Phía sau trang sách

Khu vườn mùa hạ – Cho một khúc an lành trong tâm hồn, một khúc ca khởi sinh từ câu hỏi về cái chết

Có một mùa hạ vẫn ươm những hạt mầm rực rỡ trong lòng tôi.

Có một mùa hạ vẫn rạng ngời và tỏa sáng.

Có một mùa hạ lắm nhẹ nhàng.

Và một mùa hạ của chia ly…

Published

on

Lưu ý: Nội dung bài viết tiết lộ một số tình tiết quan trọng của cuốn sách Khu vườn mùa hạ.

“Tôi gửi mùa hè ở lại đây

Ở trong muôn tia nắng thật đầy

Trong khu vườn nhỏ, hoa và cỏ

Trong ánh mặt trời cùng đám mây…”

Tôi đã viết những dòng như thế trong một buổi chiều an lành và dịu mát, khi tôi khẽ nhắm mắt mình lại và lắng nghe mùi hương của gió, trông ánh nắng chiều nhàn nhạt phía đằng xa, chợt dưng thấy lòng mình như vừa hát lên một khúc ca thanh thản – khúc ca của mùa hè, của một khu vườn lặng lẽ ướt sau mưa.

Thế là tôi đã đọc xong Khu vườn mùa hạ – một cuốn sách để tôi kiếm tìm cho mình những sự nhẹ nhàng và an yên đến lạ. Tôi nghĩ, có lẽ vẫn luôn có một cơ duyên lạ kì nào đó để tôi cầm trên tay cuốn sách này, để tôi say mê và hứng thú, để tôi đọc và ngẫm nghĩ từng cơn, để tôi bồi hồi hân hoan và xúc động, và cũng có lẽ, trong một khoảnh khắc quý giá của cuộc đời, tôi đã nếm được một nỗi miên man đọng lại ở trong lòng – một nỗi an lành và trong veo như cái cách tôi đã cảm nhận được, hoặc như cái cách mà tác giả Kazumi Yumoto đã viết ra.

Với Kazumi Yumoto, tôi vẫn luôn thích cách kể chuyện của cô trong những tác phẩm tôi từng đọc, và đặc biệt nhất vẫn là Khu vườn mùa hạ. Ở đâu đó trong từng con chữ ấy, tôi gặp được câu chuyện của chính mình, gặp được những dòng cảm xúc mà tôi tưởng đã lâu bị vùi trong cơn đảo điên thường ngày. Có lẽ, sự nhẹ nhàng và những giá trị tử tế trong Khu vườn mùa hạ đã làm cho tôi yêu thích cuốn sách này, và dĩ nhiên, tôi đã nghĩ về nó như một điều an lành trong tâm hồn của mình, một điều an lành khởi sinh lên từ một câu hỏi về sự chết.

Chết? Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã từng ít nhiều nghĩ về cái chết như một điều đáng sợ hoặc lạ lẫm, dẫu là cái chết của người khác hoặc là của mình, phải vậy không? Và cũng chính từ những lăn tăn nghĩ ngợi về sự chết như thế, Kazumi Yumoto đã bắt đầu câu chuyện bằng cách để cho nhóm bạn trẻ ba người Kiyama, Wakabe, Yamashita đặt ra những thắc mắc về bí ẩn của những linh hồn, những thế giới thầm lặng của người đã khuất sau sự ra đi của bà Yamashita. Để khám phá ra những bí ẩn đó, nhóm bạn của Kiyama đã lập ra một kế hoạch: theo dõi một ông cụ mà chúng đồ rằng là đã chết hoặc sắp phải chết – đang ở trong một căn nhà cũ tồi tàn nằm cuối dãy phố. Hàng ngày, bọn trẻ hẹn nhau đến nhà ông cụ để theo dõi những hoạt động thường ngày của ông. Sau mỗi đợt “điều tra” như thế, chúng nhận ra, ông cụ kì quái và bí ẩn, luôn thích sống tách biệt với mọi người kia thật ra vẫn còn sống và không phải là một hồn ma. Đồng thời, khi nhận ra được điều đó cũng là khi phi vụ điều tra lén lút của đám trẻ bị ông cụ phát hiện. Bằng một cách nhẹ nhàng nào đó, sau những hiểu lầm và cãi vã ban đầu, ông cụ và bọn trẻ dần trở nên thân thiết với nhau hơn. Ông cụ bắt đầu cải tạo lại ngôi nhà của mình, sửa sang những mảng tường đã cũ, giặt giũ đống quần áo đã lâu và dọn dẹp lại khu vườn ngoài sân đã đầy cỏ. Dưới sự giúp đỡ của bọn trẻ, không lâu sau, ngôi nhà đã khoác lên mình một chiếc áo mới. Ở trong khu vườn bé xinh, bọn trẻ và ông cụ đã cùng nhau trồng những mầm hoa nhỏ ngát thơm, những mầm hoa mong một ngày khôn lớn.

Ảnh: pexels.com

Cũng thế, trong những ngày làm bạn với ông cụ, bọn trẻ lại biết được thêm một câu chuyện thật buồn về ông, câu chuyện mà ông không hề muốn nhắc lại bao giờ. Tôi cũng vậy. Ngay lúc này, khi gõ ra những dòng chữ này, tôi vừa thấy có một nỗi buồn nào đó chạm khẽ vào mắt mình. Tôi thật sự chỉ muốn câu chuyện của ông cụ sẽ mãi nằm ở đó, trong lòng tôi, như một hồi ức buồn về những người đã từng sống trong thời kì chiến tranh khốn khổ. Tôi mãi nhớ hoài giây phút nhóm bạn trẻ lặn lội đến một vùng đất thật xa, chỉ để tìm một người mà chúng cho đó là vợ ông cụ, rồi ở đó, có điều gì còn giữ lại nữa đâu, chỉ có một chiều hoàng hôn thật lạ, và những điều khắc khoải thật buồn…

“Đó là một cảnh cô đơn đến độ không thể diễn tả thành lời. Tòa nhà giống như một chiếc hộp nhỏ bị bỏ lại giữa cánh đồng nhuộm màu chiều tà. Tôi muốn nắm giữ thật chặt thứ ở trong chiếc hộp đó. Nhưng nó càng lúc càng xa vời. Cũng giống như việc người ta không thể khiến thời gian dừng lại.”

Cũng giống như việc người ta đang bị mắc kẹt trong kẽ hở của những câu trả lời không hồi đáp, chỉ có thể âm thầm suy nghĩ, chứ không thể tìm cho mình một ý niệm thỏa đáng nào.

Khi đọc đến những dòng chữ ấy, tôi thấy mình bé nhỏ vô cùng. Bé nhỏ giữa cuộc đời rộng lớn. Bé nhỏ giữa những chuyện người mênh mông…

Thế rồi cuộc đời trôi đi. Mùa hè của bọn trẻ cũng trôi qua trong những hoạt động ngoại khóa ở câu lạc bộ trường. Trong khoảng thời gian ấy, bọn trẻ không gặp được ông cụ, nhưng chúng vẫn luôn để dành lại những câu chuyện vặt, hi vọng ngày trở về sẽ được kể cho ông cụ nghe đủ đầy những gì mà chúng đã trải qua. Nhưng cái ngày ấy có lẽ sẽ xa lắm, xa đến độ dẫu đi hết cả cuộc đời này, chúng vẫn sẽ không thể nào tìm thấy được một ngày nào như thế nữa. Ngày ông cụ đã rời khỏi cuộc đời này. Ngày ông cụ đã mãi mãi trả lại thân xác cho những điều giả tạm. Ngày ông cụ thật sự để lại trong lòng những đứa trẻ này một nỗi mất mát lớn vô cùng. Và cứ như thế, bọn trẻ đã lặng lẽ tạm biệt ông cụ, tạm biệt khu vườn nhỏ cùng căn nhà quen thuộc, tạm biệt những điều thân thương quá đỗi, những xa lạ đã từng rất gần gũi, tạm biệt cả một mùa hè lặng lẽ nằm ướt đẫm trong cơn mưa, trong những điều không còn nguyên vẹn nữa.

Rồi như thế, cuốn sách đóng lại, đóng luôn cả những hồi ức tốt đẹp về một tình bạn chân thành và khắng khít giữa ba đứa trẻ. Sau sự ra đi của ông cụ cũng là lúc mùa hè kết thúc, bọn trẻ lại quay về với cuộc sống riêng của mình, cuộc sống ở những vùng đất khác, những sự lựa chọn khác – những cuộc sống không còn nhau. Chúng chia tay ở một con đường nhỏ, chúng nói lời tạm biệt những người bạn của mình, chúng hứa hẹn về một ngày gặp lại. Và tất nhiên, trong những ngày rực rỡ nhất của mùa hè năm ấy, ở đâu đó, chúng đã tự tìm được cho mình những câu trả lời. Câu trả lời về ước mơ của chúng, về thắc mắc của chúng, về ý nghĩa của từng sự sống và cái chết trong cõi đời này, và về một tình bạn thật đẹp trong chuyến hành trình đi tìm ý nghĩa của cuộc sống. Vậy là câu chuyện kết lại, như một đám mây nhẹ nhàng và lặng lẽ trên trời…

Phải nói làm sao nhỉ? Nếu như ai đó đang kiếm tìm một cuốn sách có nội dung li kì và hấp dẫn, thì tôi nghĩ đây không phải là một sự lựa chọn thích hợp. Bởi bao giờ cũng thế, trong văn phong của tác giả Kazumi nói chung và chất văn của Khu vườn mùa hạ nói riêng, sự nhẹ nhàng và sâu lắng vẫn chiếm ưu thế và trở nên vượt trội hơn bao giờ hết so với những tình tiết gây cấn và lôi cuốn người đọc như ở trong nhiều tác phẩm khác. Nhưng không vì thế mà cuốn sách này trở nên nhàm chán và tẻ nhạt. Bởi khi ta đã đưa mắt mình lướt qua những dòng chữ đầu tiên, hẳn thế nào ta cũng sẽ tò mò và bắt đầu nhắc nhở bản thân mình về trách nhiệm đi khám phá câu chuyện mà tác giả đã khéo léo gầy dựng – một câu chuyện được vẽ nên bằng những hình ảnh đầy chất thơ với gam màu tươi sáng, rạng rỡ, thấm nhuần những giá trị cốt lõi đầy ý nghĩa mà bất kì ai tìm thấy nó cũng đều phải gật đầu đồng ý. Cũng chính vì sự đơn giản nhưng lại tinh tế đến lạ kì ấy đã làm cho cuốn sách trở nên hấp dẫn hơn, thu hút hơn, đặc sắc hơn… sẵn sàng làm xiêu lòng bất kì đọc giả nào mà không cần dùng đến một hình thức miêu tả phức tạp nào khác. Vì bao giờ cũng vậy, những điều được xuất phát từ trái tim chắc chắn sẽ chạm đến trái tim, một cách chân thành và gần gũi.

Ở trong câu chuyện này, điều khiến tôi suy nghĩ nhiều nhất, vẫn là nhân vật ông cụ – người mà xuyên suốt cả câu chuyện, chúng ta cũng không hề thấy tác giả nhắc đến một cái tên nào. Vì sao lại như thế? Vì điều này là không cần thiết, hay vì sẽ chẳng có một cái tên cụ thể nào để lột tả được nhân vật tưởng chừng như kì lạ và bí ẩn này. Tôi đã nghĩ, nghĩ về những gì đã xảy ra trong cuộc đời ông cụ, nghĩ về những ngày ông cụ còn trẻ, về cuộc trốn chạy cùng đồng đội trong rừng, về việc rời bỏ người vợ của mình, về việc trở thành một ông già cô độc sống giữa lòng thành phố cùng những ám ảnh và bận tâm khôn xiết về quá khứ, hay cả về cái chết của ông trong căn nhà cũ, lúc được nhóm bạn của Kiyama phát hiện ra. Những sự kiện mà ông cụ đã từng trải qua đều ít nhiều để lại cho tôi vài suy nghĩ, và có lẽ, ai rồi trong chúng ta cũng sẽ đều giống như ông cụ kia, đến và đi trong cuộc đời này như một cuộc dạo chơi tạm bợ, và khi cuộc dạo chơi ấy không còn, cũng là lúc chúng ta phải rời đi, dù muốn hay không. Sự ra đi của ông cụ cũng là một hồi chuông vọng về bên tai tôi khe khẽ, để tôi cũng như ba cậu bé trong cuốn sách này tìm thấy câu trả lời cho mình, về ý nghĩa của sự sống và cái chết, về một điều mơ hồ nhưng lại vô cùng chắc chắn. Tôi chợt nhận ra rằng, cũng có những cái chết, cũng có những cuộc chia ly không làm cho người ta buồn và khổ, mà làm cho người ta tỉnh thức để sống tốt với cuộc đời của mình. Cứ như thế, cuốn sách đã sống trong lòng tôi, sống trong những ngày hè tôi ôm ấp một giấc mơ về khu vườn bé nhỏ, về những an nhiên và lặng lẽ lạ thường.

Có một mùa hạ vẫn ươm những hạt mầm rực rỡ trong lòng tôi.

Có một mùa hạ vẫn rạng ngời và tỏa sáng.

Có một mùa hạ lắm nhẹ nhàng.

Và một mùa hạ của chia ly…

Hết.

Lâm Lâm

Xem tất cả những bài viết của Lâm Lâm tại đây.


Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng