Phía sau trang sách

Cuộc chiến không dây – Cuộc chiến vô hình

Published

on

Cuộc bầu cử năm 2020 cho thấy sự chia rẽ dường như không thể hàn gắn của một nước Mỹ xáo trộn. Thế nhưng lẩn trong những trận đối đầu trên sóng truyền hình, người ta thấy rằng cả Trump và Biden đều muốn ghi điểm ở một mặt trận, và một trong số đó là thái độ của Mỹ với Trung Quốc. Nói rộng ra hơn, chưa khi nào lưỡng viện thống nhất một cách triệt để hơn thế, khi Trump dự định sẽ tiếp tục “kìm nén” Trung Quốc; còn Biden khi đó hứa sẽ “kềm giữ” sự trỗi dậy của một siêu cường đang lên.

Sự bành trướng của đất nước tỷ dân này không chỉ xuất hiện ở biển Đông với thứ “vật chất tối” không có thật là đường lưỡi bò, mà một cách vô hình, nó cũng trườn khắp toàn cầu trong bộ áo choàng phù thủy mong manh mà ta không thể thấy bằng mắt thường. Trong cuốn 2030 – Những xu hướng lớn sẽ định hình thế giới tương lai, nhà quan sát Mauro F. Guillén cũng cảnh báo thập kỉ sắp tới đây là sự vươn mình của Trung Quốc, cũng như mạng 6G – một khái niệm dường như vẫn còn trong phòng thí nghiệm, nhưng là có thật. Trở về thời điểm hiện tại, Trung Quốc dường như cũng đang “vi hành” trên khắp thế giới thông qua một cuộc chiến – cuộc chiến không dây.

Một lịch sử hùng mạnh

Năm 1980, khi Colin Golder – người sau này sẽ hỗ trợ triển khai mạng truyền thông số cho Trung Quốc đặt chân đến đất nước sau cuộc cách mạng nhân dân 30 năm mà Mao tạo ra, mức sống nơi này thậm chí còn thấp hơn cả Sudan và mọi thứ dường như đều được làm bằng tay. Đó là khi Mao vừa qua đời, Đặng Tiểu Bình lên nắm chính quyền và mọi thứ chỉ mới sơ khởi. Nhà ga hoành tráng nhất lúc đó có thể nói không lớn hơn một quầy bar giản dị ở phương Tây, trong khi người dân thì ủ ê trong những bộ Mao phục rộng thùng thình, được phân phát với số lượng ba bộ một năm.

Thế nhưng không ai tin rằng chỉ vài thập niên sau đó, Trung Quốc đã đứng một phía riêng với Thế giới, đối đầu, kình chống, và… còn gì nữa?

Tác giả Jonathan Pelson – nhà quan sát, người làm việc cho Lucent cũng như Bristish Telecom đã khắc họa một cách chi tiết thứ gì làm nên sức mạnh cho siêu cường ấy. Bằng những bài học của Lão Tử, Mao, Đặng Tiểu Bình… ông đã xây dựng một lịch sử song song giữa hai bến bờ Đông – Tây, giữa thời Bostrom mới câu móc dây đồng để dùng điện thoại trong xe, cho đến khi AT&T phát minh các thiết bị không dây, chiếc Motorola đầu tiên và sự trỗi dậy của Huawei – tập đoàn viễn thông mà bất cứ ai nghe đến cũng phải hoảng sợ.

Jonathan Pelson đã làm rõ những sai lầm của phương Tây, từ đó tạo điều kiện cho vị thế lớn mạnh của Trung Quốc. Rõ ràng là khi phương Tây đang bận đàm phán, sáp nhập, chia rẽ, đút lót cho nhau bằng các sân golf và những vật chất đắt tiền; thì Huawei đã kịp lan rộng sang Ấn. Từ nơi cần những kỹ sư Harvard để dạy cho họ bài học về mạng viễn thông, giờ đây với kỹ thuật “học đảo ngược”: Trung Quốc vươn lên vị thế bá chủ. Như chính cách ví von mà Jonathan nói, “chúng tôi [phương Tây] đưa cho họ nguyên liệu để nấu món ăn kiểu Tây, nhưng không ngờ họ đã dùng luôn cùng bàn ăn với chúng tôi”.

Hẳn nhiên, Huawei xuất hiện và đối đầu không chỉ bởi sai lầm có phần tự tin của phương Tây, mà chính cá tính Trung Quốc cũng đóng một vai trò quan trọng. Trước tiên, họ quy định các doanh nghiệp nước ngoài không được tham gia đấu thầu quá 20% giá trị gói; cùng với tính hoài nghi và luôn luôn theo dõi, Trung Quốc biến chuyển từ một người không biết gì, chuyển sang “học đảo ngược” – từ sản phẩm mà phương Tây bán cho họ, họ tìm ra phương pháp và sáng tạo thành của riêng của mình. Huawei hay Trung Quốc luôn tồn tại ở đó như “cáo canh chuồng gà”, trong khi phương Tây còn đầy tự tin và ảo tưởng vào vị trí của mình.

Tại sao là Huawei?

Từ khoản đầu tư 5000 dollar vào năm 1987, đến nay nó đã trở thành công ty có trị giá hơn cả BMW, Boeing… với con số 120 triệu dollar. Huawei dường như là doanh nghiệp “bí ẩn” nhất trên thế giới, khi hầu như không ai chắc chắn và hiểu rõ được sơ đồ hoạt động của nó. Khi tờ New York Times lên bài về nghi vấn cơ cấu thực chất của nó, mọi thứ đã được tiết lộ dù cho Huawei nỗ lực chối từ. Nhậm Chính Phi – người đứng đầu Huawei chỉ chiếm 1% cổ phần, trong khi 99% còn lại đi vào một “ủy ban công đoàn” ảo, mà nói cách khác, là chảy về phía nhà nước.

Điều này lý giải vì sao lại tồn tại một kiểu đấu thầu “ngược ngạo” chưa từng có tiền lệ, thách thức bất cứ công ty viễn thông nào có thể giành chiến thắng. Theo đó trong các gói thầu nhằm tiến ra thế giới, Huawei giành lấy thị phần bằng cách chịu thua lỗ bằng các chi phí cận biên (thường được hiểu như là phá giá). Công ty giảm biên lợi nhuận đến mức thấp nhất, đập tan chi phí nghiên cứu cũng như phát triển của các bên khác, phá hủy sự cạnh tranh và độc nhất một mình một cõi. Điều đó dễ dàng giải thích cho việc đốt cháy 75 tỉ dollar nhanh chóng, khi không một ai phản đối vì thật sự không có cổ đông nào tồn tại, ngoài nhà nước Trung Quốc.

Hẳn nhiên phương Tây cũng không để yên cho những việc này. Khi chính quyền các nước hạn chế việc sử dụng sản phẩm viễn thông của Trung Quốc ở các nơi đắc địa, bộ sậu của Nhậm Chính Phi liền thông minh đẩy chúng sang những vùng hẻo lánh nông thôn. Nhưng đằng sau đó, những vùng này cũng chính là nơi đặt các cơ quan quan trọng, như các cơ sở quân sự, quốc phòng. Chính quyền Trung Quốc cũng khôn ngoan hơn khi thêm vào các gói thầu những chính sách cộng thêm, như hỗ trợ các khoản vay, các công trình hạ tầng cầu cảng, cao tốc, nước sạch… Và dễ thấy chính các nước nghèo ở châu Phi là đối tượng “màu mỡ” cho ván bài này, và bộ mặt không lâu sau đó đã được vạch trần.

Khi Liên minh châu Phi AU công bố các sự cố về lỗ hổng hệ thống, mạng lưới các micro nghe lén khắp nơi trong hệ thống viễn thông mà Huawei đầu tư và tiến hành lắp đặt, đó cũng là khi công ty viễn thông lớn nhất và thành công nhất của Canada, Nortel biết rằng thông tin của họ đang đi về một máy chủ ở Trung Quốc, và tòa nhà này liền sau đó trở thành trụ sở của một cơ quan Quốc phòng. Bây giờ cuộc chiến thương mại tồn tại ở hai mặt, nó vừa đem lợi về cho Trung Quốc (hiển nhiên trong phần lớn trường hợp), nhưng cũng đồng thời phụ giúp chính quyền độc tài châu Phi giữ vững quyền lợi của mình. Đó là khi Uganda kiểm soát biểu tình qua nền tảng Skype và Whatsapp, đó là khi Ethiopia phải nín nhịn lắp đặt gói thầu vì khoản vỡ nợ… và giờ đây chủ nghĩa đế quốc công nghệ cao đã được thiết lập.

Không dừng ở đó, Huawei còn bổ sung cho mình một đường lối thu hút nhân tài, những người từ phương Tây mà khi bong bóng dotcom vỡ tan, nhiều người khăn gói sang miền đất hứa để rồi sớm sẽ nhận ra việc họ cần làm là bán thông tin đã biết trước. Từ những nhân viên từng làm ở thung lũng Silicon cho đến các nguyên thủ quốc gia, những người đại diện cho lưỡng viện có mối quan hệ và ảnh hưởng nhất định; Huawei thu hút của cựu thủ tướng Anh David Cameron và điều đó làm cho bong bóng bao trùm của thương hiệu này ngày càng bao trùm và lớn mạnh.

Kềm giữ sức mạnh

Thế liệu phương Tây kiểm soát những vấn đề này bằng cách nào? Dể thấy những gì Trump làm đối với Trung Quốc trong nhiệm kì của mình là sự cứng rắn cần thiết cho những gì mà chiếc áo tàng hình đang cố gắng làm. Chính quyền Mỹ có thể không cản được Huawei sản xuất chip, nhưng còn hơn thế, họ đã nghiêm cấm các nhà máy fab – nơi cung cấp thiết bị làm chip cho Huawei, và Mỹ là nơi duy nhất sở hữu các nhà máy này. Canada dẫn độ “công chúa Huawei”, bà Mạnh Vãn Chu do vi phạm chính sách trừng phạt đối với Iraq.

Ở châu Âu, Thụy Điển cấm các công ty viễn thông Trung Quốc tham gia đấu thầu, trong khi Phần Lan giảm thiểu doanh số bán ra của Huawei. Pháp từ chối thiết bị của Huawei, cũng tương tự với Úc, Nhật và New Zealand. Tuy nhiên sự đồng lòng này cũng vấp phải không ít chỉ trích từ phía Trung Quốc, và các nhà lãnh đạo cũng đang hết sức cẩn trọng với bất kì quyết định nào của mình. Cựu thủ tướng Đức Angela Merkel đã tạo nên một cuộc tranh luận vì sự chậm trễ trong việc giới hạn Huawei ở đất nước này, nhưng cũng khó trách bà, khi thị trường tỷ dân đã đe dọa cắt giảm và giải trừ dần dần thương hiệu xe hơi của Đức Volkswagen, và rõ ràng là một thị trường quan trọng của đất nước này.

*

Giờ đây với những chính sách kềm giữ của phương Tây, tương lai của Huawei có thể nói là khá… bất định. Tuy bị bắt chẹt ở lục địa già, thế nhưng dường như ở phần lớn châu Á và châu Phi, đây vẫn là một thị trường tiềm năng của dịch vụ cung cấp mạng viễn thông. Huawei hay Trung Quốc rõ ràng cho thấy tham vọng của mình, mà quan trọng hơn, đã được chuẩn bị sâu xa từ trước chứ không hẳn chỉ trong ngày hiện tại. Cũng như sự kiên định trong các kế hoạch nhảy vọt 5 năm, 10 năm mà ta hay nghe; Cuộc chiến không dây vẫn còn ở đó dưới nhiều hình hài, mà quan ngại hơn là khi khó để phát hiện trong một thời đại số và công nghệ phát triển từng ngày. Một cuốn sách hay, nhiều thông tin và đầy cảnh báo.

Tác giả, nhà quan sát Jonathan Pelson

Hết.

minh.

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng