FICTION

Truyện ngắn: Còn nhiều chuyện hơn nữa (Jorge Luis Borges)

Dành tưởng nhớ H. P. Lovecraft

Published

on

Dịch từ truyện ngắn There Are More Things trong tập The Book of Sand của Jorge Luis Borges, bản dịch tiếng Anh của Norman Thomas di Giovanni.

*

Ngay khi tôi chuẩn bị tham dự kỳ thi sau chót tại Đại học Texas, Austin, tôi hay tin chú Edwin Arnett đã chết vì chứng phình động mạch ở miền biên viễn xứ Nam Mỹ. Tôi cảm thấy như chúng ta vẫn luôn cảm thấy khi ai đó qua đời – nhận thức đau buồn, giờ đây vô ích, về cái cách lẽ ra ta phải yêu thương nhiều hơn song lại ít đến dường nào. Người ta quên mất một người chết thì trái ngược với người chết. Tôi học triết; tôi nhớ hồi ở Nhà Đỏ gần Lomas, chú tôi, không đụng tới một danh từ riêng nào, đã hé mở cho tôi những phức tạp đầy duyên dáng của giới luật. Chú ấy dùng một trong các quả cam tráng miệng khai vỡ cho tôi chủ nghĩa duy tâm Berkeley, dùng bàn cờ luận giải nghịch lý Eleatic. Nhiều năm sau, ông cho tôi mượn luận thuyết Hinton, thứ cố gắng chứng minh tính xác thực của chiều không gian thứ tư, động viên người đọc ngộ ra chiều không gian đó thông qua những bài luyện phức tạp với các khối lập phương đủ màu. Tôi sẽ không bao giờ quên mớ lăng trụ và kim tự tháp chúng tôi lắp ráp trên sàn phòng làm việc của ông.

Chú tôi là kỹ sư. Trước khi nghỉ việc ngành đường sắt, ông quyết định chuyển đến Turdera, nơi đem lại cho ông những lợi thế kết hợp giữa một miền hoang vu ảo diệu đầy cô độc và một vùng phụ cận Buenos Aires. Không gì tự nhiên hơn rằng người bạn thân Alexander Muir là kiến trúc sư cho ngôi nhà của chú. Con người nghiêm khắc đó công khai thừa nhận học thuyết khắt khe của Knox; chú tôi, theo lối của hầu hết các quý ông cùng thời, là người độc lập tư tưởng – hay đúng hơn là người theo thuyết bất khả tri – song cùng lúc ông cũng quan tâm đến thần học, theo cùng cách ông quan tâm đến mấy khối lập phương sai lầm của Hinton và những cơn ác mộng có cơ sở của Wells trẻ tuổi. Chú ấy thích chó; ông có một con chó chăn cừu lớn mà ông gọi là Samuel Johnson, để tưởng nhớ Lichfield, thị trấn hẻo lánh nơi ông chào đời.

Nhà Đỏ toạ lạc trên đồi, phía tây bao bọc bởi vùng đầm lầy.

Những cây thông Norfolk dọc ngoài hàng rào không thể xoa dịu bầu không khí ngột ngạt. Thay vì những mái bằng, nơi người ta có thể hít thở khí trời vào đêm oi nồng, ngôi nhà có một mái nhọn lợp ngói đá phiến và một tháp vuông có gắn đồng hồ; những cấu trúc này dường như đè nặng lên các bức tường và cửa sổ cáu bẩn của ngôi nhà. Khi còn bé, tôi chấp nhận sự thật xấu xí đó như người ta chấp nhận mọi điều trái nết chỉ bởi duy nhất lý do tất cả đều chung đụng trong cái gọi là “vũ trụ”.

Tôi hồi hương năm 1921. Để tránh kiện tụng, ngôi nhà được đem đấu giá; một người ngoại quốc, một người đàn ông tên Max Preetorius, người trả gấp đôi mức giá người trả cao thứ hai đặt ra, đã mua nó. Ký xong chứng từ mua bán, một tối ông ta đến cùng hai phụ tá rồi quẳng mọi đồ đạt, sổ sách, hàng gia dụng trong nhà ra một bãi rác không xa Binh Lộ. (Tôi buồn bã nhớ lại mớ biểu đồ trong tập Hinton cùng quả địa cầu vĩ đại bằng đất nung.) Hôm sau, ông ta đến gặp Muir đề xuất đôi chỗ thay đổi nhất định cho ngôi nhà, nhưng Muir phẫn nộ cự tuyệt thi hành. Rồi thì một công ty ở Buenos Aires đảm nhận việc này.

Cánh thợ mộc trong làng khước từ sơn sửa lại ngôi nhà; cuối cùng một Mariani nào đó từ Glew chấp nhận các điều kiện Preetorius đưa ra. Trong nửa mùa trăng, ông ta làm việc về đêm, sau cánh cửa đóng. Và vị chủ mới chuyển đến Nhà Đỏ cũng vào ban đêm. Cửa sổ vĩnh viễn khép kín, song qua bóng tối, có lẽ ai đó phát ra những vệt sáng.

Một buổi sớm khi đang đi dạo, người giao sữa bắt gặp xác con chó chăn cừu, bị chặt đầu và phanh thây.

Mùa đông năm ấy những cây thông Norfolk bị đốn hạ. Không ai gặp lại Preetorius; dường như ông ta xuất ngoại liền sau đó.

Độc giả có thể mường tượng ra những tường trình như thế làm tôi bối rối. Tôi biết mình nổi tiếng vì thói tò mò, thói xấu ấy dẫn lối tôi đến cuộc hôn nhân với một phụ nữ hoàn toàn trái ngược bản thân (chỉ để xem tôi có thể khám phá ra cô ta là ai và thực ra là người thế nào), làm tôi thử thuốc phiện (kết quả không mấy khả quan), thúc đẩy tôi nghiên cứu số vô tỉ, đưa tôi vào câu chuyện phiêu lưu khủng khiếp mà tôi kể ra đây.

Ắt hẳn, tôi quyết định xem xét lại vấn đề kia.

Bước đầu tôi đến gặp Alexander Muir. Tôi nhớ ông người da màu, thẳng đuột, vẻ gầy gò không làm ông yếu ớt; giờ đây năm tháng làm ông khom đi và bộ râu đen tuyền ngả sang màu xám. Ông đón tôi nơi cửa nhà ở Temperley – dễ đoán nhà ông hao hao nhà chú, bởi cả hai đều tuân theo các quy tắc nền tảng của nhà thơ có tài kiêm chủ thầu hạng xoàng William Morris.

Chúng tôi chuyện trò khá cứng nhắc; chẳng phải về mấy chuyện phiếm vặt vãnh như cây kế gai là biểu tượng Scotland. Tuy vậy tôi cảm thấy trà Tích Lan đậm đà cùng dĩa bánh nướng mực thước (mà vị chủ nhà bẻ vụn và phết bơ như thể tôi vẫn còn là một đứa trẻ) thực ra lại là bữa tiệc thanh đạm kiểu đạo Calvin được bày ra cốt chào đón đứa cháu trai người bạn cũ. Tranh luận thần học giữa ông và chú là một ván cờ đằng đẵng, trong đó yêu cầu mỗi kỳ thủ phải cộng hưởng tâm hồn với đối thủ của mình.

Thời gian dần trôi và tôi không thể mang chính bản thân ra nhằm gợi mở đề tài chuyện gẫu. Chúng tôi im lặng trong khiên cưỡng và rồi Muir độc thoại.

“Chàng trai trẻ”, ông nói, “anh không ngại phiền hà tới đây nói với tôi về Edwin hay Hoa Kỳ, xứ sở mà tôi chẳng mấy bận tâm. Điều khiến ban đêm anh mất ngủ là chuyện bán đi Nhà Đỏ, và một kẻ hiếu kỳ đã mua nó. Chà, nó cũng khiến tôi mất ngủ.

Thật lòng mà nói, toàn bộ sự vụ cực kỳ khó chịu, nhưng tôi sẽ nói cho anh những gì tôi biết, dù chẳng nhiều nhặn gì.”

Trong khoảnh khắc, ông từ tốn tiếp lời.

“Trước khi Edwin qua đời, thị trưởng gọi tôi tới văn phòng. Cha xứ ở sẵn trong đó. Họ muốn tôi phác thảo sơ đồ nhà nguyện Công Giáo. Họ sẽ trả hậu cho tôi. Tôi đáp ngay tại chỗ.

Không, tôi nói với họ, tôi là con chiên của Chúa, và tôi không thể phạm tội ghê tởm như dựng nên bệ thờ ngẫu tượng.”

Đến đây ông dừng lại.

“Tất cả chỉ có vậy?”, tôi mạo muội.

“Không. Con lợn Do Thái Preetorius muốn tôi phá hủy công trình của mình, ngôi nhà tôi đã xây nên, và thế vào đó một thứ quái đản. Đúng là có đủ thể loại kinh tởm.”

Ông phát âm những từ này với lực nhấn rất mạnh, sau đó đứng dậy.

Khi tôi rẽ vào góc phố, Daniel Iberra tiến đến chỗ tôi. Chúng tôi biết nhau như cách người trong các thị trấn nhỏ vẫn biết nhau. Gã ta đề nghị chúng tôi cùng nhau quay lưng bách bộ. Tôi không bao giờ giữ bất kỳ bản sơ yếu nào về bất kỳ kẻ khó ưa nào hay về số phận họ, và tôi có thể thấy trước một chuỗi bần tiện ít nhiều bạo lực và ít nhiều những chuyện ngụy tạo bên quầy bar, nhưng tôi chịu thua bản thân và nói mình sẽ đi cùng gã. Trời đã chập tối. Khi gã thấy Nhà Đỏ trên ngọn đồi cách đó vài dãy nhà, Iberra rẽ xuống một con phố khác. Tôi hỏi gã tại sao. Câu trả lời không như tôi mong đợi.

“Tao là cánh tay phải của ông trùm Felipe. Không ai được phép nói tao lùi bước trước bất cứ điều gì. Chắc mày còn nhớ tay Urgoiti từ Merlo đến tận đây lùng tao, và chuyện gì xảy ra với hắn khi tìm thấy tao. Chà, nghe này – vài đêm trước tao từ một vụ lùm xùm lớn trở về. Cách nhà chừng trăm thước, tao thấy thứ gì đó. Tao nổi cả da gà, và nếu tao không nói chuyện với con ả rồi đi dọc con hẻm đó, ắt hẳn tao không phải kể lại chuyện này. Thứ tao đã thấy là…” Gã ta lắc đầu, rồi tức giận chửi bới.

Đêm đó tôi mất ngủ. Hửng sáng, tôi mơ thấy một bản khắc trường phái Piranesi, một bản khắc tôi chưa từng thấy trước đây hoặc đã thấy và đã quên – bản khắc về một loại mê cung. Đó là hí trường bằng đá bao quanh bởi những cây bách, song bờ tường cao hơn ngọn cây. Không có cửa ra vào hay cửa sổ, nhưng xuyên qua nó là những chuỗi vô hạn các gờ dọc đứng hẹp. Tôi đang dùng kính lúp gắng tìm con Nhân Ngưu. Cuối cùng tôi cũng thấy nó. Nó là quái vật trong quái vật; nó ít giống bò đực hơn trâu, còn phần nhân dạng của nó nằm sát mặt đất. Nó dường như đang ngủ, và đang mơ – nhưng mơ về cái gì, hay về ai?

Tối đó tôi ngang qua Nhà Đỏ. Cổng hàng rào bị khoá, vài ba thanh sắt xoắn xuýt xung quanh. Những gì là vườn tược trước kia thì giờ đây trở thành cỏ dại. Bên phải có một rãnh mương cạn, bờ mương bị giẫm nát.

Tôi vẫn còn con bài tẩy trong tay áo, nhưng trì hoãn sử dụng vài ngày, không chỉ vì tôi cảm thấy nó vô dụng đến nhường nào mà còn vì nó sẽ kéo tôi đến điều không thể tránh khỏi, điều tối hậu.

Cuối cùng tôi đến Glew, chẳng hy vọng gì nhiều. Mariani, người thợ mộc, giờ đây sau nhiều năm đã già đi, một người Ý núc ních, hồng hào – một ông bạn rất thân thiện, khiêm nhường. Giây phút nhìn thấy ông, tôi từ bỏ mớ âm mưu đầy hứa hẹn nảy ra mấy ngày trước. Tôi đưa ông danh thiếp, ông đánh vần thành tiếng nom kiểu cách, và pha lẫn chút kính cẩn trong một thoáng khi ông đọc đến từ Tiến Sĩ. Tôi nói với ông rằng mình quan tâm tới những đồ dùng mà ông làm cho chú trong ngôi nhà ở Turdera. Ông già liên tục tiếp chuyện. Tôi không cố phiên lại những chữ (và được phát ngôn rõ ràng) ông dùng, song ông bảo đảm với tôi phương châm của ông là “dù cho có kỳ cục đến đâu, cũng phải thoả mãn nhu cầu khách hàng”, và cho hay ông sống theo lẽ đó. Sau khi lục tung mấy cái hộp, ông đưa tôi xem mớ giấy tờ mà tôi không thể đọc ra, có chữ ký của Preetorius khó lường. (Ắt hẳn ông nghĩ tôi là luật sư.) Giờ phút chia tay, ông tâm sự mọi tiền của trên đời cũng không thuyết phục được ông đặt chân trở lại Turdera, ít nhất là trở lại căn nhà đó. Ông còn cho hay khách hàng luôn đúng, nhưng theo thiển ý của mình, Ngài Preetorius “không đúng cho lắm,” ấy là nếu tôi hiểu ý ông – ông gõ gõ ngón tay lên trán. Rồi, hối hận vì đi quá xa, ông không nói nữa. Tôi sẽ không được nghe thêm bất cứ lời nào từ ông.

Tôi đã thấy trước thất bại này, nhưng thất bại này lại giúp thấy trước chuyện gì đó, và chuyện gì khác nữa khi chúng xảy đến.

Tôi không ngừng tự nói với bản thân rằng thời gian – mạng lưới vô tận của hôm qua, hôm nay, tương lai, mãi mãi, không bao giờ – là bí ẩn thực sự duy nhất. Những suy nghĩ uyên áo như vậy chẳng giúp gì cho tôi; sau khi dành cả buổi tối nghiên cứu Schopenhauer hay Royce tôi vẫn sẽ lang thang, đêm này qua đêm khác, dọc những con đường đất giáp ranh Nhà Đỏ. Đôi khi tôi thấy thứ ánh sáng rất trắng phát ra trên đồi, những lúc khác tôi nghĩ mình nghe thấy tiếng rên rỉ. Chuyện này tiếp diễn cho tới mười chín tháng Giêng.

Đó là một trong những ngày ở Buenos Aires khi người ta không những cảm thấy bị mùa hè lăng mạ và lạm dụng, mà thậm chí còn cảm thấy ô nhục. Khoảng mười một giờ đêm những đám mây bão xổ ra. Đầu tiên là gió nam, rồi sau đó là những màng, sóng, dòng nước. Tôi chạy loạn xạ trong bóng đêm, cố tìm lấy một cái cây nhằm trú ẩn. Trong thứ ánh sáng sắc lảnh loé lên từ một tia chớp, tôi thấy mình cách hàng rào vài bước chân. Tôi không chắc vì sợ hãi hay hy vọng mà tôi thử vượt qua cổng. Thật ngạc nhiên, cổng đã mở. Bị bão thổi quất, tôi di chuyển về phía trong, đất trời như đang thúc ép tôi. Cửa trước khép hờ. Mưa từng cơn tạt vào mặt và tôi bước vào.

Bên trong, sàn nhà được nâng lên, chân tôi giẫm lên từng lùm, từng mảng cỏ. Mùi ngai ngái, ngòn ngọt tràn ngập ngôi nhà. Bên trái hay phải, tôi không chắc lắm, tôi vấp phải một bờ dốc đá. Tôi trườn lên nó. Gần như vô thức, tay tôi cố mò cho ra công tắc đèn.

Phòng ăn và thư viện trong hồi tưởng của tôi giờ đây (bức tường ngăn cách đã bị phá bỏ) là một căn phòng lớn hoang tàn, đồ đạc liểng xiểng vương vãi xung quanh. Tôi không cố mô tả bởi vì bất chấp thứ ánh sáng trắng gay gắt, tôi không chắc thực sự mình có nhìn rõ chúng hay không. Hãy cho tôi giải thích: Muốn thực sự nhìn thấy một sự vật, người ta trước tiên phải hiểu chúng. Ghế bành ám chỉ cơ thể con người, với các khớp và chi; cái kéo, với hành động cắt. Từ một ngọn đèn, hay một chiếc ô tô có thể nói lên điều gì? Kẻ man rợ không thực sự lĩnh hội Kinh Thánh của nhà truyền giáo; người hành khách không nhận thấy cấu trúc con tàu như thủy thủ đoàn. Nếu chúng ta thực sự nhìn thấy vũ trụ, có lẽ ta sẽ hiểu nó.

Không có bất kỳ hình thái vô tri nào mà tôi nhìn thấy tối hôm đó tương ứng với nhân dạng hay bất kỳ cách sử dụng nào có thể hình dung ra được.

Chúng sinh ra nỗi kinh hoàng và sự ghê tởm. Trong một góc tôi thấy có cái thang dựng đứng trên sàn. Các bậc thang rộng bằng sắt, không quá mười bậc, cách đều nhau; cái thang đó, ngụ ý tay và chân, có thể hiểu được, và vì lý do nào đó tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Tôi tắt đèn rồi đợi một chút trong bóng tối. Bốn bề im lặng như tờ, nhưng sự hiện hữu của quá nhiều thứ khó lường làm tôi mất nhuệ khí. Cuối cùng, tôi ra quyết định.

Bàn tay run rẩy của tôi lần nữa vươn tới công tắc đèn trên gác. Cơn ác mộng báo hiệu bằng sự lay động ở tầng dưới và khai nở ở gác trên. Có nhiều vật thể hay vài thứ đan dệt vào nhau. Giờ đây tôi nhớ lại thứ đồ dài, hình chữ U trông như bàn mổ, rất cao, với các lỗ tròn tại mỗi thái cực. Tôi chợt nghĩ đây có thể là cái giường mà chủ nhân ngôi nhà sử dụng, một kẻ có giải phẫu quái đản được vật thể kia chưng hửng tiết lộ, giống như cách thông qua cái bóng ta biết được giải phẫu của động vật hay thánh thần. Từ mấy trang sách Lucan, đọc năm trước rồi lại quên, chữ amphisboena chạm ngõ đầu môi, nó ám chỉ (dù không đầy đủ ý nghĩa) những gì mắt tôi thấy sau đó. Tôi cũng nhớ lại vật thể hình chữ V trong gương lẫn vào những cái bóng bên trên.

Kẻ trú ẩn trong ngôi nhà này phải giống cái gì? Nó phải kiếm tìm thứ gì nơi đây, trên hành tinh này, nơi đối với nó cũng khủng khiếp chẳng kém gì nó đối với chúng ta? Từ những lãnh địa bí mật nào của thiên tượng hay thời gian, từ những buổi hoàng hôn khôn lường cổ xưa và hiện tại nào mà nó đã đến vùng ngoại vi Nam Mỹ này, lại chính xác vào đêm nay?

Tôi cảm thấy mình xâm nhập trái phép vào hỗn mang. Ngoài kia, mưa đã tạnh. Tôi nhìn đồng hồ và kinh ngạc đã gần hai giờ sáng. Tôi để đèn sáng rồi thận trọng quay lại trèo xuống thang. Trèo xuống một khi đã trèo lên được không phải là chuyện bất khả thi – trèo xuống trước khi kẻ trú ẩn đó trở lại. Tôi đoán chừng nó không khoá cửa trước và cổng vào vì nó không biết cách.

Chân tôi chỉ vừa chạm tới bậc áp chót khi tôi nghe có thứ gì đó trườn đến bờ dốc – thứ gì đó nặng nề và chậm chạp và không đơn độc. Lòng hiếu kỳ chiến thắng nỗi sợ, và tôi không thể nhắm mắt lại.

Hết.

3V dịch.

Ảnh đầu bài: Adam Scovell

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trích đăng

Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC

Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.

Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.

Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.

Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.

Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.

Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.

Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.

Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.

Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.

Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.

Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.

Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.

Đọc bài viết

Trích đăng

Lancaster và York: Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

GIỚI THIỆU

Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.

Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.

Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.

Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.

Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.

Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.

Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.

Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?

Alison Weir

Surrey

tháng Hai 1995

Đọc bài viết

Trích đăng

Vào bếp nấu chè trôi nước ngũ sắc đưa ông Táo về trời – Trích “Thơm thảo xôi chè”

Published

on

Vào ngày 23 tháng Chạp hằng năm, ông Công ông Táo sẽ cưỡi cá chép lên Trời để báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng đế tất cả những điều tai nghe mắt thấy ở trần gian cả việc tốt lẫn việc xấu và những gì chưa làm được. Từ đó, Thiên đình sẽ đưa ra thưởng phạt rõ ràng cho từng gia đình. Xuất phát từ tín ngưỡng đó, lễ đưa ông Công ông Táo về trời (hoặc gọi ngắn gọn là đưa ông Táo về trời) luôn được tiến hành trọng thể.

Trong ngày này, các gia đình thường làm lễ tiễn ông Táo về trời bằng cách thả cá chép. Ngoài ra, mọi người cũng làm mâm cỗ cúng để bày tỏ lòng thành kính với Táo Quân. Trong Thơm Thảo Xôi Chè, nghệ nhân bánh dân gian Trần Thị Hiền Minh đã khéo léo chia sẻ công thức nấu chè trôi nước ngũ sắc, một món ăn vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng và rất thích hợp để bày mâm cỗ cúng ông Táo. Cùng Phương Nam Book tìm hiểu cách làm món này nhé!

CHUẨN BỊ NGUYÊN LIỆU
500g bột nếp
100g khoai lang tím
150g bí đỏ
300g khoai lang trắng
Nước cốt lá dứa, nước lá cẩm
400g đậu xanh bóc vỏ
150g đường cát
10g muối
100ml nước cốt dừa
Phần nước cốt dừa:
300ml nước cốt dừa
700ml nước dão dừa
20g bột gạo
20g bột bắp
5g hành lá
800g đường cát (nấu chè)
150g đường cát (nấu nước cốt dừa)
100g mè trắng
3g muối
100g gừng sẻ

THỰC HIỆN

Sơ chế:
• Mè rửa sạch, rang hoặc nướng trong lò nướng nhiệt 150 độ C đến khi vàng thơm.
• Gừng gọt vỏ, rửa sạch, xắt khoanh mỏng.
• Khoai lang, bí đỏ luộc chín, giã nhuyễn, để riêng từng phần. Chia bột thành 5 phần bằng nhau. Mỗi phần nhồi khoai lang và màu tương ứng cho hòa quyện.
• Dùng nước ấm nhồi với bột nếp đã trộn kỹ theo từng màu, nhồi nhanh tay để bột dẻo. Khi bột gần mịn đều, thêm nước từ từ tránh làm nhão bột, rồi để bột nghỉ 30 phút.
• Đậu xanh vo sạch, ngâm nở 2 giờ, vo lại cho hết nước chua rồi nấu chín, giã nhuyễn. Xào đậu xanh với 100ml nước cốt dừa và 100g đường trên lửa vừa, thêm 10g muối vào cho đậu béo bùi, đậm vị hơn. Khi đậu xanh không dính tay thì tắt bếp, cho hành lá cắt nhuyễn vào trộn đều. Vo viên đậu bằng cỡ trái chanh nhỏ.

Gói viên chè:
• Chia đều bột nếp, mỗi viên khoảng 30g, gói nhân đã chuẩn bị sẵn.
• Bắc nồi nước sôi luộc các viên chè. Khi chín viên chè sẽ nổi lên mặt nước, nấu thêm 2 phút cho viên chè chín kỹ rồi vớt ra ngâm vào nước lạnh.

Nấu chè:
• Cho 2 lít nước vào nồi cùng với 600g đường và vài lát gừng, bắc lên bếp nấu sôi.
• Cho các viên chè vào nồi nấu sôi chừng 5 phút để viên chè thấm đường và vị gừng, nhắc xuống.

Nấu nước cốt dừa:
• Cho nước dão dừa, đường cát, bột gạo, bột bắp, muối và vài cọng lá dứa vào nồi khuấy đều rồi mở bếp ở mức lửa nhỏ, nấu đến khi sôi, khuấy đều tay.
• Tiếp theo chế thêm nước cốt dừa, để hỗn hợp sôi lại, tắt bếp liền.

YÊU CẦU THÀNH PHẨM
• Nước đường trong, ngọt thanh, thơm dịu mùi lá dứa.
• Các viên chè dẻo mềm, không bị nứt hay nhão bề mặt.

Khi ăn, múc chè ra chén, chan nước cốt dừa vào, rắc thêm ít mè rang.

Chè trôi nước ngũ sắc không chỉ đẹp mắt mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự đầy đủ, may mắn và sự hòa hợp của năm mới. Khi thưởng thức, bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt thanh của đường, vị béo của nước cốt dừa và độ dẻo dai của vỏ bánh trôi kết hợp hài hòa với nhân đậu xanh thơm ngon.

Thơm Thảo Xôi Chè là món quà dễ thương dành tặng những ai đam mê nấu nướng bởi nó không chỉ đẹp về hình thức mà còn hấp dẫn về nội dung. Ngoài việc hướng dẫn tỉ mỉ các công thức nấu, tác giả còn khéo léo thuật lại cuộc phiêu lưu ẩm thực qua hành trình tìm kiếm các sản vật quý địa phương. Cuốn sách dù đơn sơ, mộc mạc nhưng đã phần nào truyền tải thành công tình yêu nghề của người đầu bếp và trên tất cả là sự tinh tế của nền ẩm thực nước nhà.

Mời bạn tìm mua sách tại đây. Nếu có làm theo các công thức trong sách thì bạn nhớ chia sẻ cho Bookish biết với nha!

Chúc bạn một mùa Tết bình an và sung túc bên gia đình.

Đọc bài viết

Cafe sáng