Trà chiều

Vào Trong Hoang Dã – Dear My Aquarius…

Published

on

“Hơn hai mươi tuổi đời, gia đình giàu có, học vấn cao và một tương lại rộng mở phía trước, vậy mà Christopher McCandless (hay Alexander Supertramp như anh tự gọi mình) đã từ bỏ tất cả để dấn thân vào hành trình đơn độc xuyên qua hết thảy các vùng hoang dã của Bắc Mỹ. Dưới ngòi bút sống động của Jon Krakauer, Vào Trong Hoang Dã (Into the Wild), cuốn sách mô tả những trải nghiệm phi thường đó của Christopher McCandless, đã trở thành một cuốn tự truyện nổi tiếng, một tác phẩm khó quên về thiên nhiên và phiêu lưu, ngợi ca một cuộc sống tận hiến và cảm động.”

*

Vài dòng cho Chris, một Bảo Bình phóng khoáng, yêu tự do, nổi loạn, ghét xã hội giả dối với các nguyên tắc, đi vào miền hoang dã và đã chết trong cô độc ở tuổi 24…

“Ông sai rồi. Đừng nên chỉ tìm hạnh phúc trong các mối quan hệ với con người. Thượng Đế phân phát hạnh phúc ở khắp mọi nơi. Vì vậy, chúng ta phải khám phá nó.”

Lúc Chris nói như thế, tôi đã nghi nghi rồi. Là anh nói vậy nhưng thật sự không phải vậy, hay là đúng hơn, trong lòng anh mong một điều gì đó khác đi. Mặc dù câu nói nghe cũng có vẻ logic. Nó là sự diễn giải cho việc vì sao anh muốn sống với tự nhiên. Bởi vì như anh nói hạnh phúc không chỉ nằm ở các mối quan hệ với con người, nó nằm ở khắp mọi nơi nên anh muốn khám phá hạnh phúc khi sống với thiên nhiên là lẽ đương nhiên. Nhưng vẫn có một chút gì đó, buồn và cô độc trong câu nói ấy làm sao. Tôi thực tâm không tin rằng anh nghĩ như vậy. Tôi nghĩ rồi sẽ có lúc anh nghĩ lại và hối hận.

Cảm giác chán ghét con người, xã hội, mọi thứ, sợ hãi, chạy trốn… Tôi cũng đã có rất nhiều. Cũng đã từng muốn nổi loạn, muốn đi đâu đó thật xa. Nhưng tôi khác anh. Đó là vì tôi sợ con người chứ không phải ghét con người… Dù chỉ trong suy nghĩ, nhưng kiểu chạy trốn của tôi là một kiểu thụ động, nhút nhát. Còn cách anh chạy trốn, thật chủ động, thật dũng mãnh và đầy sự kiêu hãnh làm sao… Dù là kiêu hãnh trong đơn độc.

Anh biết không, tôi đã rất bất ngờ khi biết anh là một Bảo Bình đấy. Tôi đã quá mệt mỏi rồi. Tôi muốn dừng lại. Không muốn làm gì nữa. Nên hôm nay, tôi mới muốn chọn một hành động lười biếng nhất: đó là xem phim. Đã định xem You’re the apple of my eyes rồi, anh biết không. Tôi nghĩ một phim mang hơi hướng giải trí, nhẹ nhàng như thế sẽ hợp cho tôi lúc này. Vì tôi không muốn suy nghĩ gì nhiều cả. Tôi chỉ muốn một bộ phim tình cảm nhẹ nhàng, xoa dịu cảm xúc của tôi. Nhưng không hiểu sao, khi tôi bắt đầu định xem thì lại thấy đĩa phim Into the wild bày ngay trước mắt. Tôi đã biết sơ lược câu chuyện về anh từ lâu, cũng đã biết rằng phim này rất hay, được sự đánh giá cao của các nhà chuyên môn. Nhưng tôi vẫn chưa xem. Lúc đó, không biết có một động lực gì, nó thôi thúc tôi xem kinh khủng. Có lẽ chính là cái chết của anh… Dù chỉ nghe thoáng qua, nó khiến tôi suy nghĩ, tại sao một người lại có thể chán ghét xã hội đến như thế, để rồi chạy trốn ở một nơi xa vắng không một người nào và chết… Tôi biết trước nó sẽ làm tôi suy nghĩ nhiều và mệt mỏi. Nhưng thôi, bỗng dưng ngay phút đó, anh ám ảnh tâm trí tôi nhiều quá rồi, anh ạ. Và thế là, tôi xem luôn.

Nửa phần đầu của phim, dù buồn nhưng anh cười như điên, vẫn giao tiếp tốt, bắt bạn rất tốt với xã hội bên ngoài, rất thân thiện. Rõ ràng, anh không phải là một dạng vì quá nhút nhát, sợ hãi, không thể giao tiếp với ai mà muốn chạy trốn mọi thứ như tôi. Anh làm tôi tưởng anh là cung Nhân Mã. Và thú thật, nửa đầu phim, tôi chỉ nghĩ đơn thuần anh đi như thế, đơn thuần là vì anh muốn đi du lịch, muốn sống với thiên nhiên sau tháng ngày gò bó trong ngôi nhà giàu sang và việc học hành mệt mỏi. Tôi chỉ nghĩ anh đi vì sự yêu thích phiêu lưu, khám phá đơn thuần thôi… Vì lúc đó, tôi đâu biết… đâu biết anh lại mang trong mình một nỗi buồn về gia đình lớn đến như thế.

Để rồi… anh khiến cho tôi dần dần đi vào nỗi buồn của anh. Sự đồng cảm đó đến thật lặng lẽ, từ lúc nào mà tôi không hay. Như những giọt nước sau cơn mưa nhẹ rỏ tí tách nhưng vẫn còn có khả năng thấm ướt một vùng đất khô cứng nào đó. Anh mang trong mình quá nhiều nỗi buồn, cả sự nổi loạn, mâu thuẫn, yêu thơ văn và những suy nghĩ rất sâu sắc. Càng về sau, tôi càng thấy mình sai lầm khi lúc đầu đã đoán anh là Nhân Mã. Rõ ràng, một con người như thế không phải là Nhân Mã. Nhưng tôi vẫn không dám nghĩ anh là Bảo Bình. Lúc đó, tôi đoán có lẽ anh là Song Tử. Một Song Tử cũng yêu tự do, phóng khoáng, nổi loạn và chứa hai mặt mâu thuẫn trong con người. Phim kết thúc, tôi vội lên mạng dò ngày sinh và phát hiện ra… anh là cung Bảo Bình. Trời ơi… lại một Bảo Bình nữa đến với tôi sao… Thật kinh khủng. Tôi chạy đi đâu cũng không thể thoát được Bảo Bình. Tôi không nghĩ đó là sự ám ảnh. Bởi vì tôi yêu Bảo Bình. Tôi vẫn muốn nghĩ đó là một thứ tình yêu nào đó vô hình dẫn dắt tôi, một mối dây liên kết vô tình nào đó, để hôm nay tôi không xem You’re the Apple of My Eyes mà xem Into the Wild và biết thêm về anh – một Bảo Bình.

Và anh biết không, tôi cũng ngỡ ngàng khi xem đoạn anh tự độc thoại với quả táo. Và anh cũng nói với quả táo câu: “You’re the apple of my eyes”. Có lẽ nào tên bộ phim đó là lấy từ câu nói của anh chăng?

Từng chi tiết về anh đều khiến tôi bị cuốn hút. Tôi ước mình cũng có thể như anh. Có thể vứt bỏ hết tất cả và đi như thế, đem theo một mớ sách để đọc.

Rồi anh chết…

Trước khi chết, anh đã định nghĩa lại về hạnh phúc trong nước mắt:

“Happiness is only real when shared”

Vâng, anh ạ.

Tôi nhiều lần muốn chạy trốn con người. Tôi sợ con người. Chán ghét tất cả mọi thứ. Nhưng rồi những lần chạy trốn đó, dù chỉ là trong tâm thức, chỉ đơn thuần là tắt Fb cả tháng, tắt điện thoại, không đi ra ngoài, không gặp gỡ ai… Tôi đã từng tự cách li mình nhiều lần như thế trong khoảng một tháng. Tôi không làm được 2 năm như anh… Nhưng mỗi lần chạy trốn đó, cũng khiến tôi nhận ra điều ấy… Mỗi lần chạy trốn con người vì sợ hãi rồi quay trở lại xã hội loài người, tôi lại thấy yêu mến họ hơn trước cả khi chạy trốn… Anh hiểu mà phải không…

Anh giống một Bảo Bình đúng nghĩa. Lúc nào cũng cười và che giấu những đau khổ của bản thân. Dù nhiều chuyện đã xảy ra với anh, không khi nào anh than thở. Anh khó hiểu. Anh yêu người em gái của mình và anh nói rằng có lẽ chỉ duy nhất em ấy là hiểu những gì anh nói. Tôi không biết ở ngoài đời thực anh như thế nào. Nhưng có lẽ anh cũng ít khóc. Tôi nhìn những tấm hình của anh và một lần nữa lại thấy nụ cười đúng chất Bảo Bình. Gần như hình nào anh cũng cười đến híp cả mắt, toét miệng cả ra trông như rất hạnh phúc. Nhưng thật ra, trong anh vẫn rất cô đơn phải không… Anh chỉ dùng nụ cười đó để che giấu thôi. Và trong phim thì tôi chỉ thấy anh khóc duy nhất đúng một lần. Là khi anh viết câu ấy: “Hạnh phúc chỉ có thực khi được chia sẻ”. Nhưng trong chiếc magic bus màu xanh lá cây có đánh số 142 đó, đâu một ai chia sẻ với anh cơn đói khát, chiếc quần jeans mỗi ngày một rộng vì anh quá ốm, sợi dây nịt mỗi ngày lại thêm nhiều lỗ đục mà anh khắc để giữ cho chiếc quần dính chặt vào đôi chân mình, sự bất lực khi xác con bò mà anh giết không đủ lửa nóng để thịt bò chín… những con giòi bu lúc nhúc trong đó, không thể ăn, đơn giản là không thể ăn…rồi cái quang cảnh ấy, đẹp đẽ nhưng quá đỗi hoang vu lạnh lẽo. Cô độc lắm phải không anh? Khi anh cố gắng đọc những quyển sách bên đống lửa nhỏ ít ỏi trong đêm tối lạnh. Khi không thể băng qua được dòng sông đó và cơn mưa ập tớii, buổi tối ấy, cuối cùng, lần đầu tiên anh đã thừa nhận sự cô độc của mình, anh ghi vào cuốn sổ của mình “Dòng sông không thể băng qua. Trời mưa đêm. Cô đơn”…Lonely, lonely, lonely… Hình như lúc đó, từ ấy mới xuất hiện lần đầu tiên. Dù rằng suốt cả bộ phim là sự cô độc của anh nhưng mãi đến cuối phim, anh mới chịu thừa nhận điều đó một cách cụ thể như thế… Lúc đó, tôi chỉ muốn ở bên cạnh anh để chia sẻ sự cô đơn đó, muốn ôm anh thật chặt, không phải như một người tình, chỉ đơn thuần là tìm hơi ấm để chia sẻ tình người với nhau thôi. Một cái ôm để biết rằng cả hai vẫn đang tồn tại trong cuộc sống mà anh biết đó, giáo dục, luật pháp, chính trị, xã hội, tin tức, giải trí… mỗi ngày như đang dần biến chúng ta thành những người vô hình. Đôi lúc, tôi không cảm nhận được sự tồn tại của mình.

Và lần cuối cùng ấy, khi nhìn ánh mặt trời đó, anh khóc, nhưng anh vẫn cười. Anh cười khi nhìn bầu trời và một giọt nước mắt khẽ rơi từ khóe mắt đó. Nhưng nụ cười vẫn đọng lại mãi trên môi anh, bên khung cửa sổ xe bus đó.

Tôi thích anh. Thích sự điên rồ của anh, thích nụ cười anh trong những bức hình, thích nỗi buồn của anh, thích sự cô độc và mãnh mẽ, lí trí của anh, thích từng thứ mà anh suy nghĩ…

Nhưng anh à…

Tôi biết tôi chỉ đang tự dối lòng mình. Tôi chỉ yêu mỗi Bảo Bình đáng yêu của tôi thôi. Tình yêu đó, đã khiến tôi đau đớn và… hạnh phúc. Tôi chỉ đang chạy trốn trong một danh từ chung, một thế giới rộng lớn hơn mang tên là: Bảo Bình. Nhiều lúc, tôi khóc vì nhớ… tôi tự nhủ thầm trong đầu là không phải vì tôi còn yêu người ấy nhiều, chỉ đơn thuần là tôi đang yêu chung chung cung Bảo Bình. Nhưng ngay trong ngày hôm nay, khi được quen biết anh, dù thích anh nhiều như thế, tôi vẫn nhận ra một điều rõ ràng rằng tôi yêu người ấy vì người ấy là người ấy. Không phải vì người ấy là Bảo Bình. Và tôi vẫn còn yêu người ấy nhiều lắm.

Dù vậy, Bảo Bình đã dạy cho tôi nhiều thứ, rất nhiều… Tất cả những Bảo Bình đã đến trong cuộc đời tôi đều cho tôi những bài học quí báu… và đến giờ, tôi vẫn không thể quên được họ, không bao giờ tôi có thể quên họ.

Cũng có lẽ, tôi đã yêu Bảo Bình thật. Một Bảo Bình trừu tượng, tổng hợp lại từ rất nhiều Bảo Bình. Một Bảo Bình trong định nghĩa.

Dù thế nào thì tôi vẫn thích anh, rất rất thích anh. Cảm ơn anh vì ngày hôm nay. Lâu lắm rồi mới có người cho tôi nhiều cảm xúc, có một bộ phim khiến tôi xúc động như vậy. Từ nhỏ tôi vẫn luôn nghĩ, tình yêu là không khoảng cách cả về thời gian lẫn không gian. Vì vậy, tôi đã luôn tỉnh bơ như không mà trò chuyện với những người tôi biết họ sẽ chẳng bao giờ biết đến sự tồn tại của mình. Từ nhỏ, tôi đã luôn yêu những người chết trước mình lâu lắm rồi…

Và tôi sẽ cố gắng sống tốt hơn, mạnh mẽ hơn. Cái mạnh mẽ như anh nói: “It’s not necessary to be strong. But, to feel strong”

“Can you see the sky that I’m seeing?”
Love my lovely Aquarian
Love Aquarius”

Hết.

Một Cự Giải

Ảnh đầu bài: Zing

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng