Phía sau trang sách

Nghệ thuật của sự Tàn độc

Những vần văn của Tanizaki vẫn sống. Có lẽ Akutagawa, cháy rụi ở tuổi còn quá trẻ, biết rằng những vần văn của ông đang tiến gần về cõi chết.

Published

on

ART OF CRUELTY
Ian Buruma

Ra đời hơn kém nhau khoảng mười năm, hai truyện ngắn The Tattooer (Xâm mình) (1910) của Tanizaki Jun’ichiro và Hell Screen (Bức bình phong địa ngục) (1918) của Akutagawa Ryunosuke có những nét tương đồng rõ rệt. Xâm mình kể về Seikichi, một nghệ sĩ xăm mình trong giai đoạn suy đồi thời kỳ Edo (tôi đoán là khoảng những năm 1840), một người có tham vọng – theo lời kể của tác giả – là khảm linh hồn anh lên lớp da của một người đàn bà tuyệt mỹ. Anh tiêu tốn rất nhiều thời gian để kiếm tìm tấm vải bạt người hoàn hảo cho kiệt tác đời mình, và khi bắt gặp đôi chân thanh tú của một thiếu nữ trà quán, anh biết đích đến đã gần kề. Bản năng mách bảo anh rằng, “Đây là bàn chân phải được tưới tắm bằng máu của đàn ông, bàn chân để chà đạp lên thân xác họ.”

Khi thiếu nữ với đôi bàn chân cám dỗ ghé thăm xưởng vẽ của anh, Seikichi cho cô xem bức tranh vẽ một nàng công chúa xinh đẹp – đang chứng kiến cảnh tù nhân bị hành quyết – trong trạng thái say mê. Thiếu nữ thú nhận rằng trong cô cũng dấy lên những xúc cảm tương tự như của nàng công chúa tàn nhẫn. Đôi mắt người thợ xăm lóe lên niềm vui thích. Seikichi bỏ thuốc cô và xăm trên làn da trắng mịn của cô ngày ngày đêm đêm. Khi cô tỉnh dậy từ cơn hôn mê, hình xăm chân nhện trên lưng cô dường như vừa di chuyển từ vai xuống eo. Người thợ xăm kiệt sức, linh hồn anh mắc kẹt vĩnh viễn trong tấm lưới của con nhện cái. Thiếu nữ hóa thân thành một con quỷ dâm dục, từng gã đàn ông một biến thành nô lệ của ả. Dù chuyện gì xảy ra, cái đẹp vẫn khiến cả hai ngây ngất.

*

Câu chuyện của Akutagawa cũng xoay quanh một nghệ sĩ – một họa sư cung đình của lãnh chúa quyền lực nhất Kyoto. Họa sư Yoshihide có sở thích vẽ những khung cảnh bạo lực và ác nghiệt; hắn khăng khăng đòi chứng kiến tận mắt từng tình tiết kinh hoàng trước khi vẽ lại thành tranh. Gã đệ tử xinh trai của hắn bị ép khỏa thân và tra tấn bằng rắn và chim cú, hoặc trói lại trong những tư thế đau đớn cùng cực.

Yoshihide, một người đàn ông u buồn và chết chóc, chỉ duy nhất yếu lòng trước cô con gái mà hắn thương yêu hết mực. Lãnh chúa của Yoshihide phải lòng cô gái xinh đẹp này, nhưng những lời tán tỉnh của ngài bị cự tuyệt.

Yoshihide nhận lệnh vẽ một bức bình phong khắc họa khung cảnh địa ngục. Hắn yêu cầu lãnh chúa một ân huệ: để truyền tải trọn vẹn sự rùng rợn của chủ thể trung tâm, hắn muốn được chứng kiến cảnh một chiếc xe bò bốc cháy, trong đó có một quý cô đang giãy giụa trước cái chết khiếp đảm cận kề. Lãnh chúa, với sự chờ mong thích ý, hứa hẹn sẽ dàn xếp được yêu cầu này. Một chiếc xe bò xuất hiện với một người thị nữ xiêm y lộng lẫy ở trong. Ngay khoảnh khắc chiếc xe bắt lửa, Yoshihide phát hiện – trong sự hỗn loạn vừa kinh hoàng vừa mê hoặc – rằng hắn đang chứng kiến chính con gái mình bị thiêu sống. Bức bình phong của hắn hiển nhiên là kiệt tác, được tất cả mọi người ca tụng. Vào ngày tác phẩm hoàn thành, Yoshihide treo cổ chết.

Cả hai câu chuyện đều lãng mạn và mỹ, tuy nhiên trong trường hợp của Tanizaki lại có đôi chút bóng bẩy và đồi trụy. Nó phi luân lý – không phải là trái luân lý – như lời phán quyết của Oscar Wilde rằng không có nghệ thuật luân lý hay trái luân lý, chỉ có nghệ thuật tốt hay tồi. Đúng vậy, trong cả hai tác phẩm, nghệ thuật vị nghệ thuật được đẩy tới giới hạn tận cùng. Không có gì – kể cả cái chết – là quá đà để hi sinh cho chữ mỹ.

Ai đó có thể bị lừa phỉnh mà nhận thấy những đặc trưng Nhật Bản trong hai tác phẩm này – một cảm giác mỹ học không bị trói buộc bởi phẩm hạnh Thiên Chúa Giáo. Quan điểm này được một số nhà phê bình Nhật Bản ủng hộ; họ chỉ ra rằng những giá trị mỹ học của Tanizaki không phải là lời công kích đến đức hạnh hay nhân văn, mà nó hoàn toàn bàng quan trước những quan tâm kể trên. Điều này trái ngược với giới “suy đồi” Tây phương, những kẻ cứ bận bịu chống đối cùm chân tôn giáo nên chẳng bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi đó. Cũng có thể suy đoán rằng những nghệ sĩ trưởng thành trong nền văn hóa nặng nề lễ nghĩa sẽ trở nên ám ảnh với những xúc cảm chân thật; lòng thành của họ chỉ có thể được kiểm nghiệm thông qua những thái cực bạo liệt – ví như tự tử đôi là chứng nhân duy nhất của tình yêu bền bỉ, và tương tự thế.

Nhưng tôi không cho rằng mỹ học của sự tàn độc trong những tác phẩm của Tanizaki và Akutagawa mang đậm chất Nhật. Khi viết Xâm mình, Tanizaki là một độc giả nồng nhiệt của Oscar Wilde, và điều đó hiện hữu. Sự ám ảnh của ông với hình tượng femme fatale1 (độc phụ) – ít nhất là trong những tác phẩm thời kỳ đầu – bị chi phối bởi Flaubert, Baudelaire và Wilde cũng nhiều như bởi văn chương Nhật Bản.

*

Tôi nghĩ rằng nhận xét này cũng đúng với Akutagawa. Tác phẩm của ông thường đặt bối cảnh trong một giai đoạn lịch sử Nhật Bản, nhưng tri giác văn chương của ông bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các tác giả Tây phương. Trong Cogwheels (Những bánh răng), một ghi chép u buồn về căn bệnh điên đang dần phôi thai, được dịch nhuần nhuyễn bởi Cid Corman và Susumu Kamaike, Akutagawa liên tục đề cập đến văn chương Tây phương, khiến những ảo giác của ông bị nhuốm màu mê sách lạ thường, hệt như thể ông đang sống cạnh những bóng ma văn học.

“Khi ngồi trong phòng, tôi từng nghĩ về việc gọi điện đến một bệnh viện tâm thần nào đó. Nhưng bước chân đến đó nghĩa là tôi chết. Sau nhiều phút chần chừ, tôi quyết định đọc Tội ác và trừng phạt để sao nhãng chính mình. Tuy nhiên, trang văn mà tôi tìm đến là của Anh em nhà Karamazov. Đó là đoạn văn Ivan bị hành hạ bởi Pháp Quan Ác Quỷ. Ivan, Strindberg, de Maupassant, chính tôi, trong căn phòng này…”

Tôi không có ý nói hai người này thiếu sáng tạo, hay là văn chương của họ không phản ánh được văn hóa và xã hội Nhật. Nhưng tôi nghĩ rằng có những phương thức tưởng thưởng hơn để tiếp cận những tác gia trác tuyệt này (tôi hơi ngần ngừ khi dùng từ trác tuyệt để miêu tả Akutagawa, nhưng không với Tanizaki) hơn là việc tìm kiếm cái gì mới là kết tinh chất Nhật. Ví dụ, vì sao hai tác giả với lý lịch tương đồng, có lối thưởng thức văn chương khởi điểm giống nhau, lại kết thúc ở hai thái cực đối lập?

Cả hai người đều được sinh ra tại “hạ thành” Tokyo. Cả hai đều bị quyến rũ bởi phương Tây, dù chưa ai đặt chân đến đó. Cả hai người đều thoát ly (nếu đó là từ ngữ chính xác) khỏi vấn đề chính trị và xã hội vào chủ nghĩa mỹ học. Nhưng Akutagawa từ chối những ảo tưởng ma quỷ để đến với những bài viết tự truyện duy ngã luận mà những nhà phê bình văn học Nhật thích phân loại là văn học tinh khiết nhất. Ở đây, văn học tinh khiết là văn học không cốt truyện, thuần túy tập trung vào những biến chuyển vụn vặt trong tâm trạng tác giả và những chi ly tiểu tiết trong cuộc đời không mấy biến cố của anh ta.

Trái lại, Tanizaki luôn là một tác giả nổi tiểng không biết ngượng cùng khẩu vị kịch nghệ, tư tưởng đa dâm và ảo tưởng lố bịch không bao giờ ngã ngựa đến tận khi ông chết ở tuổi 79 vào năm 1965. (Akutagawa tự sát vào năm 1927 khi ông 35 tuổi.) Trong một bài luận về Tanizaki, Mishima Yukio từng bình luận rằng người dì xinh đẹp của ông sẽ có nét vui vẻ trầm lặng khi nghe người ta đề cập đến những tác phẩm “suy đồi” của Tanizaki. Mishima viết, “Văn chương của Tanizaki đầu tiên hẳn là rất ngon lành, như ẩm thực Pháp hoặc Trung Hoa.”

Chủ thể văn chương chính của Tanizaki là tình dục, đặc biệt là ác dâm, dẫn đến hứng thú của ông với bàn chân của các quý cô, trong khi Akutagawa càng càng càng chìm đắm trong chủ nghĩa ái kỷ, thiếu thốn giá trị chung, kinh tởm với bản thân, và cuối cùng là cái chết. Những ám ảnh đa dạng ấy hiện diện rõ ràng trong hai truyện ngắn tường thuật ở trên. Nhân vật nam chính của Tanizaki – Seikichi – biến nàng thơ của mình trở thành một ả quái vật, nhưng đồng thời tìm thấy sự thỏa mãn nhục dục. Họa sư của Akutagawa tạo ra được kiệt tác đời mình, nhưng phải hi sinh người duy nhất hắn thương yêu. Nỗi ám ảnh của ông hóa thân thành sự ghê tởm, cuộc đời của ông trở nên vô nghĩa và chẳng đáng sống.

*

Những cuốn sách đang được bàn luận ở đây trước nhất nó thú vị bởi giá trị văn chương. Điều này đặc biệt chính xác trong trường hợp của Akutagawa. Những bài luận về thời thơ ấu với kết nối lỏng lẻo của Tanizaki có hiệu quả tốt hơn trong tiếng Nhật so với tiếng Anh. Paul McCarthy đã thực hiện một bản dịch xuất sắc, nhưng ông đã đúng khi cảnh báo trong phần dẫn dắt rằng các độc giả phương Tây có thể bối rối trước kết cấu chương hồi, vô tổ chức của tác phẩm – kết cấu này rất được các độc giả Nhật yêu thích, nhưng không thường gặp trong văn chương phương Tây đương đại. Tuy nhiên, những bài luận của Tanizaki là một bản hướng dẫn vô giá về cá tính của ông. Đây là bức chân dung tuyệt diệu của một nghệ sĩ viết như một đứa trẻ (người ta đã đúc kết rằng, theo cách nào đó, Tanizaki mãi mãi vẫn là một đứa trẻ). Ắt hẳn, sự hoài cổ về tuổi thơ là sợi dây xuyên suốt trong hầu hết những cuốn sách của ông. Đồng thời, thiên hướng gợi tình cũng là một phần quan trọng trong hồi ký thơ bé của Tanizaki, hẳn nhiên phải vậy.

Cứ thế, chúng ta biết đến những trò chơi con trẻ được hưởng ứng bởi Tanizaki và những người bạn, như là “trò bóng rổ”. Những cậu bé học sinh nhỏ tuổi cùng nằm xuống trong những cái rổ được đặt tên là “buồng ngủ của gái bán hoa”, giả vờ như họ là khách quan và gái nhà thổ trong nhà chứa hạng sang. Thời bấy giờ, có rất nhiều vụ án mạng gớm guốc xảy ra, thu hút được sự say mê của giới trẻ. Một trường hợp như thế – sau đó được dàn dựng thành một vở kịch nổi tiếng và được Tanizaki ưa thích – là vụ sát hại một gái quầy bar giải nghệ bởi người chồng pháp lý của cô. Tình tiết nổi bật là mặt cô đã bị con dao rạch đến biến dạng. Những bức ảnh chụp lại gương mặt này, cùng với hình ảnh của những diễn viên nổi tiếng, được trưng bày tại hội chợ địa phương. Một câu chuyện khác, khiến Tanizaki thậm chí còn hài lòng hơn, là việc tình thế đảo ngược khi nàng geisha thời thượng O-ume đâm chết tình nhân với một con dao nhà bếp. Mẹ của Tanizaki kết luận, “Tôi nghĩ nàng ta hẳn là hình mẫu của thế gian khi bàn về một ‘người phụ nữ thực thụ’!” Tanizaki trưởng thành chắc chắn là đồng ý.

Sự tôn sùng phụ nữ của Tanizaki được khơi nguồn từ mẹ ông, người dĩ nhiên là một mỹ nhân. Mọi người, kể cả chính ông, đều kể rằng ông là một cậu bé bám mẹ và một đứa bé hay khóc đến không tưởng. Dẫu đã qua những tháng năm chập chững, Tanizaki vẫn không cưỡng lại được bầu ngực của mẹ mình. Ông cho rằng nguyên nhân không phải là do vị sữa mẹ, mà vì “hương thơm ngọt ngào và hơi ấm dịu dàng từ bầu ngực Mẹ.” So sánh với mẹ của Akutagawa, một người đàn bà điên:

“Mẹ tôi là một người điên. Tôi chưa bao giờ trải nghiệm được cái gì gần với tình mẫu tử từ bà. Bà luôn luôn ngồi một mình trong nhà chính ở Shiba, mái tóc vấn vít quanh răng lược, thổi phù phù qua một tẩu thuốc thân dài. Gương mặt và thân hình bà rất nhỏ nhắn. Tôi không giải thích được, nhưng gương mặt bà luôn có màu tro, không có dấu hiệu sức sống nào.”

Ta còn nghe kể lại, một nguồn cảm hứng khác của Tanizaki là bức tranh Đức Mẹ Madonna thuộc quyền sở hữu của ông nội ông – thành viên Nhà thờ Dòng chính Nga. “Với lòng tôn kính không thể diễn tả thành lời, ngắm nhìn đôi mắt của Đức Mẹ Đồng Trinh đầy ân cần và từ ái, tôi cảm thấy như mình không muốn rời xa bà.”

*

Nagai Kafu – tiểu thuyết gia, dịch giả Baudelaire, một người cống hiến cả đời mình cho đời sống nhà thổ – khen ngợi những tác phẩm thời kỳ đầu của Tanizaki, đặc biệt là Xâm mình vì phong cách, sự tinh tế và “vẻ đẹp sâu sắc, bí ẩn nảy mầm từ sự kinh khủng xác thịt.” Thế nhưng Paul McCarthy – một người phô diễn sự sành sõi đáng nể với gu gợi tình của Tanizaki – lại có vẻ bối rối trước ý nghĩa chính xác trong cách diễn đạt của Kafu. Với tôi, những gì Kafu muốn nói khá rõ ràng. Bất cứ khi nào sự tôn sùng phụ nữ của Tanizaki nhuốm màu nhục dục, những nữ thần thanh tao ấy sẽ biến thân thành những con quỷ. Họ vẫn đẹp khó tả, và thậm chí còn đẹp hơn, có lẽ chính bởi những kinh hoàng mà họ gây ra.

Một khía cạnh thú vị trong hình mẫu femme fatale của Tanizaki là những cô gái ấy thường bị Tây hóa, xấc xược, màu sắc, và hơi thô tục. Điều này khiến nhà phê bình người Nhật Eto Jun bình luận rằng sự tôn sùng mang tính khổ dâm của Tanizaki là phép ẩn dụ cho Nhật Bản hiện đại. Nhật Bản tôn thờ Tây phương, hệt như cách những nam nhân của Tanizaki liếm chân những mụ nữ thần phản trắc. Nhưng Eto, người bị ám ảnh bởi Tây phương kể từ vụ chiếm đóng sau chiến tranh, hẳn nhiên là sẽ nói thế. Sự thật là, sự tôn thờ của Tanizaki rất lưng chừng nước đôi. Phương Tây, tựa như những tình nhân tàn độc, quyến rũ nhưng nguy hiểm. Ông từng so sánh văn hóa phương Tây như một thứ thuốc phiện vừa ngọt ngào vừa chết người. Trong những năm tuổi trẻ, ông từng bộc lộ ham muốn bị giết chết bởi thứ thuốc này. Về sau, khi ông rời khỏi Tokyo vào thập niên 1920, Tanizaki ngày càng hướng mình về Nhật Bản truyền thống của thời thơ ấu – vẫn còn sót lại ở Kyoto.

Thậm chí trong những câu chuyện về thời thơ ấu, những người phụ nữ Tây phương đĩ điếm vẫn xuất hiện như những sinh vật sinh ra từ trí tưởng tượng hơn là thứ gì khác. Tanizaki mô tả một nhóm những quý cô Anh Quốc trẻ tuổi trong một tổ chức mang tên Đại Học viện Văn hóa Âu châu, thiết lập tại đặc khu ngoại quốc ở Tokyo. Những quý cô quyến rũ này dạy tiếng Anh ở tầng một, nhưng có một khu tầng hai bí ẩn, nơi những học sinh nhỏ tuổi người Nhật bị cấm đặt chân đến. Một người bạn của Tanizaki mô tả – sau một cú nhìn trộm – rằng nó như một cái sào huyệt xa hoa. Có tin đồn lan truyền rằng khi những quý ông Nhật Bản giàu có đến thăm khu nhà, công việc của những quý cô này đa dạng hơn là chỉ dạy tiếng Anh.

Mặc cho những tôn thờ của ông nội mình dành cho Đức Mẹ Đồng Trinh, Tanizaki chưa bao giờ thờ phụng tôn giáo hay là một người mộ đạo. Và cũng mặc cho những hiểu biết uyên thâm về văn chương Nhật, Trung và phương Tây, ông cũng không phải là một tác gia đặc biệt tài trí. Thực vậy, chính vì cái tiếng tăm rằng ông đam mê chủ nghĩa khoái lạc đến hết thuốc chữa, ông không được giới trí thức coi trọng. Văn chương của Tanizaki không có đủ thống khổ và tự vấn lương tâm để được đánh giá là “văn chương tinh khiết.”

Mặt khác, Akutagawa khiến họ hài lòng hơn; tác phẩm của ông luôn có đủ đầy thống khổ và tự vấn lương tâm. Ông chết với một quyển Kinh Thánh cạnh giường. Thế nhưng, ông chưa bao giờ – như cách người ta thường nói – tìm thấy Chúa. Trong Những bánh răng, một ông lão đã đề xuất rằng Thiên Chúa Giáo có thể là giải pháp cho nỗi đau của ông:

 “Nếu tôi có thể trở thành…”

 “Chẳng có gì khó đâu. Chỉ cần cậu tin vào Chúa, và Christ Con Trai Chúa Trời, và những phép màu mà Christ tạo ra…”

 “Ác quỷ thì tôi tin đấy…”

 “Vậy thì tại sao không tin vào Chúa? Nếu cậu tin vào bóng tối, tôi chẳng hiểu vì sao cậu không thể tin vào ánh sáng.”

 “Bởi vì có một số loại bóng tối chẳng hề có chút ánh sáng nào.”

Có thể lý do Akutagawa bị thu hút bởi Thiên Chúa Giáo một phần là do những giá trị mỹ học, tương tự như Oscar Wilde, cả hai người đều thưởng thức khía cạnh nghi thức và hình tượng tôn giáo. Nhưng tôi nghĩ mọi chuyện còn hơn thế. Mặc dù Akutagawa chưa bao giờ là một văn hào chính trị, ông hiển nhiên nhận thức được đi kèm với hiện đại hóa kiểu Tây phương là một sự rối loạn tín ngưỡng. Cũng không hẳn là ông có một nỗi khao khát phản động với Nhật Bản thuyền thống, còn lâu mới thế. Theo như ông nghĩ, Nhật Bản truyền thống cũng sụp đổ rồi. Điều ông đang tìm kiếm là một đặc tính tín ngưỡng vạn năng có thể cứu rỗi ông khỏi cái cảm quan cô lập dẫn đến chủ nghĩa duy ngã bệnh hoạn và thói ái kỷ thuần túy. Donald Keene tóm tắt chuẩn xác: “Người ta có thể vượt qua thói ái kỷ nhờ ơn trên, chứ không phải nhờ sự chiêm nghiệm cẩn trọng từ bất cứ luật lệ ứng xử nào.”

*

Những mô tả ngắn gọn của Akutagawa về sự thống khổ tinh thần dẫn đến kết cục tự tử là một bộ tài liệu xúc động. Ta cảm nhận được sức sống đang cạn dần từ người đàn ông này, chẳng để lại gì ngoài trí tuệ – lạnh băng, minh bạch đến kinh hoàng – những khi ông không chìm đắm trong những cơn hoang tưởng. Trong A Fool’s Life (Cuộc đời một kẻ ngốc), ra đời như bức thư tuyệt mệnh không lâu trước khi ông tự sát, Akutagawa so sánh mình với Icarus, trí tuệ của ông được gắn với đôi cánh nhân tạo bởi Voltaire:

 “Mở ra đôi cánh nhân tạo này, anh dễ dàng bay đến trời cao. Tắm mình trong ánh sáng lý luận, niềm vui và nỗi buồn nhân thế chìm dần dưới mắt anh. Vượt qua những thị trấn bẩn thỉu, đánh rơi sự chế nhạo và giễu nhại, anh bay vút lên những khoảng không vô định, hướng thẳng đến mặt trời. Cứ thế với đôi cánh nhân tạo, cháy xém bởi sức chói của mặt trời, một người Hy Lạp cổ đại đã rơi xuống biển, chết. Hình như anh đã quên điều đó rồi…”2

Tất cả những phân tích trên đâu đó ám chỉ rằng Akutagawa là một nhà văn sâu sắc hơn quý ngài Tanizaki thích hưởng lạc, kẻ dành quá nhiều thời gian cho những ám ảnh xác thịt hơn cho Voltaire, Icarus và sức sáng chói của mặt trời. Nhưng tôi tự hỏi điều này liệu có đúng không. Tôi tự hỏi liệu Tanizaki, thông qua sự hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa gợi tình, liệu có tiến gần với cốt lõi loài người hơn là Akutagawa không. Và điều quan trọng hơn là, Tanizaki đã truyền tải được điều này trong văn chương của mình. Những vần văn của Tanizaki vẫn sống. Có lẽ Akutagawa, cháy rụi ở tuổi còn quá trẻ, biết rằng những vần văn của ông đang tiến gần về cõi chết. Có lẽ đó là lý do ông không thể sống tiếp được nữa.

Hết.

Chú thích:

  1. Femme fatale (độc phụ) là danh từ ám chỉ hình mẫu phụ nữ có ngoại hình quyến rũ và bí ẩn lạ lùng, mê hoặc đàn ông nhưng thường mang trong mình những dụng ý nguy hiểm và thâm độc.
  2. Trích từ Cuộc đời một kẻ ngốc, Phạm Bích và Đỗ Nguyên dịch, NXB Văn học.

Aki-ten dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Ian Buruma, tại The New York Review of Books.


Đọc tất cả những bài viết của Aki-ten.


Tìm hiểu về tác giả Tanizaki Jun’ichiro



Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng