Trà chiều

Như một người đã chết rồi

Franz Kafka từng nói: “Tôi cần sự cô độc cho lối viết của mình; không phải giống như một ẩn sĩ – điều đó không đủ – mà là giống như một người đã chết rồi.”

Published

on

Cũng như rất nhiều người, tôi thích văn Kafka, thích nhiều câu nói của ông nhưng chưa bao giờ tôi thích một câu nào đó nhiều như câu này: thích ở mức độ lẩm nhẩm rất nhiều ngày, nhiều tuần trong đầu sau khi đọc nó; thích ở mức độ mỗi lần buồn và nghĩ về nó là có thể tự an ủi bản thân. Câu nói này thể hiện sự nghiêm túc với ý thức cao độ nhất của một người viết. Tôi luôn thích những gì nghiêm túc, chân thành. Thậm chí, nghiêm túc đến cực đoan với tôi vẫn tốt hơn nhiều sự đùa giỡn dù mục đích xuất phát từ niềm vui hồn nhiên, vô tư. Tôi biết rằng có quan điểm nghệ thuật là một trò chơi, ta cứ chơi đùa trong nó như một đứa trẻ không vụ lợi. Nhưng tôi cho rằng đứa trẻ đó không nên xuất hiện ngay từ đầu, trò chơi đó không nên thiết lập ngay từ đầu. Tôi thích mọi thứ khởi nguồn từ sự nghiêm túc và trò chơi, đứa trẻ chỉ xuất hiện sau khi ta đã hăng say trong sự nghiêm túc đó và quên mất đi rằng mình đang nghiêm túc, không cảm thấy khổ sở vì mình nghiêm túc, cảm thấy sự nghiêm túc như một không khí và mình có thể thoải mái sống trong đó. Tuy vậy, mỗi người có một cách làm việc, sáng tạo khác nhau và không thể áp đặt cái phù hợp với mình lên người khác. Đó chỉ là cách thức làm việc của tôi. Nếu ngay từ đầu, tôi không thể suy nghĩ mọi thứ một cách nghiêm túc, tôi sẽ không thể bắt đầu được công việc. Nếu như có suy nghĩ mình chỉ làm chơi cho vui thì đó thuộc về việc thư giãn hay luyện tập, không phải làm việc. Và khi sự nghiêm túc bắt đầu tăng dần đến mức cực độ trong giới hạn bản thân, những lúc đó tôi mới nghĩ rằng mình có thể sáng tạo. Hành động suy nghĩ nghiêm túc giống như bước khởi đầu tôi tự thuyết phục mình phải tin vào thế giới tưởng tượng của chính mình, khi sự nghiêm túc xoay quanh thế giới đó đủ lớn, đấy chính là lúc tôi khởi sự viết. Có lẽ là việc suy nghĩ nghiêm túc ở đây giống như bước xác nhận của máy tính trước khi hoàn thành một tác lệnh nào đó: “Are you sure you want to do that?” hoặc cũng giống như bước khởi động để kích hoạt cơ thể trong trạng thái sẵn sàng hoạt động của vận động viên trước khi thi đấu. Tôi không phủ nhận đã từng có lúc vì quá mệt mỏi mà tôi xem viết như một cách để chơi đùa, để giải trí, để thư giãn cho khuây khỏa những nỗi buồn. Dù sao, điều tối cơ bản khi ta muốn làm một việc gì đó là điều ấy trước nhất phải khiến bản thân ta vui, hoặc tệ lắm cũng là ta thấy thoải mái với nó. Nhưng để thật sự đắm mình trong say mê sáng tạo, chỉ có sự nghiêm túc tuyệt đối từ lúc khởi phát mới trở thành động lực thật sự để tôi đi đến tận cùng con đường của mình. Nếu ngay từ đầu đã viết mà không có suy nghĩ nghiêm túc, tôi dễ bị đuối sức giữa chừng hoặc có khi là bỏ ngang hoặc có khi những thứ viết ra chỉ là các phiến đoạn ngắn. Tôi không biết vì sao mình yêu việc viết đến như thế. Nhưng cũng không hẳn là tôi yêu nó quá nhiều. Nó vẫn khiến tôi cảm thấy trống rỗng. Đôi khi trống rỗng đến mức cảm thấy bản thân mình như đang không tồn tại. Tôi cũng không biết từ khi nào mình lại quan trọng sự nghiêm túc đến thế, đặc biệt là sự nghiêm túc trong việc viết. Có lẽ, đây là một dấu hiệu chuyển biến tích cực. Chỉ là đôi khi tôi thấy hơi mệt mỏi.

Một năm vừa qua, tôi đã sống gần như câu nói của Kafka. Tôi cảm thấy mình như một người đã chết rồi. Tôi luôn suy nghĩ trong đầu: “Mình là một người đã chết rồi. Dù mình đang đứng ở đây, đang nói chuyện với mọi người. Có thể là nói một vấn đề nào đó không thuộc về mình, có thể là nói một vấn đề nào đó thuộc về mình. Mình có thể có cảm xúc với việc này, việc kia. Nhưng thực sự mình không ở đây. Mình luôn không ở đây. Tất cả những điều đang ở đây trên da thịt mình hay những thứ vật chất mình đang tạo ra đều không thuộc về mình. Trong lòng mình chẳng tồn tại điều gì. Mình chỉ đơn giản là đứng ở đây, chịu sự tác động từ mọi thứ, thu nhận lại và quan sát. Một người đã chết rồi thì không thể tác động điều gì đến xung quanh.” Khi nghĩ như thế, cuộc sống của tôi tối giản hơn rất nhiều: tôi không bận tâm việc cố gắng duy trì các mối quan hệ, tôi không bận tâm chính cảm xúc của mình là vui hay buồn, tôi không bận tâm đến việc còn ai nhớ hay đã lãng quên mình, tôi để cho mọi thứ như nó là, chỉ cố gắng thu nhận những gì mình muốn như một mảnh đất lặng lẽ hút những mạch nước ngầm thấm sâu trong lòng hay mưa từ trên trời rơi xuống, hay không khí xung quanh, những tán lá rơi và mục rữa mỗi ngày. Chỉ thu vào và không phát ra. Tôi đã suy nghĩ như thế trong khoảng hai, ba tháng hoặc hơn thế. Và khi sống với suy nghĩ như một người đã chết rồi đó trong khoảng thời gian ấy, tôi nghĩ rằng mình dần dần có thể hiểu ý của Kafka theo cách nghĩ của mình. Ban đầu, tôi nghĩ rằng thứ suy nghĩ cần sự cô độc như một người đã chết rồi cho lối viết của mình nghĩa là sự lánh đời, tránh xa những phù phiếm của cuộc sống bên ngoài để tập trung lắng nghe tiếng nói bên trong của bản thân như một con kiến tự suy nghĩ về cuộc đời nó khi đang ở trong một lỗ sâu mà nó tự đào đâu đó để làm tổ, tránh xa sự rình rập nguy hiểm từ những con mắt xung quanh. Nhưng khi dần sống với suy nghĩ cô độc như một người đã chết rồi, tôi mới nhận ra suy nghĩ của Kafka không hẳn hoàn toàn là suy nghĩ lánh đời. Khi bạn nghĩ rằng bạn đã chết rồi nghĩa là cái tôi của bạn không còn quan trọng nữa, bạn không còn cái tôi nữa, và khi đó, mọi sự xung quanh bạn đều có thứ mà bạn có không có – cái tôi; vậy là, mọi sự xung quanh bỗng dưng trở nên quan trọng hơn bạn rất nhiều. Khi tôi nghĩ rằng mình đã chết rồi, tôi mới cảm thấy rõ rệt rằng mỗi người đều có một câu chuyện riêng và câu chuyện nào cũng đáng được trân trọng, cái tôi nào cũng đáng được trân trọng, không nên bỏ rơi hay lãng quên bất cứ điều nào đã đến với mình trong cuộc sống này vì dù là tình cờ hay hữu ý, mọi thứ đều xuất phát từ một sự sắp đặt kì công nào đó. Dù chỉ là trong suy nghĩ thôi nhưng khi tôi chết rồi, tôi mới thấy mọi thứ xung quanh thật đẹp đẽ. Chúng đẹp đẽ không chỉ vì có câu chuyện riêng mà còn vì đơn giản là chúng đang sống, chúng vẫn tiếp tục vận động, biến đổi không ngừng; trong khi đó, tôi lại là một người đã chết rồi, chỉ biết lặng lẽ đứng yên một nơi ngắm nhìn tất cả, không thể chia sẻ với bất kì ai, tôi cứ duy trì mãi trạng thái bất động, không biến chuyển đó. Có thể thu vào nhưng lại không thể phát ra. Có mặt ở đó nhưng lại như không có mặt ở đó. Sống mà như một người đã chết rồi. Cảm giác ấy mới thật cô độc làm sao. Nhiều lúc, sự nhạt nhòa ấy khiến tôi nghĩ rằng mình có thể khóc một mình. Nhưng nó thật là đẹp. Và cuộc sống thật là đẹp. “Life is beautiful but you don’t have a clue.” Lana Del Rey. Nàng đã hát như thế. Đúng là vậy thật nhỉ.

Có một lần, tôi tình cờ đọc được bài phỏng vấn Taylor Swift. Trong đó, người ta hỏi làm sao nàng có thể vừa sống vui vẻ, vừa sáng tác nhạc hay như thế. Nàng đã trả lời đại ý rằng: “Tôi luôn sống với suy nghĩ mình là một người đã 80 tuổi rồi. Khi bạn nghĩ bạn đã già, bạn không còn nhiều thời gian nữa, tự nhiên bạn sẽ loại bỏ đi rất nhiều thứ không thật sự quan trọng lắm với bạn và chỉ giữ lại những thứ quan trọng, những thứ làm bạn vui. Mỗi ngày tỉnh dậy tôi đều nghĩ mình là một người đã 80 tuổi rồi, tự khắc ngày hôm đó tôi sẽ biết mình muốn làm gì và tôi tận hưởng niềm vui sống mỗi ngày với những điều đơn giản. Tôi nghĩ mình là một người sống chậm.” Tôi khá bất ngờ khi nàng có suy nghĩ đó vì nhìn vẻ bề ngoài của nàng, nghe những bài hát của nàng, đọc một vài câu chuyện về đời sống riêng tư của nàng, tôi không thể nào hình dung được nàng lại sống với suy nghĩ đó mỗi ngày, nhất là khi nàng lại là một Nhân Mã. Nhưng nàng lại là một Nhân Mã với moon sign Cự Giải. Có lẽ sự trầm tính ấy ẩn sâu trong suy nghĩ của nàng, trong sinh hoạt hằng ngày hơn là những biểu hiện bề nổi bên ngoài. Và ngẫm nghĩ kĩ, thực ra suy nghĩ đó phần nào cũng có lí. Vì từ suy nghĩ đó có thể dẫn ra hai hướng hành động khác nhau: hoặc người ta sẽ sống chậm như một người già thực sự để quan sát cuộc sống; hoặc vì nghĩ mình không còn nhiều thời gian nữa mà chỉ làm những điều mình muốn, không bận tâm việc đó sẽ đem lại hậu quả gì. Có lẽ, nàng đã hành động theo hướng thứ hai. Hướng thứ hai thì giống một Nhân Mã nhưng suy nghĩ xuất phát điểm bên trong lại giống một Cự Giải. Có lẽ là vậy. Rồi tôi bắt đầu suy nghĩ hay là mình thử đổi lại đi. Không suy nghĩ giống như một người đã chết rồi của Kafka nữa mà thử suy nghĩ mình giống như một người đã già của Taylor Swift xem thế nào. Nhưng vấn đề là già đi bao nhiêu tuổi? Tôi không nghĩ mình sẽ chọn con số 80 vì nó quá lớn, có thể phản tác dụng với tôi, có thể khiến tôi sống kiểu bất cần hay YOLO mà đưa ra những quyết định sai lầm. Tôi quyết định rằng mình sẽ sống như một người đã 30 tuổi. Tôi nghĩ đó là một con số phù hợp và vừa vặn. Tôi chỉ nâng số tuổi trong suy nghĩ của mình so với số tuổi thực nhiều hơn 6 tuổi thôi giống như việc người ta vặn kim đồng hồ sớm hơn 5 hay 10 phút so với giờ thực để có dư thời gian trừ hao, để chuẩn bị sớm, để không bị trễ. Tôi cũng vậy. Tôi vặn số tuổi của mình lên 6 đơn vị.

Và rồi một buổi sáng tỉnh dậy, tôi trở thành một người 30 tuổi. Cũng giống như những người chỉnh đồng hồ sớm thường hay quên việc mình đã chỉnh sớm mà nhầm tưởng thời gian trên đồng hồ là giờ thực, tôi cũng dần quên mất việc mình đã vặn tuổi lại cho nó chạy sớm hơn. Vậy nên, có những buổi sáng tỉnh dậy, tôi cảm thấy buồn vì như có ai đó đã lấy mất đi 6 năm của mình, tệ hơn nữa là 6 năm đó tôi đã bị mất đi mà không biết nguyên nhân là gì, nó cứ tự nhiên mà mất đi như thế, tôi không còn là 24 nữa, tôi đã 30. Trong mỗi suy nghĩ trước quyết định gì đó có liên quan đến tuổi tác, thay vì nghĩ: “Mình đã 24 rồi,” tôi lại nghĩ “Mình đã 30 rồi đó,” hoặc là “Mình đã bị mất 6 năm lãng phí rồi đó, đừng để lãng phí thêm bất cứ thời gian nào nữa.” Với suy nghĩ đó, tôi nhận thấy mình bắt đầu làm những điều mình muốn một cách tích cực hơn, nghiêm túc hơn, tỉ mẫn hơn một chút. Không phải vì tôi không còn nhiều thời gian nữa mà vì tôi không muốn lãng phí thêm bất cứ thời gian nào như 6 năm tôi đã mất. Tôi thấy vui với việc mình ngày càng coi trọng sự nghiêm túc và cố gắng để làm việc nghiêm túc hơn.

Ở tuổi 30, tôi bắt đầu đối diện với chứng ruồi bay. Thực ra thì tôi không thấy nó giống ruồi nhưng có lẽ nhiều người thấy nó giống ruồi hơn nên họ đặt là chứng ruồi bay. Tôi thấy những đốm trong suốt di chuyển trước mắt mình ấy giống như những con nòng noọc hơn, hoặc là một nét gạch nguệch ngoạc của đứa trẻ nào đó, hoặc là những lỗ tròn nhỏ được tạo ra bởi một đầu kim đâm thủng bề mặt phẳng nào đó, hoặc giống như những bong bóng xà phòng thổi ra từ đồ chơi của một đứa trẻ nào đó bị thu nhỏ kích thước lại, vô tình trôi vào mắt tôi. Điều tôi buồn nhất là mình không còn được ngắm bầu trời trong xanh thật sạch sẽ, thoải mái nhìn mọi vật sáng rực dưới ánh nắng vàng mà không có bất kì vật thể nào lơ lửng như khoảng một tháng trước đây nữa. Tôi không biết mình có ruồi bay từ khi nào, đến một ngày đẹp trời khi tôi nhận thức được thì nó đã ở đó. Cũng giống như việc một ngày tôi tỉnh dậy và phát hiện rằng mình đã 30 tuổi.

Những người yêu văn chương thường hay nói: “Tôi yêu văn chương như thể nó là máu mủ của chính tôi, là hơi thở cho tôi sống.” Tôi cũng đã từng nghĩ như thế. Nhưng dần dần, tôi không còn xác tín về tình yêu này nữa. Đôi khi tôi yêu nó, đôi khi tôi không yêu nó. Viết hay văn chương không bao giờ là thứ khiến tôi tự tin rằng mình đã hoàn toàn có nó hay nó là của mình, nó thuộc về mình như máu mủ, như hơi thở được. Tôi luôn cảm thấy mình phải bắt đầu lại từ đầu. Khi tôi vừa viết xong một câu chuyện, tôi quên mất cách để viết một câu chuyện. Tôi không có tự tin câu chuyện sau mình sẽ viết hay hơn câu chuyện trước vì mình đã có kinh nghiệm rồi. Tôi luôn khởi sự một câu chuyện như người mới tập viết đầy lúng túng, bối rối, ngỡ ngàng. Và trong giây phút bàng hoàng khi vừa bắt đầu ấy, tôi cố gắng bình tĩnh để suy nghĩ lại cấu trúc cho nó. Rồi tôi viết, tôi viết… cho đến khi quên hết tất cả và kết thúc câu chuyện, kết thúc những điều mình muốn nói. Trước đây, tôi không thích việc này cho lắm. Tôi thích việc mình phải nhớ rõ ràng cách thức những gì mình đã viết trước đây để tích lũy, để rút kinh nghiệm cho những lần sau. Tôi thích mình phải có chút tự tin khi viết. Nhưng bây giờ, tôi lại thích sự thiếu tự tin này. Tôi chấp nhận nó. Chấp nhận việc mình quên cách viết một câu chuyện như thế nào, chấp nhận việc mình luôn khởi đầu viết như một người mới tập kể chuyện. Việc viết vừa là một điều gần gũi vừa là một điều xa lạ như thế này khiến tôi sẽ mãi mãi yêu nó. Thiếu tự tin nếu hiểu một cách tích cực thì nó có thể gần gũi với tính cẩn trọng. Vì khi thiếu tự tin, người ta thường dễ dàng cẩn trọng hơn, dễ dàng chuẩn bị kĩ lưỡng hơn cho mọi việc, dễ dàng trở nên nghiêm túc hơn. Tôi nghĩ thiếu tự tin cũng có nhiều điểm tích cực không kém gì tự tin; hoặc là tôi đã ở độ tuổi biết học cách yêu lấy những khuyết điểm của mình, cho nó những lí do chính đáng để tồn tại, nhìn được mặt tích cực trong khuyết điểm ấy. Nhưng về sự thiếu tự tin, có một điều mâu thuẫn là khi tôi chấp nhận sự thiếu tự tin của chính tôi thì lúc đó, tôi lại thấy tự tin, nghĩ rằng sự thiếu tự tin của mình là đúng đắn ở một khía cạnh nào đó cũng giống như tự tin với sự thiếu tự tin của mình vậy.

Một người chị từng nói với tôi rằng: “Hình như những gì em làm, cái nào cũng đều rất nghiêm túc. Chị thích sự nghiêm túc đó. Đừng đánh mất nó nhé.”

Tôi rất hạnh phúc khi nghe câu nói đó vì cảm giác rằng những cố gắng của mình đã được ai đó nhận ra. Và chỉ cần nhận ra rằng tôi nghiêm túc với những gì mình làm là đủ. Tôi cũng thích sự nghiêm túc của chính mình. Ở thời khắc chuyển giao khi kết thúc tuổi 30, bắt đầu tuổi 31 này, tôi cũng chỉ mong mình sẽ giữ mãi sự nghiêm túc đó. Mong ước cho sinh nhật năm nay của mình, tôi chỉ ước đơn giản như vậy. Lẽ ra sinh nhật thường phải cầu mong những thứ mình chưa có, chứ không phải những thứ mình đang có nhưng sau rất nhiều mất mát đã xảy ra, tôi nhận thấy rằng chẳng có thứ nào mình đang có sẽ chắc chắn luôn nằm ở đó, không biến mất đi. Thứ đang có sẽ có thể trở thành thứ không còn có nữa. Vậy thì việc mong những thứ mình đang có vẫn tiếp tục sẽ có cũng là một điều quan trọng cần phải cân nhắc bên cạnh ước mong cho những điều mình chưa có. Người ta nói có sức khỏe là có tất cả. Điều đó đúng với tất cả mọi người. Điều đó cũng đúng với tôi-một người có vài vấn đề trục trặc về sức khỏe nhưng khi tôi thử suy nghĩ rằng nếu mình có sức khỏe thật tốt, ai đó có thể giải quyết giúp mình mọi vấn đề trục trặc về sức khỏe hiện tại và đưa nó về ngưỡng lí tưởng của vạch xuất phát, nhưng lúc đó, mình lại mất đi sự nghiêm túc, mình hời hợt với mọi thứ, mình không yêu bất cứ điều nào sâu đậm, không cuồng nhiệt, hăng say, miệt mài làm bất cứ điều gì đến quên cả thời gian, lúc ấy, dù cho có khỏe mạnh thế nào đi chăng nữa, mình cũng chỉ sống như một người đã chết rồi. Vậy nên tôi mong mình sẽ không bao giờ đánh mất sự nghiêm túc hiện đang có.

Ngày này một năm trước là một trong những ngày cuối cùng thầy tôi còn làm việc trước khi qua đời sau đó ba ngày… Đó là một ngày buồn, một tháng bảy buồn, một năm buồn với tôi. Tháng bảy năm ấy đã trôi qua thật chậm chạp, uể oải mà cũng đã vụt trôi đi thật vội vàng, nhanh chóng. Một năm vừa qua, mỗi lần buồn tôi lại nghĩ đến những ngày cuối cùng của thầy, nghĩ đến việc thầy đã phải chịu đựng cơn đau về thể xác như thế nào, sự cô đơn về tinh thần như thế nào khi không chia sẻ cùng ai tình trạng bệnh thật sự của mình để cố gắng làm việc bình thường đến tận những ngày cuối cùng. Tôi nghĩ về hình ảnh thầy những lúc ấy để tự động viên bản thân mình những lúc buồn, để cố gắng hạn chế liên lạc hay tâm sự làm phiền người này, người kia; thay vào đó, những lúc càng buồn nhất phải là những lúc càng chăm chút những gì mình đang làm nhất. Có thể vì đang buồn mà làm chậm hơn bình thường một chút nhưng không được vì thế mà làm cẩu thả đi. Dù cố gắng như thế, nhưng năm qua cũng có những giây phút tôi quá yếu lòng mà buông xuôi tất cả, thẫn thờ nhiều ngày trời, chìm trôi trong những suy nghĩ chồng chéo nhau đến mức không thể thấy được nút thắt do chính mình tạo ra mà tìm cách tháo gỡ. Vậy nên, tôi cũng mong rằng, ở tuổi này, dù có chuyện gì đi nữa, tôi cũng vẫn sẽ giữ được sự bình tĩnh để tiếp tục cố gắng, tiếp tục nghiêm túc. Và nếu một nơi như thiên đường hay Akaibu là có thật, tôi mong rằng có thể gặp lại thầy mà không phải quá ngượng ngùng vì những điều mình đã sống, những điều mình đã làm.

Cuối cùng là: Chúc mừng sinh nhật bản thân. Tuổi mới hạnh phúc nhé. Và cố gắng làm điều gì đó để ngày này năm sau có thứ mà khi nghĩ về, mình sẽ cảm thấy vui. Hãy cứ tin vào những gì mình làm, tiếp tục cố gắng, đừng bao giờ đánh mất sự nghiêm túc. Phải cố gắng là một người có trách nhiệm.

Happy birthday!

Hết.

K

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng