Trà chiều

Truyện cổ tích và sự khác biệt trong cách các nền văn hóa nhìn nhận thế giới

Cho dù chúng ta có nhận ra hay không thì những câu chuyện thuở nhỏ, đặc biệt là truyện cổ tích, trở thành khuôn mẫu để ta phân định cấu trúc truyện thành công là như thế nào.

Published

on

Hôm nay là Lễ Giáng Sinh, và tôi đang ngồi đây đọc đến ba quyển sách cho đứa con trai sáu tuổi trước khi nó đi ngủ. Trong đó, có một quyển truyện Nhật Bản mà tôi chưa từng đọc, nói về thế giới của chú mèo trắng tinh nghịch mang tên Nontan.

Trong Nontan! Santa kìa!, Nontan khởi đầu hành trình trong đêm đầy tuyết, cầm theo chiếc tất Nô-en với hy vọng gặp Ông Già Tuyết và mau chóng nhận được món quà cậu mong muốn: một chiếc xe đồ chơi màu đỏ. Bên ngoài căn nhà của ba chú thỏ bạn cậu (những người đang ngủ ngon lành), Nontan thấy được Santa! Nhưng ông già Nô-en lại là một chú thỏ. Nontan được chỉ rằng cậu phải tìm ra ông già Nô-en cho mèo, vì ông già Nô-en thỏ không được phép tặng bất cứ thứ gì cho loài mèo. Bên ngoài căn nhà của bạn gấu (cũng đang ngủ say), Nontan lại tìm thấy Ông già Nô-en, nhưng tất nhiên, ông già này là dành riêng cho gấu mà thôi.

Nontan nhỏ bé lê bước mệt nhọc trong bộ quần áo ngủ, tay cầm chiếc tất Giáng sinh, và bầu trời nhanh chóng tràn ngập ông già Nô-en bay vụt qua. Trong cơn mê sảng do giảm thân nhiệt (tôi đoán thế), Nontan thấy một Santa cá vàng bơi trong bể cá trên chiếc xe tuần lộc. Có Santa tuần lộc, Santa rắn (được kéo bởi hai con rắn khác), Santa cua (được kéo bởi một con rùa), Santa nhện (đi nhờ xe của Santa người) và thậm chí cả mụ phù thủy Halloween cũng bay dạo một vòng. Nhưng chẳng có Santa mèo. Nontan nhanh chóng ngủ quên dưới một tán cây, trong khi tuyết tiếp tục rơi. Thế giới thật lạnh lẽo với một chú mèo nhỏ bị lạc trong đêm tuyết.

Tất nhiên ở phương Tây chỉ có một ông già Nô-en mà thôi (không tính ông già Nô-en trong siêu thị). Nhưng con trai của tôi, từ nhỏ đã được nghe những câu chuyện từ cả phương Tây và phương Đông, không có vấn đề gì với tình tiết lạ lùng này. Đó chỉ đơn thuần là một câu chuyện. Có một thể loại truyện khác, lấy bối cảnh Nhật Bản, trong đó thứ này luôn biến thành hàng trăm thứ khác nhau; nơi động vật, đôi lúc cả đồ ăn trong tủ lạnh, có thể nói chuyện, và mạch truyện không cần phải đi theo những xu hướng tuyến tính thông thường. Đây không phải là lần đầu tiên tôi nhận thấy: chúng ta đã mặc định phương hướng phát triển của mạch truyện từ khi còn rất nhỏ. Cho dù chúng ta có nhận ra hay không thì những câu chuyện thuở nhỏ, đặc biệt là truyện cổ tích, trở thành khuôn mẫu để ta phân định cấu trúc truyện thành công là như thế nào, và cấu trúc nào sẽ khiến độc giả cảm thấy thỏa mãn.

*

Tôi đã nghĩ rất nhiều về cách chúng ta tiếp thu các câu chuyện. Trong những năm tôi hai mươi, tôi từng nhận lá thư từ chối từ nhà xuất bản cho một bản thảo (mà bây giờ tôi hy vọng không ai đọc được nó). Lá thư có những cụm từ như “trở thành một nhà văn tốn rất nhiều thời gian”, và “có lẽ cô nên cân nhắc đến trường học hỏi.” Cô ấy cũng đề nghị tôi nên đọc Hành Trình Người Viết của Christopher Vogler.

Tựa đề Hành Trình Người Viết được lấy cảm hứng từ quyển The Hero With a Thousand Faces (tạm dịch Người anh hùng với 1000 khuôn mặt) của Joseph Campbell, xuất bản năm 1949. Quyển sách sử dụng trường phái tâm lý học của Carl Jung để minh họa cho lý thuyết tất cả các thần thoại về cơ bản đều là một. Nhân vật chính – người anh hùng – vượt qua khó khăn trong hành trình tìm được chính mình. Ẩn chứa trong những truyền thuyết này là bí quyết hữu dụng để tiêu diệt những con rồng ẩn dụ, chế ngự Medusa (hoặc có lẽ là làm thế nào để ngay từ đầu không biến thành Medusa), và vì sao bạn không nên yêu mẹ mình nhiều quá. George Lucas ghi nhận Joseph Campbell là người đã truyền cảm hứng để ông thêm thắt những yếu tố thần thoại vào Chiến tranh giữa các vì sao, ám chỉ rằng câu chuyện của Luke và Jedi không chỉ là một bộ phim hoạt hình thứ bảy đóng gói trong dạng thức điện ảnh – bom tấn khoa học viễn tưởng này có nội dung sâu sắc hơn thế. 

Hành Trình Người Viết khuyến khích các nhà văn phải hiểu phương hướng kiểu mẫu của truyền thuyết để viết nên những câu chuyện hoàn hảo, kết nối được với độc giả (và sẵn tiện kiếm bội tiền). Vogler giải thích rằng quyển sách của ông là lời nhắn nhủ nội bộ đến những công ty làm phim, và nó là một trong những yếu tố quan trọng đóng góp vào sự trỗi dậy của phim Disney vào cuối thập niêm 80 của thế kỉ XX, một quá trình bắt đầu bằng Nàng tiên cá, và đạt đỉnh cao gần đây nhất là Chiến tranh những vì sao: Thần lực thức tỉnh

Vì vậy, tôi đọc Hành Trình Người Viết. Tôi đọc về Sự Từ Chối Lời Kêu Gọi (The Refusal of the Call – việc nhân vật chính thoạt tiên từ chối không can dự dù sứ mệnh đã xuất hiện), và nếu bạn đã xem bộ phim Chiến tranh giữa các vì sao mới đây, bạn sẽ thấy nhân vật Rey cũng trải qua Sự Từ Chối này. Tôi đã đọc về Vị Cố Vấn Thông TháiCon Đường Đi Đến Nội Tâm Trong Nhất. Tôi đọc về cách làm thế nào, trong những câu chuyện nổi tiếng, người anh hùng kết thúc cuộc hành trình và nhận được cái mà Vogler gọi là Phần Thưởng. Chỉ khi người anh hùng hoàn thành cuộc hành trình, người đọc mới được trải nghiệm cái cảm xúc mà Aristotle gọi là “sự thở phào”. Một câu chuyện chỉ thành công khi có được sự đồng cảm từ độc giả. Ta đã được trải nghiệm cảm giác đó khi E.T. về nhà (E.T.) và khi Rose sống sót qua thảm hoạ và thay đổi theo hướng tích cực hơn từ những trải nghiệm trên tàu Titanic (Titanic).

Khi Vogler viết rằng một câu chuyện thành công sẽ kích hoạt phản ứng cơ thể, tôi hiểu ý ông ấy. Ai mà không hiểu chứ? Ai mà không từng ngồi hàng giờ trước TV, xem một bộ phim làm thay đổi cảm xúc của bạn. Mặt khác, một số bộ phim và tiểu thuyết, vì lý do gì đó, có cảm giác như đang cố thao túng cảm xúc của khán giả. Vào những năm tôi hai mươi, tôi rất bực bội với những tiểu thuyết kết thúc bằng A) cái chết của ai đó và B) một em bé vừa chào đời. Không may là mọi thứ từ Fried Green Tomatoes (tạm dịch Cà chua xanh chiên) cho đến Cold Mountain (tạm dịch Núi lạnh) đều đi theo cấu trúc này. Tất nhiên là phải có em bé! Nếu tôi muốn dành thời gian cho một trải nghiệm được thiết kế để buộc tôi đẩy cảm xúc theo phương thức gượng ép nào đó, thà tôi uống thuốc ngủ Ambien.

Đồng thời, tôi cũng không muốn đọc một quyển sách mà tác giả cố ý tạo ra những tình huống không thể đoán trước được. Đã có một thời thịnh hành xu hướng giết chết nhân vật được yêu thích. Ai mà quên được người hâm mộ đã điên tiết như thế nào với bộ phim khoa học viễn tưởng Serenity (tạm dịch Tĩnh lặng) khi một tia sáng đi lạc cắt đôi nhân vật Wash một cách thô bạo? Cái chết của Wash không giống như một điều cần thiết cho mạch truyện, mà giống như biên kịch hả hê nói “Nhìn những gì mà tôi có thể làm này! Tôi có thể phá vỡ dự đoán của các bạn!” Tất nhiên là vào năm 2016, một nhân vật được yêu thích như Han Solo phải chết thôi. 

Tôi ngờ rằng, nếu bạn đang đọc bài viết này, bạn cũng là một độc giả vừa cẩn trọng mà vừa mạo hiểm tìm kiếm những trải nghiệm mới lạ. Bạn cũng đang đồng thời tìm một câu chuyện giống một câu chuyện, nhưng không phải là bản sao của những thứ bạn từng đọc trước đây. Bạn muốn được chìm đắm, muốn được thấy cảm động. Bạn muốn sự chân thật. Và tất nhiên, bạn muốn câu chuyện phải có hiệu quả.

*

Một phần tuổi thơ của tôi trải qua ở Nhật; mẹ tôi dẫn tôi đến đây mỗi mùa hè. Trong khi tôi chỉ được phép xem TV hai giờ một tuần ở Mỹ (bố mẹ tôi cực kì tin vào xếp hạng phim), ở Nhật tôi được phép xem TV bao lâu cũng được, với lý do là nó sẽ giúp tôi cải thiện tiếng Nhật. Vì vậy tôi xem quên trời. Đôi lúc tôi sẽ thấy thứ gì đó trên TV gây sự chú ý sâu sắc, kích thích trí tưởng tượng và tình yêu của tôi, nhưng đồng thời cũng khiến tôi khóc lóc nhiều đến nỗi mà mẹ phải ngồi hàng giờ, cố gắng an ủi tôi vì sự bất công hay là cái kết bi kịch trong phim; bà càu nhàu về cái nền văn hoá của chính bà đã tạo ra cái kết buồn thảm thiếu trách nhiệm như vậy. Bởi vì ở Nhật Bản, các câu chuyện có thể buồn một cách tuyệt vọng, không thể cứu vãn được. Ma quỷ có thể chiến thắng nhân loại. Người ta còn quan hệ tình dục trên TV và còn hở cả ngực. Những câu chuyện này – hay chính cuộc đời – đầy những âu lo, nhưng cũng màu sắc hơn, như thể chỉ việc sống trong phim truyền hình Nhật còn can đảm hơn ở nhà. Nhưng nó không phải là một sự âu lo giả tạo. Sống trong một thế giới vừa năng động vừa tràn ngập nguy hiểm, hậu quả là những người vô tội vẫn đang phải chịu đựng khổ đau hàng ngày.

Trong hai thập kỷ qua, thật thú vị khi chứng kiến sự thăng hoa của phim hành động Hong Kong và phim hoạt hình Nhật Bản, hay manga và anime, đặc biệt tại thị trường phương Tây. Đi kèm theo đó là sự nổi lên của một vài tiểu thuyết gia, điển hình là Haruki Murakami. Tôi nghĩ một bộ phận độc giả thích chúng là bởi vì cái cách tiếp cận câu chuyện rất “mới mẻ”.

Ví dụ như trong phim Spirited Away (Vùng đất linh hồn), cô bé nữ chính Chihiro đột nhiên bị chia tách với bố mẹ, lạc vào một thế giới khác, đầy các vị thần và các sinh vật vô hình thích tụ tập trong nhà tắm công cộng. Để quay về với bố mẹ, Chihiro phải làm việc cho nhà tắm này. Đường về nhà thì còn vòng vèo hơn cả Dorothy tìm đường về Kansas (Phù thuỷ xứ Oz). Dorothy biết rằng mình phải diệt hai trong số bốn bà phù thuỷ (tất nhiên là phù thuỷ tốt phải đẹp, và phù thuỷ xấu người thì cũng xấu bụng nốt), sau đó phải gặp Thầy Phù Thuỷ nữa. 

Đường về nhà thì không rõ ràng như vậy với Chihiro. Trong lúc làm việc ở nhà tắm, Chihiro gặp bà chủ Yubaba với cái mũi to, cái đầu quá khổ và nếp nhăn đầy mặt. Thoạt tiên, trông bà hệt như định nghĩa về mụ phù thuỷ xấu xí trong truyện cổ tích thường thấy. Nhưng khi bộ phim tiếp diễn, người ta càng ngày càng mơ hồ, liệu Yubaba có thật sự độc ác không? Khi em gái sinh đôi của bà, Zeniba xuất hiện, cùng những đặc điểm này lại tạo cảm giác ấm áp giống bà ngoại. Người lớn tuổi, với ngoại hình của họ, có thể dễ dàng đóng cả hai vai như Zeniba và Yubaba. Sự linh hoạt này xuất hiện rất thường xuyên trong những câu chuyện Nhật Bản (vậy nên ông già Nô-en ở trong thế giới của Nontan mới có vô số hình dạng như vậy). Còn chúng tôi, những người phương Tây thì chỉ mới bắt đầu được trải nghiệm điều này thôi. 

Khoảng một thập kỉ trước, tôi bắt gặp một quyển sách, một sự bổ trợ tuyệt vời cho Hành Trình Người Viết. Quyển The Japanese Psyche: Major Motifs in the Fairy Tales of Japan (tạm dịch Tâm thức Nhật Bản: Các mô-típ phổ biến trong truyện cổ tích Nhật) của tác giả Hayao Kawai, nghiên cứu các truyện cổ tích Nhật Bản, và vì sao những truyện này có rất nhiều ý tưởng và chủ đề tương tự nhau, nhưng lại xa lạ với độc giả phương Tây. Kawai thường được nhắc đến như là nhà tâm lý học Nhật Bản đầu tiên được đào tạo như một nhà phân tích theo trường phái Carl Jung. Nhưng khi Kawai từ Thuỵ Sĩ trở về Nhật Bản, ông nhận ra rằng một vài trong số các “quy tắc” trong việc diễn giải thần thoại không thật sự áp dụng được với văn hoá Nhật Bản. Hơn thế nữa, các câu chuyện càng không hợp với các quan niệm có sẵn của văn hoá phương Tây. 

Kawai nêu ra một ý tưởng rằng thực tại thật ra rất uyển chuyển, theo cái cách của Yubaba-Zeniba. Ông viết: “Thực tại bao gồm rất nhiều tầng lớp. Chỉ có trong cuộc sống hàng ngày, các tầng lớp mới trông có vẻ như là hợp lại thành một, vô hại với chúng ta. Tuy nhiên, những tầng lớp sâu hơn có thể phá vỡ và trồi lên bề mặt ngay trước mắt ta. Những câu chuyện cổ tích là ví dụ.” Đằng sau những tầng lớp thực tại này là gì? Nếu bạn quen thuộc với những tác phẩm của Murakami, bạn sẽ biết ông thích khám phá những thực tại ẩn sau thực tại; không phải là ngẫu nhiên mà Kawai là bạn thân của Murakami. Các nhà văn phương Tây đã bắt đầu áp dụng phong cách kể chuyện của Murakami/Kawai. Ví dụ như David Mitchell, người đã sống ở Nhật Bản, cũng có cách kể chuyện xoay vần và đảo lộn thời gian và thực tại trong tác phẩm Cloud Atlas (Bản đồ mây). 

Kawai cũng giới thiệu khái niệm “giải pháp mỹ học”. “Các câu chuyện cổ tích phương Tây thường được giải quyết bằng một cuộc xâm lược, hoặc một đám cưới. Các ví dụ thì nhiều vô kể: Nàng công chúa ngủ trong rừng, Nàng Lọ Lem, Bạch Tuyết,… Nhưng trong cổ tích Nhật Bản, hiếm khi có sự hợp nhất. Thường câu chuyện được giải quyết bởi một “giải pháp mỹ học”. Và mỹ học ở đây được hiểu là các hình ảnh từ thiên nhiên. Để lấy ví dụ, ông mở đầu quyển sách của mình với cuộc thảo luận về câu chuyện cổ tích Chim chích trong bụi

Một người tiều phu đang ở trong rừng bỗng bắt gặp một tòa lâu đài mà anh chưa từng nhìn thấy trước đó. Anh gặp một người phụ nữ xinh đẹp; cô mời anh vào nhà và nhờ anh trông nom nhà cửa khi mình đi vắng, với điều kiện là anh hứa sẽ không nhìn trộm những căn phòng phía trong. Ngay khi người phụ nữ rời khỏi, người tiều phu đã phá vỡ lời hứa. Anh dạo chơi xung quanh và gặp ba người phụ nữ đang quét nhà. Họ thấy anh và lủi đi nhanh như chim sẻ. Còn lại một mình, người tiều phu bắt đầu ăn trộm những đồ vật tinh xảo, đắt tiền ở đó. Anh nhặt một cái tổ có ba qua trứng lên. Anh làm rớt cái tổ và trứng vỡ. Người phụ nữ xinh đẹp trở về nhà và hạ nhục anh do đã “giết chết ba đứa con của nàng”. Cô hóa thân thành một con chim chích và bay đi mất. Lúc này, người tiều phu chỉ còn lại một mình trong rừng, những đồ vật đẹp đẽ đánh cắp được đã biến mất. Cái còn lại chỉ là những kí ức về cái đẹp. 

Kiểu kết này, theo Kawai, không hiếm gặp ở Nhật. Trong truyện cổ tích phương Tây, người tiều phu có thể trở thành một hoàng tử và cưới người phụ nữ xinh đẹp và bí ẩn. Nhưng ở Nhật thì không. Thay vào đó, câu chuyện kết thúc bằng “giải pháp mỹ học”: nhân vật chính chỉ còn lại một mình để suy ngẫm về sự tồn tại của bản thân trong phông nền thiên nhiên xinh đẹp. Hay có lẽ tôi đang quá áp đặt cái nhìn của phương Tây vào đây. Có lẽ sự tồn tại của anh không phải là vấn đề. Có lẽ tất cả những gì anh còn lại chỉ là những hình ảnh đẹp. 

Kawai nói: “Tại Nhật Bản, đặc biệt là thời cổ đại, giá trị hình ảnh và đạo đức là không thể tách rời. Cái đẹp có lẽ là yếu tố quan trọng nhất cần phải tìm hiểu để hiểu được văn hoá Nhật. Trong truyện cổ tích cũng vậy, phong cảnh đẹp đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc của câu chuyện.” Thật ra, “truyện cổ tích Nhật Bản nói cho chúng ta rằng thế giới thật đẹp, và cái đẹp đó chỉ hoàn hảo nếu bạn chấp nhận sự tồn tại của cái chết.” Người ta có thể viết cả chồng giấy về một kết luận này, nhưng ở đây tôi sẽ nói rằng đây là sự thấu hiểu rất quan trọng cho rất nhiều tiểu thuyết Nhật Bản, như kiệt tác The Makioka Sisters (tựa tiếng Việt Mong manh hoa tuyết) của Jun’ichiro Tanizaki, hay bộ bốn quyển sách của Yukio Mishima. Bạn cũng nên nhớ tới tác phẩm có lẽ dũng cảm nhất, quan trọng nhất đang được thực hiện để giới thiệu văn học Nhât Bản đến với người đọc phương Tây: Tôi đang nói về tờ Monkey Business, tờ tạp chí văn học biên tập bởi Roland Kelts, hợp tác với A Public Space. Thậm chí cả khi bạn chỉ đọc mỗi những câu chuyện trong này, bạn sẽ nắm bắt được một ít về cái thế giới hiện đại quen thuộc với chúng ta, nhưng trông có vẻ và có cảm giác hơi xa lạ với những người có nền tảng văn hoá khác hoàn toàn khác biệt. 

Đã khá lâu rồi tôi không đọc Hành Trình Người Viết, nhưng tôi khá chắc rằng nó sẽ không chứa những thông tin về việc “từng ngắm nhìn một khung cảnh đẹp đẽ, nhưng giờ đây chẳng còn gì sót lại” như là Phần Thưởng cho sứ mệnh của người anh hùng. Thế nhưng, có lẽ đây mới chính xác là thứ kiến thức mà những kẻ kiếm tìm chân thực phải chấp nhận khi họ già đi. Có lẽ, đây mới là bài học can đảm nhất. 

*

Một vài người cho rằng các câu chuyện Hollywood đang trở nên quá phổ biến trên toàn thế giới, và chúng đã làm xóa nhoà quan niệm rằng câu chuyện nên diễn biến như thế nào. Nếu những câu chuyện của chúng tôi phản ánh bản chất con người phương Tây, thì thật đáng tiếc, bởi vì tôi thấy góc nhìn của những người khác, ví dụ như cái đẹp cũng có giá trị nhân văn, cũng thú vị và đáng giá như các ý nghĩa đằng sau việc đi giết rồng. 

Trong quyển Hành Trình Người Viết tái bản lần ba, phần lời dẫn, thậm chí Vogler cũng thừa nhận các câu chuyện ngày nay cần trở nên phức tạp hơn. Ông viết về những đất nước e sợ thói anh hùng như Đức hay Australia (đất nước này có lẽ hơi quan ngại về chủ nghĩa anh hùng, bởi vì chính khái niệm này đã dụ dỗ họ tham gia chiến tranh vì lợi ích của những kẻ xâm lược họ – nước Anh). Ông nói về sự ra đời của máy tính và Internet và cách nó đã khiến cho chúng ta không còn trông đợi các câu chuyện phải có diễn biến tuyến tính. Ông khẳng định rằng, người ta mong đợi những câu chuyện phá vỡ cấu trúc thường thấy – điều này được đáp ứng từ nền văn hóa ngoài lãnh thổ. 

Vậy, câu chuyện của Nontan kết thúc như thế nào? Cậu ngủ quên dưới tán cây, và khi gần bị đông chết, cậu được… ông già Nô-en mèo tìm thấy. Ông già Nô-en mèo chở Nontan về nhà trên chiếc xe kéo của ông, nhưng Nontan thì hoàn toàn chẳng hay biết bởi vì cậu thiếp đi cả quãng đường. Buổi sáng, khi Nontan tỉnh dậy, cậu thấy một chiếc xe đồ chơi màu đỏ trong chiếc tất Nô-en của mình. Và cậu ra ngoài để gặp các bạn, họ cũng có những món đồ chơi mới. “Ước gì ngày nào cũng là Giáng sinh,” tất cả các con vật đồng thanh khi đang ăn bánh kem dâu tây, loại bánh truyền thống trong dịp Giáng sinh Nhật Bản. Giáng sinh đã trở thành ngày lễ ngoại nhập phổ biển tại đất nước này. Và tương tự, phương thức kể chuyện lại một lần nữa được làm mới.

Hết. 

Emma Đẹp Thần Thánh dịch.

Bài gốc được thực hiện bởi Marie Mutsuki Mockett, đăng tại Literary Hub.


Đọc tất cả bài viết của Emma Đẹp Thần Thánh.


Những bài viết có cùng chủ đề cổ tích


Trà chiều

Mặt trái của “Manifest”: Khi tư duy tích cực có thể phản tác dụng

“Manifest” – từ khóa của năm 2024 do từ điển Cambridge bình chọn, đã trở thành một cơn sốt trong giới trẻ, lan tỏa mạnh mẽ trên khắp các nền tảng mạng xã hội. Nhưng liệu manifest có thực sự là con đường thần kỳ dẫn đến hạnh phúc?

Published

on

Manifest, hay luật hấp dẫn, đại diện cho một niềm tin vào sức hút kỳ diệu của vũ trụ, vào một thế lực lớn lao và quyền năng hơn chính bản thân, có thể giúp ta đạt được mọi mong muốn. Từ ước mơ về một cuộc sống giàu sang, một tình yêu viên mãn đến khát khao thành công trong sự nghiệp, tất cả dường như đều nằm trong tầm tay chỉ với sức mạnh của suy nghĩ tích cực.

Nhằm mang đến cho bạn đọc một cái nhìn đa chiều về trào lưu này, Bookish xin giới thiệu bài viết được dịch từ tạp chí Psychology Today, phân tích những mặt trái tiềm ẩn của manifest, giúp chúng ta tránh sa vào những cạm bẫy tư duy.

***


“Manifest” đang là một trong những trào lưu thịnh hành nhất ở lĩnh vực sách self-help. Tác phẩm MANIFEST - 7 Bước Để Thay Đổi Cuộc Đời Bạn Mãi Mãi (2022) của Roxie Nafousi đã ngay lập tức trở thành hiện tượng bán chạy toàn cầu khi vừa ra mắt. Cuốn sách này từng có mặt trong danh sách bán chạy nhất của Sunday Times nhiều tuần liền, và được không ít người nổi tiếng tìm đọc.

Tuy nhiên, cuốn sách của Nafousi lại thuộc về một trường phái self-help lâu đời hơn, vốn cổ súy cho ý tưởng về “luật hấp dẫn”. Luật này cho rằng chính suy nghĩ của chúng ta quyết định những gì ta thu hút trong cuộc sống như may rủi, giàu nghèo, ốm đau hay khỏe mạnh, những mối quan hệ độc hại hay tốt đẹp. Tôi cho rằng mặc dù việc nhiều người thích những cuốn sách kiểu này là điều dễ hiểu, nhưng manifest lại là một xu hướng tiềm ẩn nhiều nguy hiểm.

Những ví dụ tiêu biểu nhất về sách self-help theo luật hấp dẫn là The Secret - Bí Mật (2006) của Rhonda Byrne và Think and Grow Rich - Nghĩ Giàu Và Làm Giàu (1937) của Napoleon Hill. Những cuốn sách này đẩy ý tưởng kiểm soát tâm trí (được ủng hộ bởi nhiều trường phái triết học cổ đại như Khắc kỷ, cũng như các chuyên gia trị liệu nhận thức hành vi – CBT) đi xa hơn. Các tác giả đưa ra quan niệm có thể tạm gọi là học thuyết “tâm trí chế ngự vật chất”, khẳng định rằng suy nghĩ của chúng ta có sức mạnh toàn năng, không chỉ quyết định cảm xúc mà còn định hình cả thế giới bên ngoài.

Đúng là có bằng chứng cho thấy rằng tư duy lạc quan tốt hơn tư duy bi quan; và ở một mức độ nào đó, tâm thế và thái độ tích cực có thể dễ khiến ta thành công hơn, ít gặp vấn đề về sức khỏe và các mối quan hệ hơn – nhìn chung là ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đơn cử là, cha đẻ của tâm lý học tích cực, Martin Seligman, đã viết rất nhiều về chủ đề này. Seligman cho rằng tư duy bi quan và cái mà ông gọi là “sự bất lực tự ứng nghiệm” chính là nguyên nhân gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe, khiến ta bị giảm tuổi thọ, đạt thành tích kém cỏi hơn và gặp nhiều tai họa hơn trong cuộc đời – bởi lẽ, luôn lo sợ những điều này xảy ra có thể biến chúng thành sự thật. [i] Lợi ích của việc hình dung những mục tiêu tích cực và việc chúng ta đạt được kết quả mong muốn cũng đã được nghiên cứu rộng rãi.

Tuy nhiên, nhóm người ủng hộ trào lưu manifest lại đưa ra những tuyên bố cực đoan hơn nhiều. Thông thường, các tác phẩm của họ đều dựa trên những niềm tin huyền bí đáng ngờ, được cho là đúc kết từ một số nguyên lý vật lý lượng tử (mặc dù chưa từng có bằng chứng khoa học nào củng cố cho những tuyên bố này).

Truyền thống self-help này bắt nguồn từ khoảng mấy chục năm cuối thế kỷ 19, khởi đầu với phong trào “chữa lành bằng tâm trí” ở Mỹ. Những người theo phong trào này tin rằng mọi bệnh tật đều bắt nguồn từ tâm trí. Do đó, suy nghĩ lành mạnh sẽ có tác dụng chữa lành. Người thợ đồng hồ Mỹ Phineas Parkhurst Quimby (1802–1866) là một trong những người đầu tiên nêu rõ ý tưởng này. [ii] Quimby cho rằng tất cả bệnh tật chẳng qua chỉ là một niềm tin sai lầm biểu hiện ra thành các triệu chứng vật lý. Nếu chấp nhận rằng bệnh tật chỉ nằm trong tâm trí, chúng ta có thể dễ dàng tự chữa lành cho mình.

Giáo phái chữa bệnh bằng tâm trí nổi bật nhất là Giáo hội Khoa học Kitô giáo, do Mary Baker Eddy (1821–1910) sáng lập. Cuốn kinh thánh trước tác của Eddy, Science and Health with Key to the Scriptures (1875) (Tạm dịch: Khoa học và Sức khỏe với Chìa khóa giải mã Kinh Thánh), hiện đã bán được hơn 9 triệu bản. Giống như Quimby, các tín đồ Khoa học Kitô giáo tin rằng bệnh tật có thể chữa khỏi chỉ bằng cầu nguyện. Thần học của Eddy dựa trên quan niệm thần bí cổ xưa rằng thực tại thuần túy là tâm linh và thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh. [iii] Do đó, bệnh tật không gì khác hơn là một lỗi lầm của tâm trí – hậu quả của việc sai lầm khi đặt niềm tin vào vật chất và giác quan. Những tín đồ Khoa học Kitô giáo cực đoan hoàn toàn bác bỏ mọi can thiệp y tế và phẫu thuật. Không có gì ngạc nhiên khi phương pháp chăm sóc sức khỏe này đã khiến cho nhiều thành viên giáo phái và con cái của họ phải vong mạng.

Nhà triết học và tâm lý học William James (1842–1910) cũng rất quan tâm đến ý tưởng về nguồn gốc tâm lý của bệnh tật. Trong The Varieties of Religious Experience (1902) (Tạm dịch: Muôn mặt kinh nghiệm tôn giáo), ông mô tả phong trào chữa lành bằng tâm trí là một “quan điểm sống lạc quan”:

Những người dẫn dắt phong trào này tin tưởng sâu sắc vào năng lực chữa lành của một tâm trí khỏe mạnh, vào khả năng chiến thắng của lòng can đảm, hy vọng và niềm tin, đồng thời khinh miệt sự nghi ngờ, sợ hãi, lo lắng và mọi trạng thái tinh thần căng thẳng, dè dặt thái quá.. [iv]

Chúng ta có thể thấy rõ ràng là trong các nguyên lý của phong trào chữa lành bằng tâm trí có chứa đựng hạt giống của tư duy tích cực. Tư duy tích cực lần đầu tiên được phổ biến là trong tác phẩm The Power of Positive Thinking (1952) (Tạm dịch: Sức mạnh của tư duy tích cực) của mục sư người Mỹ Norman Vincent Peale. Cuốn sách này có tầm ảnh hưởng, nhưng đồng thời cũng gây tranh cãi.

Một nhà tư tưởng “chữa lành bằng tâm trí” quan trọng khác là Prentice Mulford (1834–1892) –  ông đã đặt ra các nguyên tắc của “luật hấp dẫn”. Trong Thoughts are Things (1889) (Tạm dịch: Tư duy là Vạn vật), Mulford giải thích rằng suy nghĩ tích cực thu hút kết quả tích cực và suy nghĩ tiêu cực thu hút kết quả tiêu cực. William Walker Atkinson sau đó cũng đưa ra những tuyên bố tương tự trong Thought Vibration or the Law of Attraction in the Thought World (1906) (Tạm dịch: Sóng Tư tưởng và Luật hấp dẫn trong Thế giới Tinh thần). Tác giả self-help đầu tiên kết hợp ý tưởng tâm linh của luật hấp dẫn với khát vọng vật chất hữu hình là Napoleon Hill. Công thức này hóa ra lại cực kỳ sinh lời. Hill đã xuất bản cuốn sách bán chạy nhất của trong sự nghiệp của ông là Think and Grow Rich! vào năm 1937. Tác phẩm này đã trở thành khuôn mẫu cho một loại sách self-help mới khi tập trung vào việc theo đuổi tiền bạc.

Thông điệp của Hill rất đơn giản: Tất cả chúng ta đều có thể trở nên giàu có nếu khao khát đủ lớn. Nếu tập trung chuyên chú vào những suy nghĩ về tiền bạc và sự sung túc, vũ trụ sẽ tạo ra sự cộng hưởng kỳ diệu với tiềm thức và gửi đến vô vàn tài lộc. [v] Để trở nên giàu có, chúng ta chỉ cần nuôi dưỡng một khát khao rõ ràng. Khi đó, suy nghĩ của chúng ta, “như những thỏi nam châm, sẽ thu hút vô số nguồn lực, con người và hoàn cảnh phù hợp với bản chất của những suy nghĩ chủ đạo đó.” Nếu “từ tính hóa tâm trí” và trở nên “nhạy bén với tiền bạc”, chúng ta sẽ trở thành triệu phú ngay lập tức.

Không có gì ngạc nhiên khi một thông điệp như vậy lại an ủi những độc giả đang vật lộn với hoàn cảnh kinh tế suy thoái trong cuộc Đại khủng hoảng. Nhưng thông điệp còn nhiều mơ hồ này vẫn tiếp tục hấp dẫn cho đến tận ngày nay. The Secret của Byrne đã xào nấu lại ý tưởng này. “Bí thuật” của cô ấy, không gì xa lạ, chính là luật hấp dẫn. Các nguyên tắc của luật này cứ được nhắc đi nhắc lại. Suy nghĩ của chúng ta, rõ ràng là có tần số riêng. Chúng ta phát ra tần số này vào vũ trụ và từ đó thu hút mọi thứ cùng tần số với suy nghĩ của mình. The Secret tràn ngập những câu chuyện về việc bất ngờ nhận được séc qua thư và những biến chuyển kỳ diệu trong cuộc sống cá nhân của một người. Cuốn sách đưa ra lời hứa hẹn rằng rằng độc giả có thể dễ dàng thu hút 10 triệu đô la, bởi vì “Bí thuật có thể cho bạn bất cứ điều gì bạn muốn.” Bởi “Bạn là thỏi nam châm mạnh mẽ nhất trong Vũ trụ!… Suy nghĩ của bạn sẽ trở thành hiện thực!” [viii]

Nhiều người trong chúng ta có thể thấy những lời hứa hẹn thái quá về sự chuyển đổi dễ dàng này là đáng ngờ. Nhưng tệ hơn nữa, học thuyết của Byrne và những người ủng hộ nguyên lý “tâm trí chế ngự vật chất” lại có xu hướng đổ lỗi cho nạn nhân. Về cốt lõi, họ quan niệm rằng những người gánh chịu bất hạnh phải tự nhận trách nhiệm cho những đau khổ của mình, bao gồm cả chuyện ung thư, hiếp dâm, tai nạn xe hơi và bạo lực. Chẳng hạn như, Byrne thẳng thừng cho rằng mọi tai ương trong cuộc sống là do chúng ta không chịu suy nghĩ tích cực và không truyền tải đủ mạnh mẽ những mong muốn về vật chất xa xỉ vào vũ trụ. Byrne và nhiều chuyên gia làm giàu đã đóng góp cho cuốn sách của cô còn khẳng định chắc nịch rằng quy luật hấp dẫn cũng có thể áp dụng với 6 triệu người Do Thái bị sát hại trong thảm họa Holocaust. Rõ ràng, chính “những suy nghĩ về nỗi sợ hãi, sự chia ly và bất lực” của người Do Thái đã khiến họ “hiện diện ở nơi lầm lạc vào một thời điểm sai trái”. [ix] Tác giả của The Secret khẳng định chắc nịch: “Mọi trải nghiệm đều bắt nguồn từ những suy nghĩ dai dẳng trong chính bạn.” [x] Đây rõ ràng là những luận điệu vô cùng đáng lo ngại, và tôi ngạc nhiên rằng những tuyên bố dối trá, hoàn toàn không thể biện minh này lại không vấp phải quá nhiều chỉ trích.

Vậy tại sao những cuốn sách như Think and Grow Rich!, The Secret, và giờ là Manifest của Nafousi lại hấp dẫn nhiều người đến vậy? Tất nhiên, ai mà chẳng thích được nghe rằng mình có thể giàu sang mà không cần động tay động chân, rằng những tấm séc 10 triệu đô la sẽ tự động bay vào hộp thư chỉ cần ta nghĩ đủ nhiều về tiền. Những cuốn sách cho rằng mọi sự tự hoàn thiện bền vững đều đòi hỏi nỗ lực, kiên trì và thời gian thường ít hấp dẫn hơn – mặc dù có lẽ thông điệp đó lại thực tế hơn.

Tuy nhiên, tôi cho rằng không chỉ vì chúng ta khao khát những giải pháp nhanh chóng, dễ dàng mà những cuốn sách như thế này mới trở nên phổ biến; một yếu tố quan trọng khác là mong mỏi từ ngàn đời nay của con người về việc tự làm chủ cuộc sống. Tư duy vũ trụ kỳ diệu được cổ súy bởi những người theo trường phái “chữa bệnh bằng tâm trí” giúp chúng ta nuôi dưỡng khát vọng toàn năng, bất khả chiến bại và quyền làm chủ thế giới vật chất. Nó đánh vào mong muốn nguyên thủy của chúng ta là khả năng tự bảo vệ mình trước hai mối đe dọa là sự tổn thương và tình trạng mất kiểm soát.

Phép thuật tư duy trong những cuốn sách này cũng mang tính chất thoát ly thực tại. Nó cho phép ta mơ mộng về những cuộc đời khác, nơi ta là nhân vật chính trong truyện cổ tích – thành đạt, giàu có, quyến rũ và luôn tự tin trong giao tiếp xã hội. Ngoài ra, thời điểm những cuốn sách này được xuất bản và tạo nên tiếng vang cũng rất đáng chú ý: sách của Hill ra đời trong thời kỳ Đại khủng hoảng, sách của Byrne ra đời ngay trước khủng hoảng tài chính, còn sách của Nafousi nổi lên năm 2022 – một năm đầy biến động với những ảnh hưởng kéo dài của đại dịch Covid, bất ổn kinh tế gia tăng, khủng hoảng chi phí sinh hoạt trầm trọng và chiến tranh Ukraine kinh hoàng.

Vấn đề tôi thấy là: Mặc dù đọc những cuốn sách này có thể mang lại cảm giác hy vọng nhất thời, thậm chí là sự kỳ vọng hão huyền, nhưng thực tế cuối cùng cũng sẽ ập đến. Chúng ta sẽ cảm thấy tồi tệ hơn khi những khoản tiền hứa hẹn không xuất hiện. Không một vấn đề nào được giải quyết. Ta chẳng học được gì mới mẻ về bản thân và cũng chẳng thu được bài học hữu ích nào để thực sự tiến bộ. Hơn nữa, việc đánh giá quá cao khả năng thay đổi tâm lý và năng lực cá nhân, đồng thời đánh giá thấp bối cảnh kinh tế và xã hội mà ta đang sống, sẽ khiến ta phải trả giá. Khi mọi thứ không diễn ra như mong đợi, ta sẽ chìm trong cảm giác tội lỗi và xấu hổ.

***

Tư liệu tham khảo

[i] See Martin Seligman, Learned Optimism: How to Change Your Mind and Your Life (London, Boston: Nicholas Brealey Publishing, 2006).

[ii] Phineas Parkhurst Quimby, The Quimby Manuscripts: Containing Messages of New Thought, Mesmerism and Spiritual Healing from the Author, edited by Horatio W. Dresser (s.p.: Pantianos Classics, 1921), p. 73

[iii] Mary Baker Eddy, Science and Health With Key to the Scriptures (Boston: The Writings of Mary Baker Eddy, 2000), p. viii.

[iv] William James, The Varieties of Religious Experience (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1985), pp. 92–3.

[v] Napoleon Hill, Think and Grow Rich!: The Original Version, Restored and Revised (Anderson, SC: The Mindpower Press, 2007), p. 9.

[vi] Ibid., p. 21.

[vii] Ibid.

[viii] Rhonda Byrne, The Secret, 10th anniversary edition (London and New York: Simon & Schuster, 2016), p. xv, 7, 9.

[ix] Ibid., p. 28.

[x] Ibid., p. 43.

***

Khi những ảo tưởng về một cuộc sống hoàn hảo nhờ manifest tan vỡ, ta thường chìm trong thất vọng và tự trách bản thân. Việc đánh giá quá cao sức mạnh của suy nghĩ mà quên đi nỗ lực thực tế chính là nguyên nhân dẫn đến thất bại. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sức hút và sự phổ biến của manifest. Nếu biết vận dụng một cách tỉnh táo, kết hợp với hành động thiết thực và kế hoạch rõ ràng, manifest có thể trở thành một công cụ hữu ích, giúp ta củng cố niềm tin, duy trì động lực và rút ngắn con đường đến với mục tiêu. Suy cho cùng, tư duy tích cực luôn là một yếu tố quan trọng trên hành trình hoàn thiện bản thân, nhưng chìa khóa then chốt vẫn nằm ở sự cân bằng giữa giấc mơ và hiện thực, giữa niềm tin và hành động. Đó cũng chính là thông điệp mà Bookish mong muốn gửi gắm đến bạn đọc.

Nguồn: Psychology Today

Kodaki dịch

Đọc bài viết

Trà chiều

Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025 thu hút đông đảo bạn đọc tại TP HCM

Published

on

Ngày 27.01.2025 (tức 28 Tết), Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025 chính thức khai mạc. Lễ hội thu hút sự quan tâm và yêu thích của người dân cũng như khách du lịch thành phố. Đường sách được tổ chức với quy mô lớn, có nhiều không gian văn hoá, nghệ thuật đặc sắc, hứa hẹn sẽ trở thành điểm vui chơi và mua sắm náo nhiệt trong mùa Tết.

Lễ hội lần thứ 15 có chủ đề Non sông gấm hoa, vui xuân thái hòa. Năm 2011, lễ hội Đường sách Tết lần đầu được tổ chức tại đoạn đường Mạc Thị Bưởi (nối Đồng Khởi và Nguyễn Huệ, quận 1). Từ năm 2023 đến nay, hoạt động này được tổ chức trên trục đường Lê Lợi, đoạn từ giao lộ Nguyễn Huệ đến bùng binh Quách Thị Trang, dài khoảng 400 m. Lễ hội tổ chức trên khu vực có tổng diện tích 11.200 m2, thu hút nhiều đơn vị tham gia kiến tạo không gian văn hóa, nghệ thuật, nổi bật trong số đó có Công ty Cổ phần Văn hóa Phương Nam (gọi tắt là Công ty Phương Nam hoặc PNC).

Năm 2025 đánh dấu kỷ niệm 15 năm Công ty Phương Nam tham gia Lễ hội Đường sách Tết với gian hàng lớn, đẹp, giàu cảm xúc. Sau buổi lễ khai mạc, gian hàng của Phương Nam vinh dự đón tiếp các lãnh đạo Thành phố đến tham quan: ông Nguyễn Trọng Nghĩa - Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, ông Phan Văn Mãi - Chủ tịch UBND TP.HCM, ông Nguyễn Thanh Nghị - Phó Bí thư Thường Trực Thành ủy TP.HCM, ông Lâm Đình Thắng - Giám đốc Sở TT&TT TP.HCM cùng đại diện lãnh đạo Sở, ngành. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư cũng ghé thăm các gian hàng của Nhà Sách Phương Nam tại Lễ hội Đường sách Tết. Đại diện Công ty Phương Nam đón tiếp đoàn lãnh đạo và các vị khách quý là ông Nguyễn Hữu Hoạt - Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Đến với các gian hàng của PNC tại Đường sách Tết, khách tham quan có thể tìm mua những đầu sách best-seller giá trị và đầy ý nghĩa do Phương Nam Book liên kết xuất bản; trải nghiệm khu vực sách nói KOMO Audio tiện lợi và hiện đại; đắm chìm trong những giai điệu bất hủ tại quầy băng đĩa Phương Nam Film; cũng như mang về nhà những món đồ chơi, quà lưu niệm đa dạng mẫu mã đến từ các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Là thương hiệu có bề dày 43 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, Công ty Phương Nam tự hào là đơn vị uy tín, chất lượng và luôn nỗ lực để mang lại trải nghiệm tốt nhất cho khách hàng. Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025 là cơ hội để PNC tiếp tục phục vụ khách hàng và bạn đọc với những sản phẩm cũng như dịch vụ chất lượng cao.

Trong suốt thời gian diễn ra Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025, khách tham quan sẽ có cơ hội gặp gỡ, giao lưu với nhiều tên tuổi nổi tiếng trong làng sách, tham gia các chương trình thú vị để nhận nhiều lì xì hấp dẫn, và tận hưởng không khí du xuân tràn đầy niềm vui. Tết này, đừng quên ghé chơi với Nhà Sách Phương Nam nha!

Thời gian: Từ 27/01/2025 – 02/02/2025

Địa điểm: Đường Lê Lợi, Quận 1, TP HCM

Một số hình ảnh trong ngày khai mạc Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025:

Đọc bài viết

Trà chiều

Vũ Đằng kết đôi cùng “nàng Kiều” Trình Mỹ Duyên trong Chợ Tết Tình Quê

Published

on

By

Nam diễn viên Vũ Đằng sẽ sánh đôi cùng “nàng Kiều” Trình Mỹ Duyên trong bộ phim phát sóng vào ngày mùng một Tết nguyên đán Ất Tỵ.

Chợ Tết Tình Quê là câu chuyện tình cảm của một đôi bạn trẻ diễn ra trong những ngày giáp Tết Ất Tỵ ở cù lao An Bình (tỉnh Vĩnh Long). Gia Bảo (Vũ Đằng đóng) là một chàng công tử chính hiệu, chán chường cuộc sống xa hoa, xô bồ nơi phố thị cũng như muốn thoát khỏi sự kìm kẹp của mẹ, Bảo bỏ nhà đi bụi vào một buổi chiều tháng chạp. Anh xuôi về miền Tây sông nước, nơi có làng nghề gốm đỏ, làm nhang, trồng trái cây, hoa kiểng để tìm lại những ký ức thời thơ ấu, khi gia đình còn trọn vẹn. Tình cờ gặp được Vũ Nghi (Trình Mỹ Duyên), Bảo choáng váng và thậm chí ghét bỏ, nhiều lần cản trở, gây tai họa cho cô vì hiểu lầm cô là người thực dụng, lợi dụng tình nghĩa của bà con dưới quê để kiếm danh.

Vũ Nghi vốn là người sinh ra ở cù lao An Bình. Cô mồ côi cha mẹ, sống với người cậu từ bé nên tính cách cứng cỏi, đạt giải một hoa khôi nhưng từ chối mọi sự săn đón của các đại gia mà muốn đi lên từ thực lực. Vũ Nghi hoạt động như một hot streamer trên mạng xã hội, sở hữu những trang cá nhân có lượt theo dõi khủng. Chương trình thực tế 100 nghề của cô nhận được nhiều sự quan tâm của công chúng, trong đó có những tập quảng bá về ngành nghề truyền thống cũng như du lịch sinh thái ở quê hương Vĩnh Long. Hoàn cảnh đưa đẩy cả hai thành cặp đôi “oan gia ngõ hẹn”, ban đầu là ghét nhau, sau dần dần cảm mến rồi tiến tới tình yêu.

Bên cạnh chuyện tình của cặp trai tài gái sắc Gia Bảo – Vũ Nghi, đạo diễn Quách Khoa Nam và biên kịch Phan Ngọc Diễm Hân còn dẫn dắt khán giả màn ảnh nhỏ tham quan cù lao An Bình cũng như những miền quê xinh đẹp, trù phú của tỉnh Vĩnh Long. Người xem sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp bình dị của làng nghề gốm đỏ, làm nhang, những làng hoa Tết sum suê, vườn trái cây trĩu quả… Không khí của phim diễn ra trong những ngày giáp Tết, thời khắc mùa Xuân hiện hữu đẹp nhất với những màu sắc, mùi vị đặc trưng của xứ Nam Bộ.

Khi nhận được kịch bản Chợ Tết Tình Quê, diễn viên Vũ Đằng  cảm thấy rất lo lắng vì nhân vật không có chút gì giống mình ở ngoài đời. “Với một thanh niên 28 tuổi thì ai lại không muốn thành công và được nhiều cô gái vây quanh nhưng Gia Bảo thì ngược lại, anh trốn tránh hết tất cả. Tuy nhiên, tôi đọc kỹ kịch bản, tìm cách thấu hiểu và cảm thông với nhân vật. Tôi đặt ra những câu hỏi “Tại sao?” và tìm cách giải đáp để làm dày lý lịch  để khi ra bối cảnh không còn khúc mắc với nhân vật” – anh chia sẻ. Tuy nhiên, đây không phải là điều làm khó Vũ Đằng mà chính việc hóa trang mới tạo cho anh nhiều trở ngại nhất trong quá trình thực hiện phim. Trước đó ít lâu, anh vừa hoàn thành một phim cổ trang, phải cạo đầu ba vá cho phù hợp nên sang Chợ Tết Tình Quê, Vũ Đằng không kịp để tóc trở lại bình thường, vậy nên ekip thực hiện quyết định cho anh đội tóc giả. Việc hóa trang tóc cho anh trước khi vào cảnh quay mất hơn một giờ, thêm nữa, thời tiết cũng khá nóng nên Vũ Đằng cũng không thực sự thoải mái với bộ tóc khi diễn. “Nó có thể rớt ra bất cứ lúc nào hoặc sai phom dáng nếu mình xoay đầu quá nhiều. Có một số cảnh nặng về tâm lý hay cần động tác hình thể nhiều thì buộc mình phải quên đi chuyện đội tóc giả để nhập tâm hơn. Nếu đội quá lâu thì bộ tóc cũng làm tôi cảm thấy đau đầu. Khi diễn những cảnh cuối cùng của phim, tôi thực sự thở phào nhẹ nhõm vì… được cởi hẳn và tạm biệt bộ tóc giả từ đây!”- anh dí dỏm.

Ngoài ra, phim còn có sự tham gia của các diễn viên: Quang Thái, Hoài An, Thanh Bình, Lê Trang…

Bộ phim do PNF sản xuất kéo dài 20 tập, phát sóng lúc 20h từ thứ hai đến thứ bảy hàng tuần trên kênh THVL1, khởi chiếu từ mùng 1 Tết nguyên đán Ất Tỵ (tức 29.01.2025)

Đọc bài viết

Cafe sáng