. Nghĩa là, bảo tồn không chỉ đơn thuần là cải tiến sản lượng bền vững của nhân tố này hoặc nhân tố kia từ đất. Nó cũng không chỉ liên quan đến việc bảo vệ các thành tố đặc biệt, hiếm hoi, đẹp đẽ hoặc có ý nghĩa kinh tế của lãnh thổ này. Nó liên quan đến cả hai điều trên và nhiều hơn nữa. Phần nhiều hơn nữa này chính là mối quan hệ đạo đức giữa chúng ta với đất đai cũng như công cuộc bảo vệ, thúc đẩy và khôi phục các phẩm chất của đất mà ông xác định là “năng lực tự tái sinh”.

Đây là những kết luận mà ông không ngừng suy ngẫm trong suốt sự nghiệp của mình. Trong quá trình đó, có rất nhiều tình tiết và trải nghiệm đặc biệt hình thành nên thế giới quan của ông – thời niên thiếu ở Iowa, sự giáo dục ở miền đông bắc, những năm tháng đầu sự nghiệp ở Cục Lâm nghiệp Hoa Kỳ, những cuộc du hành đến châu Âu, Canada và miền bắc Mexico, làm việc hàng ngày trong các cảnh quan hỗn độn của Wisconsin và vùng Trung Tây. Một trong những khía cạnh đáng chú ý của Leopold là khả năng điều chỉnh cái nhìn sâu sắc nhất từ hầu như mọi trải nghiệm mà ông có.

Leopold đã đưa ra một số quan sát sắc bén về sự tái tạo. Đúng là ông tin vào hiệu quả tái sinh của việc thông tri với thiên nhiên, nhưng cũng cảnh báo việc thương mại hóa, tiền tệ hóa và lạm dụng nó. Anh nghĩ gì về những mối quan tâm này?

Maine: Leopold hiểu và đánh giá sự cải tạo đất đai là một trong những cách chính mà người Mỹ hiện đại tương tác với đất đai và thế giới tự nhiên, thông qua đó chúng ta có thể phát triển đạo đức đất đại một cách cá nhân. Và vì vậy, ông đã dành thời gian đáng kể trong suốt sự nghiệp của mình để cung cấp cơ hội cải tạo thông qua bảo tồn động vật hoang dã, bảo vệ thiên nhiên hoang dã, phục hồi đất đai và các phương thức khác. Nhưng ông cũng hiểu rằng cải tạo có thể trở thành một biểu hiện tiêu dùng hiện đại khác – là việc lấy mọi thứ từ đất mà không quan tâm đến vẻ đẹp, sự đa dạng hay sức sống của nó.

Nói cách khác, mối liên kết giữa cải tạo và bảo tồn hầu như không được đảm bảo. Leopold từng viết rằng “Thêm nhiều sự cải tạo không phải là việc xây thêm những con đường lên mảnh đất đáng mến của ta, mà là xây sự tiếp thu vào tâm trí con người (vẫn còn chưa được đáng mến lắm).” Ông lo ngại về sự mất kết nối ngày càng tăng do sự phát triển của công nghệ và khả năng hạn hẹp của ta để nhìn nhận thứ mà ông gọi là “bí ẩn cuối cùng, những hoạt động nội tại trong lòng đất.” Leopold quan tâm trước nhất đến việc “đọc thấu đất”. Ông cố gắng tìm hiểu từng chức năng một. Ông tìm cách nhìn thấu đất trong từng chi tiết tinh tế cũng như trong một tổng thể thay đổi, để hiểu vị trí con người trong đó. Cải tạo có thể và nên là một trong những cách chính để khuyến khích những điều này trong chính chúng ta. Nhưng cải tạo hiện đại chỉ tách chúng ta ra, làm chúng ta mù quáng.

Tại sao Niên lịch miền gió cát vẫn còn sức sống cho đến ngày nay?

Maine: Điều đầu tiên và quan trọng nhất, Leopold là một người kể chuyện hay. Mặc dù một số tài liệu tham khảo của ông có thể lỗi thời, ông vẫn lôi cuốn độc giả với câu chuyện gần gũi về chim dẽ gà nhảy múa trên bầu trời hoặc những vòng tuổi của cây sồi già hay tiếng gọi của những con sếu. Qua quan sát của ông, chúng trở thành chứng nhân cho những thước phim mà ông thấy được. Tôi đã định nói rằng văn xuôi của ông không hề bị tác động bởi thời gian, nhưng có lẽ nó hoàn toàn ngược lại. Leopold đã thấm đẫm câu chuyện của mình với trải nghiệm cá nhân và vào trong lịch sử. Có một cảm nhận sâu sắc về thời gian xếp lớp trong những dòng chữ, và có lẽ trong thời đại thay đổi chóng mặt hiện nay, ta thấy mình được định hướng tốt hơn thông qua những con chữ của ông. Leopold cũng đặt ra những câu hỏi lớn lao mà chúng ta vẫn tự hỏi về mối quan hệ đúng đắn của mình với tự nhiên, với sự hoang dã và tự do; ngay cả khi bản thân chúng ta vẫn thường vật lộn tìm ra định nghĩa về những phẩm chất này. Và cuối cùng, tồn tại một vẻ đẹp thuần khiết trong văn xuôi của ông. Trong những đoạn văn mạnh mẽ nhất của mình, ông chạm đến chúng ta theo cách mà âm nhạc và thi ca vốn vẫn làm được.

Chúng ta đang sống trong thời đại thay đổi chóng mặt về mặt xã hội và sinh thái. Aldo Leopold nói gì với chúng ta về thời đại này?

Maine: Thẳng thắn mà nói, những ý tưởng, sách vở hay số liệu cốt lõi từ quá khứ mà chúng ta vẫn kiếm tìm để được truyền cảm hứng dường như ngày càng ít hữu ích hơn. Chúng ta đang sống trong một thời kỳ chưa từng có tiền lệ, một thời kỳ của những đổi thay bi thảm và hợp lực. Các điểm tham chiếu lịch sử rất xa vời (trong trường hợp khả quan nhất) và đáng nghi (trong trường hợp tồi tệ nhất). Nhưng lịch sử không hoạt động bằng cách cung cấp sự đảm bảo hoặc xác nhận đơn giản. Đối với tôi, lịch sử luôn là điều thiết yếu trong việc truy tìm quỹ đạo của sự thay đổi và làm tham chiếu nhìn nhận thách thức hiện đại. Leopold đã không, và không thể, dự đoán đầy đủ các giải pháp mang tính hệ thống mà chúng ta phải đưa ra để giải quyết các vấn đề xã hội và sinh thái có liên quan sâu sắc với nhau. Nhưng tôi nhận ra những ví dụ và hiểu biết sâu sắc của ông rất hữu ích trong việc xác định những căn cứ. Ông hiểu rằng, về mặt nền tảng, tất cả đều quy về giá trị con người.

Dạo gần đây, dường như tôi luôn đồng tình với một vài tuyên bố mà Leopold đã đưa ra. Trong một bản thảo chưa xuất bản, ông viết: “Có hai điều khiến tôi quan tâm: mối quan hệ giữa người với người, và mối quan hệ giữa con người với đất đai.” Để kết nối những địa hạt đó, Leopold giúp đặt nền móng cho hệ tư duy chặt chẽ mà chúng ta phải đạt được nếu muốn giải quyết hiệu quả các vấn đề biến đổi khí hậu, mất mát đa dạng sinh học, bảo vệ nguồn nước, hệ thống nông nghiệp – thực phẩm, công bằng kinh tế và môi trường.

Trong thực tế, bảo tồn cuối cùng cũng đã coi trọng mối quan hệ cổ xưa đã được chứng minh giữa con người và đất đai. Chúng ta thấy điều này trong sự đánh giá ngày càng cao thế giới quan của người bản địa và kiến ​​thức sinh thái truyền thống trong bảo tồn và hơn thế nữa. Đặt chúng cùng nhau thì tất cả đều dẫn về việc điều chỉnh giá trị mối quan hệ giữa người và người, và giữa con người với đất đai. Chúng ta sống trong thời đại tồn tại những đổi thay và những nhu cầu sâu rộng. Tất cả chúng ta đều được giao nhiệm vụ mở rộng và củng cố nền tảng đạo đức của mình để đáp lại. Leopold là một trong số nhiều người đã đóng góp cho công việc đó. Trong tương lai, chúng ta sẽ cần mọi nguồn trí tuệ hữu ích mà chúng ta có thể tập hợp lại được.

Hết.

Ngô Thuận Phát lược dịch.

Bản gốc được thực hiện bởi Todd Wilkinson, đăng tại Mountain Journal.


Đọc tất cả bài viết của Ngô Thuật Phát.


Chuyện người cầm bút

Cuộc tẩu thoát táo bạo: Hành trình một nhân viên ngân hàng Mỹ giải cứu 113 thường dân Việt Nam

Published

on

Đầu tháng 4 năm 1975, khi toán lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam, các giám đốc điều hành cấp cao của Ngân hàng Chase Manhattan Bank đã đặt lên vai Ralph White, vốn là một nhân viên cấp dưới làm việc tại chi nhánh Bangkok, một nhiệm vụ đầy thách thức: sơ tán 53 nhân viên người Việt đang làm việc tại chi nhánh Sài Gòn. Và như độc giả có thể thấy ở trang bìa của cuốn sách "Rời khỏi Sài Gòn", ông đã thành công hoàn thành nhiệm vụ ấy. Thế nhưng bấy nhiêu là không đủ để lột tả hết những rào cản to lớn mà ông phải đối mặt, cũng như những giải pháp thông minh, thậm chí gây đứng tim cho người đọc. Trong bài phỏng vấn đăng trên The Christian Science Monitor vào năm 2023, tác giả Ralph White có một số chia sẻ về cuốn sách với phóng viên Erin Douglass, cộng tác viên của Monitor. Nội dung buổi phỏng vấn đã được tác giả gốc biên tập đôi chút để rõ ràng hơn và đảm bảo độ dài phù hợp. 

Nhiệm vụ thành công dường như là nhờ vào những hành động mang tính quyết định của ông, và một trong số đó là dám đứng lên nhận lãnh trách nhiệm với sinh mạng của những con người ấy. Ông có đồng ý với nhận xét này không, và bên cạnh việc đứng lên chịu trách nhiệm, thì còn hành động nào khác mà ông cho là mang tính quyết định đối với thành công này?

Tôi nghĩ là có. Tôi thường nghe người ta nhắc đến “sự kiên trì”, có lẽ đó cũng là một yếu tố góp phần làm nên thành công của chuyến đi. Khi ấy tôi chỉ mới tốt nghiệp trung học được 10 năm, đã vậy còn thiếu chín chắn so với độ tuổi của mình. Lúc ấy tôi đang phiêu bạt, đi đây đi đó khắp Đông Nam Á, rồi bất chợt, bánh răng lịch sử xoay chuyển, khiến tôi ngỡ ngàng. 

Tôi nghĩ rằng những viên chức ngoại giao đứng về phía tôi – ông Shep Lowman, viên chức chính trị tại Đại sứ quán Mỹ [ở Sài Gòn] và ông Ken Moorefield, lúc bấy giờ đang là trợ lý của đại sứ tại Trung tâm Kiểm soát Sơ tán (ECC), hai người họ là những nhân tố không thể thiếu đối với thành công của tôi. Còn cả Đại tá [William] Madison tại Văn phòng Tùy viên Quốc phòng (Defense Attaché Office) nữa. Những con người ấy chính là yếu tố chính tạo nên thành công của hành trình.

Về phần tôi, tôi sẽ dùng từ “bướng”. Khi ai đó cố gắng ngăn tôi làm điều gì đó mà tôi nghĩ tôi có thể làm, thì tôi sẽ tìm cách làm cho bằng được. Bởi vậy tôi cứ ráng xoay xở đủ đường với đại sứ quán và Tùy viên Quốc phòng (Defense Attaché). Một yếu tố khác nữa đơn giản là sự may mắn tuyệt đối. Trong cuốn sách, đã hai lần tôi đề cập đến việc mọi thứ đã có thể diễn ra theo một kịch bản hoàn toàn khác. Ngay từ đầu, nếu họ chọn anh chàng đầu tiên được giao nhiệm vụ này, anh ta rất có thể sẽ chỉ sơ tán được bốn nhân viên [ngân hàng] rồi coi như đó là thành tựu gì lớn lao lắm. Nhưng không, họ đã chọn tôi.

Một trong những điểm nổi bật trong cuốn sách "Rời khỏi Sài Gòn" chính là khả năng quan sát vô cùng sắc sảo của ông. Ông có thể chia sẻ câu chuyện về “đám mây bụi” giăng khắp Sài Gòn không?

Bốn năm trước sự kiện đó, tôi đã làm việc ở Việt Nam với tư cách là một thường dân, tôi làm cho tờ American Express, nhưng lúc ấy tôi sống và làm việc ở Tây Nguyên. Dạo đó, tôi có ghé Sài Gòn một vài lần, và mặc dù nhiều con đường đã được tráng nhựa, nhưng sẽ luôn có một đám mây bụi dày giăng mắc khắp đường phố Sài Gòn. Khi tôi trở lại vào bốn năm sau, tức khoảng 18 tháng sau khi Hiệp định Paris được ký kết và quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam, đám mây bụi đó đã hạ xuống nhiều [chỉ đến độ mắt cá chân]. Trong mắt tôi, hình ảnh đó cũng như một con chó không sủa vậy. Bởi một thứ gì đó đã biến mất khỏi Sài Gòn. Thứ đó tất nhiên, chính sự hiện diện của quân đội Mỹ. 

Ông đã phát triển một mối quan hệ hợp tác thú vị với Nga, một cô gái bán hoa trẻ, có anh trai có liên hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông thấy ở Nga có điểm gì đặc biệt?

Chúng tôi gặp nhau trong một hoàn cảnh thật bi thảm; tôi cảm thấy rất tiếc cho cô ấy. Tôi có thói quen như vầy: Tôi sẽ trả tiền cho những cô gái bán hoa để họ dạy tiếng cho tôi. Tôi đã làm vậy ở Thái Lan, ở Việt Nam và cả những nơi khác. (Nhưng tôi chưa bao giờ làm kiểu "bóc bánh trả tiền" kia đâu.) Đó là một cách học tiếng khá tiết kiệm. Đó là ý định ban đầu khi tôi tìm đến cô ấy. Rồi tôi bắt đầu nhận ra rằng dưới vẻ ngoài gai góc, Nga lại là một người khá lanh lợi và ngọt ngào.

Ông từng có dịp được ngồi trong chiếc Lincoln Continental bóng bẩy của ông Tùy viên Thương mại đại sứ quán (Embassy’s Commercial Attaché). Và cảm giác mất kết nối với thế giới bên ngoài khi ngồi trong con xe đó, dưới ngòi bút của ông, đã thật sự gợi lên nhiều suy tưởng. Liệu ông có thể chia sẻ thêm với các độc giả về khoảnh khắc ấy không?

Khi đi bộ, anh sẽ chú ý được rất nhiều chi tiết xung quanh. Khi đi xe đạp, anh sẽ bắt đầu bỏ lỡ một vài chi tiết. Rồi, khi đi xe hơi, anh sẽ thôi chú ý những chi tiết, nhưng từ trong xe hơi thì vẫn nhìn rõ được bên ngoài, và anh hoàn toàn có thể hạ kính xe xuống để quan sát. Nhưng nếu chiếc xe hơi anh đang đi là một chiếc xe hầm hố chẳng khác gì xe tăng – bọc thép, được trang bị kính chống đạn, còn được lắp điều hòa – thì chắc chắn, anh chẳng thể ý thức được những gì đang xảy ra ngoài kia đâu. Bởi khi mọi âm thanh xung quanh bị dập tắt, thì những suy nghĩ của anh sẽ hướng vào bên trong nhiều hơn bên ngoài. 

Sau này tôi mới xâu chuỗi mọi chuyện và ngộ ra rằng cái thứ đó [chiếc Continental] có thể là một phần nguyên nhân tại sao phía Mỹ mù tịt về tình hình bấy giờ, lẽ đương nhiên là ông đại sứ mù tịt, bởi ông ta lúc nào cũng ngồi trong chiếc xe đó. Nếu anh được cơm bưng nước rót tận miệng, vườn tược thì có người chăm lo, con cháu thì có người săn sóc, chó thì được dắt đi dạo, thứ gì cũng có người làm cho, còn anh chỉ việc lái chiếc Continental đi đó đây, hằng ngày ở trong những căn phòng hạng sang, thì làm sao mà anh có thể ý thức được về những gì đang xảy ra cơ chứ. Tôi nghĩ chắc cũng có những ông đại sứ sẽ đi lang thang vào văn phòng cấp thấp nhất và hỏi han kiểu: “Hôm nay có vấn đề gì không?” nhưng trong số đó không có [Đại sứ] Martin.

Đã gần 50 năm trôi qua kể từ cuộc sơ tán ấy. Trong số hơn một trăm thường dân Việt Nam mà ông đã giúp đỡ (và đã giúp đỡ ông), ông còn giữ liên lạc với những ai? 

Tính đến khi tôi hoàn thành bản thảo, hình như đầu năm 2020, tôi chưa liên lạc được với bất kỳ [đồng sự] người Việt nào. Tôi đã rất nỗ lực tìm kiếm, nhưng chẳng có kết quả gì. 

Rồi tính bướng của tôi nổi lên! Tôi tìm thấy sáu hội nhóm người Mỹ gốc Việt ở Mỹ. Mỗi hội đều có thư thông báo, và tất cả họ đều đang khao khát có một tin thật ấn tượng để đăng lên. Vì vậy tôi đã nhắn cho họ, nói rằng Ralph White, trước đây làm việc ở Ngân hàng Chase Manhattan Bank chi nhánh Sài Gòn, giờ đang tìm kiếm các đồng nghiệp cũ của mình. Tôi nhận được một cuộc điện thoại từ chủ tịch Hội người Mỹ gốc Việt tại New Jersey, anh Tony Nguyễn. Và anh ấy nói, “Này Ralph, tôi biết anh đã làm được những gì. Cha tôi bị bắt ở Sài Gòn sau mùa thu, sau đó ông ấy phải vào trại cải tạo lao động trên rừng trong suốt 10 năm. Người của anh đã suýt phải chịu cảnh tương tự... nhưng chính anh đã cứu họ. Tôi muốn mời anh đến tham dự Gala Tết Nguyên đán của hội chúng tôi.” 

Vậy nên tôi đã cùng bạn gái đến đó; về cơ bản chỗ đó là một phòng tập thể dục nối liền với một trung tâm sinh hoạt cộng đồng ở Piscataway, New Jersey. Theo như tôi nhớ, chúng tôi là những người da trắng duy nhất ở đó. Một người phụ nữ ngồi cạnh tôi và hỏi: “Anh đang làm gì ở đây? Anh có đi nhầm phòng không đấy?” Tôi chỉ đảo mắt bởi lời tôi sắp nói ra với cô ấy có lẽ sẽ nghe vô cùng ngớ ngẩn. “Tôi đang cố gắng tìm các cựu nhân viên của Ngân hàng Chase Manhattan Bank chi nhánh Sài Gòn.” Rồi cô ấy đáp, “Ồ, tôi biết một người làm ở chỗ Chase Saigon... đó đó, cô ấy là bạn thân tôi!” Thế là tin Ralph White xuất hiện cứ càng truyền càng xa, vì vậy tôi đã nhận được nhiều cuộc gọi từ Orlando và Houston và San Francisco ... tất cả đều đến từ những người khi xưa tôi từng quen biết. 

Ông có muốn chia sẻ gì thêm không?

Có một điều tôi không nhắc đến trong sách, và cả [Ken Moorefield] cũng chưa biết, đó là tôi đã đề cử ông ấy nhận Huân chương Tự do của Tổng thống. Đó là để tôn vinh sự dũng cảm của ông ấy với tư cách là người đứng đầu Trung tâm Kiểm soát Sơ tán, khi dám đưa 113 người của tôi – và tôi nghĩ là cả vài ngàn người xuất cảnh trái phép khác nữa – rời khỏi Sài Gòn. Sau này ông ấy lại tiếp tục làm đại sứ ở châu Phi. 

Kể từ sau khoảnh khắc ấy, ông đã ghé lại thăm Việt Nam lần nào chưa?

Tôi đang có kế hoạch về thăm Việt Nam. Cuối năm nay, tôi sẽ chọn một khoảng giữa mùa mưa và mùa nóng, để xem liệu tôi có thể lang bạt và ghé lại những chốn cũ không.

Thục Uyên dịch từ CSMonitor

Sách Rời Khỏi Sài Gòn là câu chuyện có thật và đầy cảm xúc của Ralph White – một nhân viên ngân hàng Mỹ đã liều mình vượt quyền để giải cứu 113 nhân viên và gia đình người Việt trong những ngày cuối cùng của Sài Gòn tháng 4/1975. Với giọng kể chân thành, hài hước và đầy nhân văn, cuốn sách là minh chứng cho lòng dũng cảm và tình người giữa thời khắc hỗn loạn của lịch sử.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Từ viết báo đến viết sách – Những con chữ đi qua lửa

Published

on

Có những con đường không hề cách biệt như ta từng nghĩ. Tưởng như báo chí và văn học là hai lối đi rẽ về hai phía: một nơi sắc lạnh hiện thực, một nơi dịu dàng mộng tưởng. Nhưng thực ra, giữa chúng là một cây cầu âm thầm bắt nhịp từ những con chữ. Và trên cây cầu ấy, biết bao người đã đi, trong lặng lẽ, đam mê, và đôi khi đau đớn, để từ trang báo bước sang trang sách, để từ tiếng nói của thời cuộc hóa thành tiếng lòng của con người.

Vào mỗi dịp 21/6 ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, chúng ta không chỉ tưởng nhớ những người đã ngã xuống vì sự thật, vì lịch sử, mà còn để tướng nhớ trước những người đã viết không chỉ để đưa tin, mà để giữ lại một phần linh hồn thời đại. Những người viết báo, nhưng trong đáy chữ luôn có hơi văn. Những người viết sách, nhưng trong từng dòng vẫn vang vọng nhịp đập của tin tức, của điều vừa xảy ra, đang xảy ra. 

Báo chí: Trường học đầu đời của nhiều nhà văn lớn

Nói đến mối quan hệ giữa báo chí và văn học, không thể không nhắc tới những tên tuổi lớn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, hay sau này là Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Tô Hoài, Nguyễn Quang Thiều - những người đã bước ra từ báo chí để làm nên diện mạo của văn học hiện đại Việt Nam. 

Quả thật, báo chí đã trở thành cánh đồng đầu tiên nơi nhiều nhà văn cắm bút xuống đất, viết ra những mùa màng chữ nghĩa - vừa tươi rói đời sống, vừa nhuốm màu trăn trở nhân sinh.

Ở giai đoạn đầu thế kỷ XX, khi văn học Việt Nam đang chuyển mình từ văn chương chương hồi, biền ngẫu sang hình thái hiện đại, thì báo chí lại chính là chiếc cầu nối đầy táo bạo giữa chữ nghĩa và cuộc sống.

Vũ Trọng Phụng, cây bút hiện thực phê phán sắc bén nhất giai đoạn 1930–1945, đã bắt đầu sự nghiệp bằng những bài báo ngắn, tiểu phẩm và phóng sự đăng đều đặn trên Hà Nội Báo, Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Ông chính là người khai phá dòng văn học phóng sự ở Việt Nam với những tác phẩm như Kỹ nghệ lấy Tây, Lục xì, Cạm bẫy người - vừa mang tính điều tra báo chí, vừa kết tinh phong cách văn chương sâu cay, châm biếm.

Hay Ngô Tất Tố, bắt đầu từ những bài viết báo chí phê phán xã hội nông thôn, để rồi kết tinh lại trong Tắt đèn - một tiểu thuyết xé lòng về kiếp người trong vòng xoáy sưu thuế. Những bài phóng sự ngắn, góc nhìn trực diện của ông về nông thôn Bắc Kỳ thời kỳ Pháp thuộc đã sớm cho thấy một bút lực không khoan nhượng. Và với chị Dậu, khái niệm báo chí đã không còn như ban đầu, mà đã được tiểu thuyết hoá để trở thành biểu tượng cho hàng vạn thân phận bị nghiền nát trong guồng máy bất công - một sức mạnh mà chỉ văn chương mới có thể tạo nên, sau khi đã được chưng cất từ đời sống và ngôn ngữ báo chí.

Có một điều không thể phủ nhận: báo chí không chỉ rèn luyện kỹ năng viết, mà còn giúp nhà văn học cách sống giữa đời thực - nơi mà ngôn ngữ không còn là sự bày biện thẩm mỹ, mà là công cụ để chạm vào con người.

Nam Cao là một minh chứng. Trước khi trở thành nhà văn của những phận người tăm tối như Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc, ông từng là phóng viên chiến trường, viết trong mưa bom, bụi đỏ. Những bài viết khi ấy không chỉ giúp ông rèn kỹ năng quan sát và ngôn ngữ, mà còn hun đúc nên giọng văn nhân đạo đến tận cùng, đau đáu với cái nghèo, cái đói, và lòng tự trọng bị chà đạp.

Nguyễn Tuân, cây bút tài hoa, duy mỹ bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại, cũng có một quá trình dài làm báo. Ông từng là phóng viên chiến trường trong cả kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Nhưng dù là phóng sự, tùy bút hay ghi chép, Nguyễn Tuân vẫn giữ cho mình phong cách “chơi ngông” chữ nghĩa - thứ làm nên linh hồn độc đáo trong Tùy bút sông Đà, tác phẩm kết tinh sự giao thoa hoàn hảo giữa chất liệu thực tế báo chí và cảm hứng nghệ thuật thuần túy.

Với Tô Hoài, hành trình từ báo chí đến văn chương cũng là một dòng chảy liền mạch. Ông bắt đầu viết báo từ thập niên 1930, sau này làm biên tập cho các tờ báo lớn. Những năm tháng gắn bó với nghề viết tin, phóng sự, đã rèn luyện cho ông một lối văn quan sát sắc sảo, từ tốn mà đậm tình. Điều đó thể hiện rõ trong Dế Mèn phiêu lưu ký – tác phẩm thiếu nhi kinh điển, nhưng đặc biệt sâu sắc trong các tập hồi ký như Cát bụi chân ai, Chiều chiều - nơi ông hòa trộn những mảnh đời thực với lớp ký ức văn chương đầy trầm tích.

Được coi là một hiện tượng văn chương sau Đổi mới, Nguyễn Huy Thiệp cũng là cái tên đi lên từ nghề báo, từng sống đời công chức bình dị, dạy học, làm xuất bản, rồi mới bước vào văn đàn với loạt truyện ngắn gây chấn động. Chính chất hiện thực trần trụi, cách nhìn sắc lạnh và nhãn quan xã hội bén nhạy trong văn của ông đã cho thấy dấu ấn của một người từng quen với thực tế đời sống, với cách tư duy nhanh gọn của nghề báo.

Có thể nói, giữa dòng chảy báo chí đầy biến động, họ - những nhà văn - đã không chỉ đưa ngôn từ vào con chữ, mà còn thắp lửa lên từng con chữ. Nhìn chung, có thể khẳng định rằng những cái tên trứ danh đi lên từ bao chi đều là những người viết giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức.

Phóng sự – Giao lộ giữa thời sự và văn chương

Để kể về một trong những dạng thức tiêu biểu nhất cho sự dung hòa giữa báo chí và văn học trong lịch sử, thì ắt hẳn không thể bỏ qua dòng văn học phóng sự - thể loại nở rộ từ đầu thế kỷ XX với những cây bút như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang (Tôi kéo xe), Nguyễn Huy Tưởng (Bốn năm sau), và sau này là các phóng sự chiến trường đầy ấn tượng của Nguyễn Tuân, Trần Đăng, Phùng Quán.

Những tác phẩm như Tôi kéo xe của Tam Lang hay Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng không chỉ dừng lại ở việc thuật lại sự kiện, mà đã trở thành tấm gương phản chiếu xã hội, nơi người đọc vừa thấy thực tại, vừa cảm nhận được góc nhìn sắc sảo, nhân văn của người cầm bút. Phóng sự, nhờ vậy, không chỉ là một thể loại, mà còn là minh chứng sống động cho quyền lực của chữ nghĩa trong việc đối thoại với thời đại.

Phóng sự mang đậm hơi thở thời sự, tinh thần thời điểm, và sức mạnh phản ánh hiện thực - ba yếu tố cốt lõi làm nên giá trị sống còn của báo chí. Đây đều là những điều cốt tủy của nghề viết báo, và khi đi qua bàn tay nhà văn, nó được nâng lên thành nghệ thuật nhờ cách kể chuyện, xây dựng hình ảnh, sử dụng ngôn ngữ và biểu đạt cảm xúc. Những đoạn miêu tả ngắn, những câu kết hóm hỉnh mà giàu suy tư, hay những chi tiết bắt gặp giữa dòng đời, v.v. tất cả được nhà văn khéo léo đặt vào khung hình chữ, vừa chân thực, vừa rung động.

Có thể nói, văn học phóng sự chính là dạng thức rõ ràng nhất của sự giao thoa giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức. Nó vừa yêu cầu tính chính xác, trách nhiệm xã hội của người làm báo, vừa đòi hỏi sự tinh tế, đồng cảm và chiều sâu tư tưởng của người nghệ sĩ ngôn từ.

Báo chí, ở một nghĩa nào đó, chính là chiếc neo giữ cho văn chương không bị trôi dạt khỏi một thực tại đầy biến động mà văn học hiện đại đôi khi e ngại đối diện. Và ngược lại, văn học cũng truyền cho báo chí một điều ngược lại: khả năng lay động cảm xúc, chiều sâu của cái nhìn và sức sống bền bỉ qua thời gian. Những phóng sự xuất sắc không chỉ khiến người đọc "biết", mà còn khiến họ "nghĩ" và "thấy" - bằng đôi mắt của trái tim.

Ngày nay, thể loại này vẫn tiếp tục được phát triển, với các cây bút như Trần Mai Hạnh (Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75), hay qua những ký sự dài kỳ mang tính văn học đăng trên các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, An Ninh Thế Giới. Chúng không chỉ ghi chép sự kiện mà còn truyền tải tinh thần thời đại bằng những câu chuyện đời thường lay động.

Từ sự thật đến hư cấu: Văn học thể nghiệm và ảnh hưởng của báo chí

Bên cạnh văn học phóng sự, một mạch ngầm khác đang trỗi dậy là văn học thể nghiệm, nơi các tác giả không ngại thử nghiệm các hình thức viết mới, trộn lẫn chất báo chí với tư duy tiểu thuyết, hồi ký, thậm chí là phi hư cấu sáng tạo (creative nonfiction). Đây là nơi mà sự thật không chỉ được ghi nhận, mà còn được tái tạo qua lăng kính cá nhân. Người viết không đứng ngoài quan sát, mà dấn thân vào câu chuyện. Họ không chỉ “thấy” mà còn “cảm” và “nghĩ”. Chính sự nhập vai ấy khiến văn học thể nghiệm ngày nay không còn là vùng đất của thuần hư cấu, mà là chỗ để đời sống lên tiếng, không qua trung gian.

Chúng ta có thể nhắc đến các tác giả như Đặng Hoàng Giang với Điểm đến của cuộc đời, hay Phan Việt với Xuyên Mỹ, nơi văn học được viết bằng giọng điệu của nhật ký, ký sự, đôi khi lồng ghép cả dữ liệu thực tế. Ở đó, ranh giới giữa nhà văn và nhà báo được làm mờ, và người viết trở thành một nhân chứng, một người kể chuyện mang tính cá nhân nhưng phản ánh vấn đề chung. 

Các tác phẩm như Chuyện của thiên tài của Nguyễn Thế Hoàng Linh, hay Những thiên đường mù của Dương Thu Hương - dù không trực tiếp là báo chí - vẫn cho thấy ảnh hưởng của lối viết sát thực, sắc lạnh, đậm tính “nhìn thấy rồi kể lại” mà nghề báo rèn giũa. Điều này tạo nên một dòng văn chương dung hợp giữa quan sát xã hội và đào sâu nội tâm, giữa lý trí tỉnh táo và cảm xúc mãnh liệt.

Sự dung hòa giữa cái thật và cái nghĩ, giữa báo chí và văn chương, đang mở ra một không gian viết mới, nơi người đọc không chỉ đọc để biết, mà đọc để thấm, để đối diện với chính mình trong hiện thực đang biến động.

“Văn chương dung hợp” hay sự “khai phá” cho văn học hiện đại

Trong những năm gần đây, sự chuyển mình của báo chí hiện đại - từ báo giấy sang báo mạng, từ đưa tin sang bình luận - đã đồng thời mở ra một không gian mới cho văn chương thể nghiệm. Nhiều nhà văn trẻ hiện nay không chỉ “làm văn học” theo nghĩa truyền thống, mà còn tận dụng các công cụ báo chí, điều tra, ghi chép thực tế, phỏng vấn nhân vật,... để dựng nên những cấu trúc tiểu thuyết “lai” điển hình giữa ký sự, tiểu luận và hư cấu.

Khi báo chí và văn chương hòa quyện, điều ta có được là một thứ văn học không chỉ để "thưởng thức" mà còn để "hiểu", không chỉ để "mơ mộng" mà còn để "thức tỉnh". Thế hệ những cây bút trẻ hiện nay như Nguyễn Ngọc Tư, Phan An, Đinh Hằng, Nguyễn Thiên Ngân cùng nhiều gương mặt khác đang cho thấy một hướng đi thú vị: họ không ngần ngại bắt đầu từ những chuyên trang báo chí, blog, mạng xã hội, nhưng lại làm nên những tác phẩm văn học độc đáo, cá nhân, và giàu chất sống.

Không khó để nhận ra những tác phẩm đương đại đang đi theo con đường dung hợp ấy. Đi như là ở lại của Lê Vũ Trường Giang mang dáng dấp của một hành trình ký sự nhưng lại thấm đẫm chiêm nghiệm nội tâm. Ngay cả những tập truyện ngắn như Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư cũng cho thấy khả năng nhìn đời sống từ một con mắt báo chí - sắc lạnh nhưng không đánh mất độ rung cảm.

Sự lai ghép không làm văn học mất đi bản sắc, mà ngược lại, mở ra những hình thức biểu đạt mới, nơi người viết không còn bó mình trong vai trò “người kể chuyện” mà còn trở thành “người đối thoại”: vừa là nhân chứng, vừa là kẻ kiến tạo thế giới. Trong dòng chảy ấy, “văn chương dung hợp” không chỉ là một khái niệm, mà là một câu trả lời nghệ thuật cho những khắc khoải hiện sinh, cho khát vọng ghi lại thế giới này bằng đôi mắt vừa tỉnh táo vừa dịu dàng.

Sự dung hợp này không đơn thuần là một trào lưu hình thức, mà là cách mà văn học hiện đại đang tìm đường để tái định nghĩa chính mình: không còn khép kín trong thế giới hư cấu, mà mở ra trước những chuyển động của đời sống và con người đương đại. Văn học, nhờ đó không chỉ tiếp tục vai trò phản ánh, mà còn trở thành một công cụ nhận thức - như một cuộc trò chuyện hai chiều giữa tác giả và độc giả, giữa thực tại và tưởng tượng. 

Ngày nay, sự phân ranh giữa nhà báo và nhà văn có thể mờ đi, nhưng điều quan trọng vẫn là: người cầm bút cần giữ cho mình sự trung thực, dũng cảm và thấu cảm, bất kể viết ở thể loại nào. Nhà báo giỏi cũng có thể trở thành nhà văn lớn, và nhà văn, nếu biết lắng nghe đời sống và giọng nói nhân dân, cũng là một nhà báo của tinh thần.

Trong thời đại mà thông tin tràn ngập và cái gọi là “thật” nhiều khi bị thao túng, thứ văn chương dung hợp giữa báo chí và nghệ thuật chính là ngọn lửa giữ cho chữ nghĩa không hóa rỗng. Và hành trình “từ viết báo đến viết sách” sẽ còn tiếp tục như một dòng chảy, nơi con chữ được gọt giũa bởi cả sự thật và cái đẹp.

Hải Đăng

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Khám phá hồn cốt Sài Gòn qua từng trang viết của Phạm Công Luận

Tháng Tư về, Sài Gòn không chỉ rực rỡ pháo hoa, náo nhiệt diễu binh mà còn lung linh với trình diễn drone, 3D mapping hiện đại. Giữa không khí lễ hội tưng bừng, sách Phạm Công Luận lại mở ra một Sài Gòn trầm mặc, nơi hồn phố lắng đọng sau lớp áo hào quang.

Published

on

Hòa mình vào không khí tưng bừng với những màn trình diễn drone ngoạn mục vẽ lên bầu trời đêm, những hình ảnh 3D mapping ấn tượng phủ lên các công trình biểu tượng, hay tiếng reo hò theo các đoàn diễu hành được ví von như “concert quốc gia”..., lòng người không khỏi trào dâng niềm tự hào, phấn khích trước sức sống và sự phát triển của thành phố. Nhưng bên cạnh sự náo nhiệt của những hoạt động kỷ niệm quy mô ấy, Sài Gòn còn có một chiều sâu khác, một lớp trầm tích ký ức mà đôi khi cần những khoảng lặng để cảm nhận.

Giữa vô vàn ấn phẩm viết về Sài Gòn, tác phẩm của nhà báo Phạm Công Luận chiếm một vị trí đặc biệt, như một cánh cửa dẫn lối về những khoảng lặng đó. Sách của Phạm Công Luận là sự kết hợp nhuần nhị giữa tư liệu quý giá, hình ảnh sống động và những câu chuyện kể thấm đẫm tình người. Nhân dịp đại lễ 30/4, thời điểm không chỉ để hướng đến tương lai mà còn để suy tư về quá khứ, việc tìm đọc lại những cuốn sách như Sài Gòn – Chuyện đời của phố (5 tập), Hồn đô thị, Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Những bức tranh phù thế, Made in Sài Gòn, hay Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn: Ký ức rực rỡ… chính là cách để ta kết nối hiện tại sống động với những giá trị tinh thần lắng đọng, thấu hiểu sâu sắc hơn hồn cốt đã làm nên bản sắc riêng của mảnh đất này.

Góc nhìn của người kể chuyện thầm lặng

Phạm Công Luận luôn tiếp cận Sài Gòn bằng đôi mắt và sự say mê tìm tòi của một nhà báo với hơn 30 năm kinh nghiệm. Điều này thể hiện rõ trong cách tác giả thu thập tư liệu và kể chuyện. Phạm Công Luận thường lần theo dấu vết của những câu chuyện đời thường, những phận người tưởng chừng đã bị lãng quên, những chi tiết nhỏ bé nhưng lại hàm chứa cả một giai đoạn quá khứ. Bộ sách Sài Gòn – Chuyện đời của phố là minh chứng tiêu biểu cho phương pháp này. Tác giả không ngần ngại tìm đến những nhân chứng sống, lắng nghe họ kể, đối chiếu thông tin, để rồi tái hiện lại lịch sử một con hẻm, chân dung một họa sĩ vẽ bìa nhạc xưa, hay nguồn gốc tên gọi một địa danh quen thuộc như Ngã ba Ông Tạ.

Chính sự kiên nhẫn và tỉ mỉ trong việc nhặt nhạnh ký ức từ những nhân chứng, kết hợp với việc sưu tầm công phu hình ảnh, hiện vật cũ đã tạo nên giá trị tư liệu độc đáo cho các tác phẩm của ông. Đọc sách của Phạm Công Luận, ta như đang ngồi trong một quán cà phê cóc đầu hẻm, nghe người Sài Gòn kể chuyện xưa, chuyện nay, chuyện người lạ, chuyện người quen, chuyện vui, chuyện buồn… Giọng văn điềm đạm, mang nhiều hơi thở của cuộc sống đời thường nhưng chính sự chân thật, không tô vẽ ấy lại cuốn hút lạ kỳ. Tác giả ý thức được sự mênh mông của đề tài và sự hữu hạn của bản thân nên từng chia sẻ với Bookish khi nói về quá trình thực hiện cuốn sách Có một thời ở Chợ Lớn rằng: “Tuy ra được cuốn này, nhưng tôi thấy mình chỉ mới phản ánh được phần rất nhỏ về cuộc sống phong phú trong khu Chợ Lớn mà thôi.” Sự khiêm tốn này càng làm tăng thêm độ tin cậy và sức hấp dẫn cho những đề tài mà Phạm Công Luận theo đuổi.

Trong bài phỏng vấn trên báo Tuổi Trẻ khi Sài Gòn – Chuyện đời của phố 2 được ra mắt, Phạm Công Luận có trích dẫn câu nói của Will & Ariel Durant về việc sử gia thường chỉ chép về “máu và xác” trên dòng sông lịch sử, mà bỏ quên những người “trên bờ” đang “cất nhà, làm vườn, nuôi con, làm thơ”. Phạm Công Luận tự nhận mình muốn góp sức viết về những câu chuyện “trên bờ” ấy. Đó là những mảnh ghép đời thường, những sinh hoạt văn hóa, những nếp nhà, những tâm tình… tưởng chừng riêng tư nhưng lại góp phần định hình nên tâm hồn, cốt cách của cả một thành phố. Cuốn Hồn đô thị, tuyển tập những bài tùy bút đặc sắc từ bộ sách Chuyện đời của phố, chính là nơi hội tụ của những câu chuyện “trên bờ” đó, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn cái “chất Sài Gòn” thấm đẫm trong từng nếp sống, từng con người. Hay như Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, dù mang tên gọi gợi về quá khứ xa xôi, vẫn giữ mạch kể chuyện gần gũi, soi chiếu lịch sử qua những lát cắt dung dị của đời sống.

Sài Gòn đa diện qua từng trang sách

Thế giới Sài Gòn trong sách Phạm Công Luận vô cùng phong phú và đa dạng, vượt xa những hình ảnh hào nhoáng thường thấy. Đó không chỉ là Sài Gòn của những con đường trung tâm quận Nhứt với giới thượng lưu thanh lịch, mà còn là Sài Gòn của những con hẻm nhỏ ở Đa Kao, Thị Nghè, Phú Nhuận, Chợ Lớn… nơi phần đông người bình dân sinh sống, làm ăn và giữ gìn bản sắc riêng. Người Sài Gòn trong trang viết của Phạm Công Luận cũng vậy, không chỉ có những nghệ sĩ nổi danh, những giai nhân một thuở, mà còn là những người lao động thầm lặng, những gia tộc nhiều đời gắn bó với mảnh đất này, những người nhập cư mang theo vốn văn hóa độc đáo góp phần làm nên sự đa dạng của thành phố. Tác giả kể về họ một cách trân trọng, không phán xét, để độc giả tự cảm nhận về nghĩa khí, sự hào sảng, phóng khoáng nhưng cũng rất mực đời thường của con người nơi đây.

Mỗi cuốn sách lại mở ra một cánh cửa riêng để khám phá những khía cạnh khác nhau của Sài Gòn. Nếu Sài Gòn – Chuyện đời của phố là một bức tranh toàn cảnh với nhiều mảng màu, thì Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn: Ký ức rực rỡ lại như một thước phim quay chậm, đầy chất thơ, tập trung vào những khoảnh khắc, những không gian và những hoài niệm đẹp đẽ về một thời đã xa. Cuốn sách này gợi lại hình ảnh những chiều Chủ nhật nhàn du, những quán xá vỉa hè, những góc phố bán sách xôn xao, những tà áo dài tung bay trong gió sông… khiến những ai từng gắn bó với Sài Gòn không khỏi bồi hồi. Đọc sách, ta thấy được tâm huyết của tác giả trong việc không ngừng khám phá những mảnh ghép đa dạng của thành phố, và chính tác giả cũng từng hé lộ về dự định viết thêm về các khu đô thị khác sau Hồi ức Phú Nhuận và Có một thời ở Chợ Lớn: “Tôi có dự định viết về hai khu đô thị khác như kế hoạch từ đầu là viết về bốn khu đô thị ở thành phố này.”

Bên cạnh những câu chuyện về cộng đồng, về không gian đô thị, Phạm Công Luận còn dành một phần không nhỏ trong tác phẩm của mình để soi chiếu vào chính ký ức cá nhân, đặc biệt là những kỷ niệm tuổi thơ. Cuốn Những bức tranh phù thế là một tập hợp những hồi ức như vậy. Tác giả viết về tuổi thơ không phải để trốn chạy thực tại, mà là để “nhận ra mình là ai”, để hiểu vì sao mình yêu tha thiết thành phố này đến vậy, ngay cả khi nó đã đổi thay. Như chính tác giả bộc bạch: “Khi viết về quá khứ, tôi nhận ra mình là ai, những gì đã tác động đến mình để trở thành một con người đủ cả những điều hay và dở… Tôi hiểu rõ hơn vì sao mình yêu tha thiết một thành phố dù nó dần dần không còn giống nơi chốn mình yêu thương…” Những trang viết này không chỉ là câu chuyện của riêng ông, mà còn chạm đến ký ức chung của nhiều thế hệ người Sài Gòn, về những trò chơi thơ bé, những món quà vặt hè phố, những hương vị, âm thanh đã gắn liền với một thời hoa mộng.

Lưu giữ di sản vật chất và tinh thần

Một đóng góp quan trọng khác của Phạm Công Luận là nỗ lực sưu tầm và giới thiệu những di sản mang tính vật chất, những chứng nhân của một thời kỳ sản xuất, kinh doanh sôi động tại Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn. Cuốn sách Made in Sài Gòn là một ví dụ điển hình. Với tập hợp hàng trăm hình ảnh về nhãn hiệu, bao bì sản phẩm, quảng cáo trên báo chí xưa… cuốn sách không chỉ là một bộ sưu tập độc đáo về thiết kế đồ họa một thời, mà còn phần nào phác họa lại bức tranh kinh tế, xã hội và đời sống tiêu dùng của người Sài Gòn trong khoảng nửa thế kỷ. Tác giả chia sẻ, động lực thực hiện cuốn sách này là vì “mong muốn qua cuốn sách, người đọc biết thêm về nền sản xuất và dịch vụ của Sài Gòn xưa, nơi không chỉ là thành phố tiêu thụ mà làm ra được nhiều sản phẩm phục vụ cuộc sống. Và để cho những ai từng sống ở đây trong nửa thế kỷ trở về trước ôn lại kỷ niệm thời ấu thơ của họ với những gì họ từng dùng.”

Quá trình thực hiện Made in Sài Gòn cũng cho thấy sự kỳ công và nghiêm túc của Phạm Công Luận. Tác giả không chỉ sưu tầm hình ảnh mà còn cố gắng xác minh nguồn gốc, thông tin về từng sản phẩm, từng thương hiệu. Việc này không hề dễ dàng, bởi thời gian đã làm thất lạc nhiều tư liệu, và không phải thương hiệu nào cũng còn dấu vết rõ ràng. Phạm Công Luận thẳng thắn thừa nhận những khó khăn gặp phải: “Có những thương hiệu rất nổi tiếng, thí dụ như bột Bích Chi, dầu khuynh diệp bác sĩ Tín và nhiều nhiều nữa lại không có hình ảnh nên không thể giới thiệu. Có một số sản phẩm rất quen thuộc, có hình ảnh quảng cáo nhưng không rõ gốc gác (sản xuất trong nước hay nhập ngoại) nên không đưa vô.” Chính sự cẩn trọng và minh bạch này càng làm tăng giá trị tham khảo cho cuốn sách Made in Sài Gòn.

Nhìn chung, toàn bộ các tác phẩm viết về Sài Gòn của Phạm Công Luận, từ Chuyện đời của phố đến Made in Sài Gòn, từ Hồn đô thị đến Ký ức rực rỡ, đều xuyên suốt một tinh thần: trân trọng và nỗ lực lưu giữ ký ức đô thị, cả về vật chất lẫn tinh thần, trước sự bào mòn của thời gian và những biến đổi không ngừng của xã hội. Phạm Công Luận làm việc đó một cách thầm lặng, bền bỉ, giống như cách tác giả mô tả về công việc viết lách của mình là “viết sách theo kiểu ‘dàn hàng ngang’, bản thảo nào xong trước mới đưa cho nhà xuất bản xem xét”.

Trong không khí của những ngày tháng Tư lịch sử, đọc sách Phạm Công Luận không chỉ là tìm về hoài niệm, mà còn là một cách để hiểu thêm về sức sống mãnh liệt, khả năng tự phục hồi và thích ứng của Sài Gòn, một thành phố luôn rộng mở, luôn chuyển mình nhưng vẫn giữ được những nét hồn cốt riêng biệt, đáng quý. Đó là những di sản vô giá mà thế hệ hôm nay cần biết, cần trân trọng và tiếp nối.

Kodaki

Đọc bài viết

Cafe sáng