Trà chiều

Đảo Của Dân Ngụ Cư – Nơi những mảnh đời lạc lõng tụ hội lại

Chúng ta thường chỉ chú ý đến những điều quan trọng khi mọi thứ đã quá trễ, khi ta đã mất nó.

Published

on

Tôi vừa đọc xong truyện Đảo Của Dân Ngụ Cư của nhà văn Đỗ Phước Tiến. Đây là tác phẩm gốc của bộ phim chuyển thể cùng tên do nữ diễn viên Hồng Ánh lần đầu tiên đảm nhận vai trò đạo diễn. Văn phong của truyện rất giàu hình ảnh, tính từ và mang đặc trưng riêng nhưng có lẽ vì bị ảnh hưởng từ việc xem phim trước mà tôi cảm thấy thích phim của chị hơn cả truyện gốc.

Phim Đảo Của Dân Ngụ Cư khiến tôi khá ngạc nhiên vì tôi để ý rằng những bộ phim của đạo diễn có xuất thân là diễn viên thường chú trọng vào diễn xuất, nhân vật hơn là hình ảnh so với những đạo diễn có xuất thân từ quay phim. Nhưng trong bộ phim đầu tay của mình, Hồng Ánh đã thực sự kể chuyện bằng hình ảnh, chị tạo được ngôn ngữ điện ảnh riêng, những qui tắc riêng trong phim với sự sắp xếp, cấu trúc hình ảnh rõ ràng. Đây là một phim nghệ thuật rất tốt. Tôi cảm động vì chị đã dũng cảm làm phim như vậy. Có lẽ đây là một trong những phim Việt Nam mà tôi thích nhất vài năm gần đây.

Bộ phim mở đầu bằng một hình ảnh rất mạnh: người xem nhìn thấy cánh tay của một người đàn ông nằm trên biển và một cô gái ở đằng xa. Cảnh này không có tiếng tạo ra một cảm giác kì lạ. Hình ảnh đầu tiên của phim đã rất lôi cuốn tôi bởi vì tôi không thể giải thích được, không thể xâu chuỗi hình ảnh hai hình ảnh đó thành một câu chuyện. Hình ảnh ấy khiến tôi suy nghĩ, phân vân liệu người đàn ông đó còn sống hay đã chết, tại sao người con gái kia cứ ngồi trên thuyền thúng và nhìn về người ấy. Sau đó, màn hình chuyển đen, tôi nghe thấy tiếng sóng biển. Và người xem lại nhìn thấy biển lần nữa nhưng lúc này là một thanh niên trẻ đi qua bãi biển. Thế rồi, chúng ta nghe những dòng độc thoại tự sự của anh. Lúc này, tôi bắt đầu có cảm giác lo sợ rằng phim của chị có khả năng trở thành hình ảnh minh họa cho truyện ngắn nguyên tác. Nhưng tôi vui vì điều mình lo lắng đã không thành sự thật. Trong vài phân cảnh đầu tiên, chị đã xây dựng được không khí, giọng điệu và phong cách kể chuyện rất rõ ràng. Một trong những điểm đặc trưng tạo không khí khác lạ là những cảnh quay với góc máy từ trên cao nhìn xuống. Tôi không biết người xem khác cảm thấy như thế nào, nhưng với tôi, việc sử dụng góc máy này một cách có ý thức đã tạo ra bầu không khí rất lạ. Bởi lẽ ở những đoạn cao trào trong một cảnh, người xem thường muốn tiếp cận nhân vật gần hơn để thấy rõ cảm xúc trên khuôn mặt họ, thấy hành động của họ chi tiết hơn; và từ đó, cảm nhận mình là một phần của bộ phim. Thông thường, đạo diễn cũng sẽ làm hài lòng nhu cầu này người xem. Nhưng ở một số cảnh trong Đảo Của Dân Ngụ Cư, Hồng Ánh lại cắt lên góc máy từ trên cao nhìn xuống ngay lúc cao trào của cảnh. Ví dụ: cảnh người vợ tắm cho chồng mình. Lúc người chồng mạnh bạo kéo bà vào bồn tắm, Hồng Ánh lại cắt lên góc cao và dừng ở đó một lúc. Với động tác này, tôi cảm giác chị muốn giữ người xem tiếp cận bộ phim bằng một góc nhìn khách quan, chị khiến họ nhận ra rằng họ chỉ là người xem trung lập, họ không phải là một phần của phim. Hơn nữa, góc máy cao cũng khiến tôi cảm thấy người vợ nhỏ bé và đáng thương. Tôi đã hiểu lầm rằng bà là một người hầu trong cảnh này. Một cảnh khác với cùng cách dựng đó là cảnh Phước và người Khmer đánh nhau. Tôi không nhớ rõ nhưng tôi nghĩ còn những cảnh khác nữa trong phim cũng có cách dựng như thế này.

Ngoài ra, các cảnh sử dụng góc máy từ trên cao cũng khiến tôi tự hỏi đây là góc nhìn khách quan mà Hồng Ánh dùng để kể chuyện, hay là góc nhìn chủ quan của một nhân vật nào đó trong phim. Câu hỏi thú vị này kích thích tôi tiếp tục xem phim để tìm ra câu trả lời. Và tôi không phải chờ quá lâu, câu trả lời nằm ở cảnh nhà hàng đông đúc và có người nhìn thấy một cô gái ngồi ở lầu trên. Tôi nghĩ đó là lúc câu chuyện thật sự bắt đầu, những cảnh trước đó chỉ là để xây dựng lớp nền cho người xem. Cách Hồng Ánh sử dụng khá nhiều góc máy trên cao nhìn xuống từ đầu phim cũng khiến tôi liên tưởng đến một người đang âm thầm quan sát mọi hoạt động, một người đang trốn ở đâu đó. Vậy nên, khi tôi biết được sự tồn tại của Chu, mọi thứ trở nên hợp lý. Sau sự xuất hiện của Chu, vẫn có những cảnh với góc máy cao; trong đó, một số cảnh có thể từ góc nhìn của Chu, số còn lại có thể là góc nhìn khách quan. Nhưng tôi thích điều ấy. Tôi thích cảm giác lẫn lộn khi mình không biết góc nhìn đó là của ai. Tôi cũng để ý thấy đôi khi, góc máy cao đơn thuần chỉ là cách Hồng Ánh mở đầu hay kết thúc một cảnh.

Có vài cảnh trong Đảo Của Dân Ngụ Cư khiến tôi nhớ đến phong cách của Trần Anh Hùng. Tôi nhận thấy chị thường mở đầu cảnh bằng một shot đi theo nhân vật và chị không đổi góc nhiều trong một cảnh, mọi thứ diễn ra với nhịp điệu chậm rãi. Ví dụ: shot dolly từ cửa sổ nhà hàng qua đến người vợ ngồi trước cửa nhà vắng khách, cảnh người vợ lau chùi nhà hàng và người chồng bước ra…

Một điểm nữa tôi lưu ý khi xem Đảo Của Dân Ngụ Cư là việc Hồng Ánh sử dụng cảnh toàn, cảnh trung và trung cận nhiều hơn cảnh cận và đặc tả. Vì chị hạn chế sử dụng cảnh cận (đây chỉ là cảm nhận chủ quan của tôi, tôi không thật sự chắc chắn, có thể chị dùng cảnh toàn, cảnh trung, và cảnh cận cùng số lượng), nên khi cảnh cận xuất hiện, nó tạo hiệu ứng mạnh mẽ hơn. Tôi rất thích cảnh cận hình ảnh con gián chết với những con kiến bò xung quanh, lá khô rơi rụng khắp mọi nơi. Hình ảnh này thể hiện sự chết chóc rõ rệt và khiến tôi cảm nhận được tâm trạng chán chường của nhân vật khi anh nói rằng không muốn mình như một con gián, cố gắng sống sót trong cuộc đời. Cảnh này kết hợp với âm nhạc và sự hòa điệu từ cảnh trước đó đã nâng nỗi buồn lên trong tôi về sự sụp đổ, sự bất ngờ khi mọi thứ không diễn ra theo lẽ tự nhiên nữa. Cảnh trước đó là một cảnh khá hài hước, khi Phước và Miên chạy rượt theo con dê với cái lon cột ở đuôi. Rõ ràng, đó một cảnh hoàn toàn trái ngược với cảnh con gián chết ngay sau đó giữa một bên là sự sống sinh động, một bên là cái chết im lìm.

Tôi cũng thích cách Hồng Ánh chèn những cảnh hoang tàn của nhà hàng vào giữa câu chuyện chính đang diễn ra. Từ đoạn đầu phim, chị cho người xem thấy cảnh nhà hàng bị tàn phá. Người xem biết trước cái kết của câu chuyện, nhưng khi họ gần như đã quên cái kết đó, chị lại nhắc họ về sự thật không thể thay đổi ấy, tựa như, sự tàn phá đó không chỉ ở đoạn cuối, có thể nó đã bắt đầu ngay từ khởi điểm hay đâu đó ở đoạn giữa – khi mọi thứ dường như đang phát triển theo hướng tốt hơn. Sự u sầu, mệt mỏi, không khí ngột ngạt dường như bao trùm lên cả căn nhà.

Cách Hồng Ánh sử dụng âm thanh trong phim cũng đặc biệt. Tôi thích cách sử dụng âm thanh trong cảnh mở đầu nhưng còn nhiều cảnh khác tôi cũng thích.

Thứ nhất, cảnh Phước bắt chước tiếng gà gáy. Đầu tiên, Phước gáy rất to và rồi nhận ra khi làm như thế có thể sẽ bị phát hiện nên Phước phải im lặng. Cảnh này thật sự rất dễ thương khiến tôi liên tưởng đến những cảnh lãng mạn trong phim Hàn Quốc.

Thứ hai, là cảnh Phước và Chu làm tình. Không cần sử dụng tiếng thở, hay những tiếng động khác, chỉ cần hình ảnh và nhạc, phim vẫn truyền tải được cảm xúc của họ trong đêm đầu tiên.

Thứ ba là cảnh Chu ném hai con chim đất nung qua cửa sổ. Tôi chờ tiếng vỡ khi hai con chim bị ném xuống đất, nhưng không có tiếng động gì cả. Âm thanh đó chỉ ở trong đầu người xem nếu họ muốn có một tiếng động nào đó tương tự như vậy. Cảnh này khiến tôi nhớ đến một cảnh trong Tony Takitani của Jun Ichikawa. Trong Tony Takitani, có cảnh Tony làm rơi chiếc đĩa xuống sàn, người xem có thể thấy mảnh đĩa vỡ tung nhưng họ không thể nghe âm thanh của nó. Hình ảnh ấy như dự đoán trước tương lai tối tăm của Tony. Nhưng trong phim Đảo Của Dân Ngụ Cư, Hồng Ánh sử dụng phương pháp này với mục đích và ý nghĩa khác. Chị không cho người xem thấy hình ảnh hai con chim vỡ, người xem chỉ thấy Chu ném hai con chim qua cửa sổ, rồi chị cắt qua hình ảnh bầu trời xanh, và cảnh này đã thật sự chạm đến cảm xúc của tôi, phần nào đó nó giúp tôi hiểu thêm về Chu để rồi cảm thấy thương Chu hơn. Trong suy nghĩ của cô gái ấy, hai con chim đất nung mà cô ném qua cửa sổ thật sự có thể bay, chúng không vỡ, chúng bay về phía bầu trời xanh ấy, chúng được tự do. Chu muốn được tự do như hai con chim đó, nhưng Chu không thể tự giải thoát mình, không thể mang tự do đến cho bản thân. Chu chết trong sự giam cầm, và có lẽ mẹ cô cũng vậy.

Tôi thích nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Mạnh Duy Linh. Những bản nhạc được sử dụng ở nửa đầu phim chỉ có tiếng piano (tôi không chắc chắn, có lẽ vì piano là tiếng tôi nghe thấy rõ nhất), với rất ít nốt nhạc và thường có nhiều khoảng lặng dài giữa các nốt như thể âm thanh rải rác trong không gian ấy muốn mời gọi người xem bước vào câu chuyện. Sau đó, nhạc sĩ dần sử dụng nhiều nốt hơn, nhiều nhạc cụ hơn. Vì vậy, âm nhạc rất phù hợp với không khí phim, nó đi theo tiến triển câu chuyện.

Về nhân vật, tôi rất thích vai diễn Xiếm Hoa của diễn viên Ngọc Hiệp. Cô không xuất hiện nhiều nhưng để lại ấn tượng mạnh mẽ trong các cảnh cô tham gia. Cô diễn vai một người vợ không hạnh phúc, một người mẹ hiền lành. Giọng cười không chút run sợ của cô khi chồng phát hiện bí mật khiến tôi thật sự ngạc nhiên. Tôi cũng thích cách Hồng Ánh kết cảnh với hình ảnh tay cô nắm lấy con dao. Tôi nghĩ cô sẽ cố gắng lấy hết sức để rút con dao, để đấu tranh lại, để đâm người chồng. Thế nhưng cảnh này lại kết thúc với cảnh cận cho thấy bàn tay đầy máu nắm con dao. Hình ảnh ấy như muốn nói cô muốn đấu tranh lại, nhưng sự đấu tranh đó không thành công. Cuối cùng, có lẽ cô cũng là người chịu nhiều đau khổ nhất. Một trong những điều tôi nhớ nhất về Xiếm Hoa là hình ảnh cô treo đèn lồng đỏ trước cửa nhà hàng. Theo tôi nhớ, có hai cảnh như vậy. Cảnh đầu là lúc mọi thứ đang yên ổn, nhà hàng còn đông khách. Cảnh thứ hai là khi cơn bão tới, nhà hàng hầu như không có khách và trông cô rất buồn. Ở lần thứ hai ấy, tôi cảm thấy rất thương cô. Lúc đầu, tôi không để ý lắm khi cô treo đèn lồng đỏ mỗi đêm. Nhưng khi cảnh đó lặp lại lần thứ hai ở gần cuối phim, với cơn bão đang đến, nhiều lá rơi rụng hơn, vắng khách hơn, với cảnh trung cận để thấy cô run rẩy trong cơn lạnh, tôi thật sự thấy buồn. Hình ảnh đèn lồng đỏ cũng khiến tôi nhớ đến phim Đèn lồng đỏ treo cao của Trương Nghệ Mưu.

Ngoài ra, tôi cũng thích cách Hồng Ánh bỏ một vài cảnh để đẩy nhanh câu chuyện của phim. Ví dụ: chị chỉ cho thấy cảnh Phước trèo lên và ngắm Chu, sau đó, người xem có thể thấy họ đã khá thân thiết với nhau. Không có cảnh lần đầu gặp gỡ với những câu hỏi căn bản như tên tuổi, hay những câu tương tự như thế. Tôi nghĩ đó là sự lựa chọn đúng. Và chị cũng không cho thấy những cảnh khá quan trọng ở một số phân đoạn, đặc biệt là phân đoạn cuối: cảnh Chu chết như thế nào. Người xem chỉ nghe thấy tiếng hét của bà vợ. Sau đó, người xem thấy cảnh khủng khiếp ấy qua góc nhìn của Phước. Và cuối cùng là góc cận khuôn mặt chết của Chu. Tôi rất thích cách xử lí này. Khi người xem không thấy toàn bộ diễn biến của câu chuyện, họ sẽ ngạc nhiên hơn vì họ không biết chuyện gì đã xảy ra, và sẽ diễn ra. Người xem chỉ có thể thấy kết quả. Điều ấy khiến tôi nhớ đến cuộc sống của chúng ta. Chúng ta thường chỉ chú ý đến những điều quan trọng khi mọi thứ đã quá trễ, khi ta đã mất nó. Cảnh này cũng vậy. Mọi người thường nhận ra vấn đề khi đã quá muộn, và cuối cùng, họ mất những gì quan trọng đối với họ.

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Cafe sáng