Phía sau trang sách

Lolita: Giai điệu cổ điển táo tợn, ranh mãnh và đẹp đẽ

“Chưa bao giờ, phải, chưa bao giờ tôi từng đọc một tác phẩm nào khó đọc đến như vậy. “

Published

on

“Chưa bao giờ, phải, chưa bao giờ tôi từng đọc một tác phẩm nào khó đọc đến như vậy. Khó đọc, đó là một từ chuẩn xác, một cuốn tiểu thuyết làm người ta phải chóng mặt với vốn kiến thức về ngôn ngữ, văn hóa, lối sống… ‘khủng’ về mọi mặt của tác giả.”

Thứ nhất, câu chuyện là sự pha trộn của gần hết các thứ tiếng ở Châu Mỹ và Châu Âu, đủ cho thấy khả năng ngoại ngữ siêu phàm của người viết.

Thứ hai, hành văn đứt nối, tưởng chừng ngắt quãng, đôi chỗ làm người đọc hoảng loạn, choáng váng cả về không gian và thời gian, bất ngờ, kịch tính nhưng lại lặng lẽ… thật kì diệu!

Thứ hai, mỗi câu mỗi chữ đề có tới mấy tầng nghĩa, lớp lớp chồng chồng, đọc xong một câu văn, người đọc như lặng đi trong thế giới tưởng tượng của riêng mình, trong tầng nghĩa mà mình hiểu, rồi lại bất ngờ khi lần đọc kế tiếp mình lại hiểu theo một nghĩa khác, rất kích thích, rất mới mẻ.

Thứ tư, mạnh bạo và phóng túng đề cập tới những từ ngữ nhạy cảm nhất, những chi tiết bùng nổ nhất. Lần đầu đọc, tôi phải công nhận vì sao có một thời thiên tiểu thuyết này dấy lên luồng tranh cãi giữa giá trị nghệ thuật hiện thực với sự rẻ mạt của một cuốn truyện khiêu dâm.

Thứ năm, chủ đề đột phá, bước ngoặt trong tư tưởng của một nhà văn. Tình yêu giữa một người đàn ông và một bé gái… có nhiều điều để nói hơn là một tình yêu thông thường. Đã vậy, khi đề cập tới tình yêu ở đây, tác giả gần như đồng nhất nó với thú vui thể xác, rất mạnh dạn, rất quyết liệt, rất phá cách.”

Đó là lời nhận xét của một độc giả sau khi thưởng thức hơn 400 trang của Lolita, kiệt tác của đại văn hào người Nga V. Nabokov.

Có một số ý kiến so sánh tình yêu của Humbert và Lolita với tình yêu Romeo và Juliet, vĩ đại mà chỉ bị sai lầm về tuổi tác. Có ý kiến cho rằng đây là một kiệt tác của một bậc thầy về ngôn ngữ. Và có độc giả không thể hiểu nổi V. Nabokov viết cái gì.

Được xếp vào top 10 tác phẩm gây tranh cãi nhất thế giới, top 100 tác phẩm xuất sắc nhất mọi thời đại, kiệt tác của văn chương thế kỉ XX, Lolita, cái tên không chỉ của một cuốn sách, một bộ phim mà đã đi vào tâm trí những ai yêu thích tác phẩm này như một tính từ riêng, một dấu ấn không thể nào quên. Một cuốn sách mà từ lúc khởi thủy, cho đến nay đã đi qua bao nhiêu sóng gió và vẫn luôn giữ được sức hút riêng của nó. Lolita đã từng được coi là một cuốn dâm thư và bị từ chối phũ phàng ở Mỹ, một quốc gia dường như luôn chấp nhận mọi tồn tại nghịch lý nhất của cả đời thường lẫn nghệ thuật, mặc dù V. Nabokov đã hy sinh thói quen viết tiếng Nga, tiếng mẹ đẻ mà ông nắm vững như lòng bàn tay mình, để chuyển sang viết tiếng Anh phục vụ độc giả.

Chính V. Nabokov cũng đau lòng một cách hài hước mà rằng: Có biên tập viên thông minh về các mặt khác, nhưng trong trường hợp này, mới đọc lướt phần đầu đã nhận định Lolita là “châu Âu già hủ hóa châu Mỹ trẻ”, trong khi một tay đọc lướt khác lại thấy trong đó hình ảnh của “châu Mỹ trẻ hủ hóa châu Âu già”.

Nabokov cũng than phiền rằng có ông chủ NXB thấy tiếc vì trong cả cuốn sách không có người tốt nào cả. Một ông chủ NXB khác nói, nếu ông in Lolita thì cả ông và Nabokov sẽ đi tù. Thậm chí “có những tâm hồn đôn hậu tuyên bố rằng Lolita chẳng mang ý nghĩa gì hết vì nó không dạy được họ điều gì” khi mà Lolita chỉ là câu chuyện đáng xấu hổ về một gã tâm thần và một cô bé dậy thì sớm lẳng lơ.

Sau đó cuốn sách đã được in lần đầu tiên ở Paris. Những người chấp nhận Lolita gọi đó là một cuốn sách khiêu dâm kết hợp với cách dạy dỗ hành vi ứng xử. Nhà văn Martin Amis còn cho rằng Lolita chính là biểu tượng của chủ nghĩa cực quyền đã phá hỏng nước Nga trong ánh mắt tuổi thơ của Nabokov.

Còn với Nabokov trong toàn bộ các cuốn sách của ông thì Lolita là tác phẩm tinh khiết nhất, trừu tượng nhất và được ông tính toán cẩn thận nhất. “Lolita là một tác phẩm được tôi đặc biệt ưng. Đó là tác phẩm khó khăn nhất của tôi, nó xử lý một chủ đề quá xa, quá tách biệt với đời sống xúc cảm của tôi, bởi vậy nó cho tôi niềm vui được vận dụng kết hợp nhiều tài năng của mình để làm cho câu chuyện không trở thành giả tạo.”

“Lolita, ánh sáng của đời tôi, ngọn lửa nơi hạ bộ của tôi. Tội lỗi của tôi, tâm hồn của tôi. Lo-lee-ta: đầu lưỡi lướt xuống ba bước nhỏ dọc vòm miệng, khẽ đập vào răng ba tiếng. Lo. Li. Ta.

Buổi sáng, em là Lo, ngắn gọn là Lo thôi, đứng thẳng cao một mét bốn mươi sáu, chân đi độc một chiếc tất. Mặc quần thụng trong nhà, em là Lola. Ở trường học, em là Dolly. Trên dòng kẻ bằng những dấu chấm, em là Dolores. Nhưng trong vòng tay tôi, bao giờ em cũng là Lolita.”

Nếu tóm tắt cột truyện Lolita ta có thể diễn giải mấy dòng sau:

Một tiến sĩ văn học người gốc Âu yêu si mê khốn khổ một em bé gái Mỹ mười hai tuổi đến nỗi buộc phải kết hôn với mẹ cô bé, người mà ông ta không yêu, chỉ để hàng ngày được gần gũi với người thương. Sau khi mẹ cô bé chết trong một tai nạn, tiến sĩ cùng con gái vợ chu du khắp nước Mỹ.

Rồi cuối cùng, vì lòng ghen tuông, vì nỗi đau đớn bởi sự mất mát tình yêu, ông ta trở thành kẻ giết người và đây chính là tập hồi ký của Humbert, một kẻ tâm thần.

Nếu chỉ đơn giản thế, ta có thể xếp Lolita vào danh sách dài những câu chuyện loạn luân rẻ mạt nhan nhản hàng ngày.

Nhưng Lolita hơn thế rất nhiều!

journal-book-cover-design-3-new-jpeg

Đó là sự tinh vi dò xét tâm lý con người; đó còn là những nước cờ ngôn từ kiệt xuất của một trong những thiên tài văn chương lớn nhất.

Humbert, nhân vật chính của truyện, hơn Lolita 21 tuổi. Humbert đã bảo vệ luận án tiến sĩ, các bài báo khoa học vẫn thường xuyên được đăng tải, được các trường đại học mời giảng dạy, có mối quan hệ tốt đẹp với tất cả những người xung quanh, được đánh giá là một người nhã nhặn, lịch thiệp và nhân cách tốt, được phụ nữ mê như điếu đổ với bề ngoài điển trai. Tóm lại mọi hành vi và tác phong của Humbert hoàn toàn bình thường, đến nỗi cả hai người vợ và bạn bè anh ta đều chẳng hay biết  anh ta một kẻ tâm thần mắc bệnh ham muốn tình dục với trẻ con, hay còn gọi là bệnh ái nhi.

Gã Humbert một phần cứ phải che giấu con người thật để chứng tỏ mình là một người đàn ông bình thường, một người văn minh khiến ngay cả khi gã chưa bị bỏ tù thì cũng giống như đang sống trong một cái nhà tù vô hình với một tưởng tượng vô hình về cái “cù lao thời gian thần tiên vô hình”.

Phần nữa, gã luôn phải đè nén và che giấu cái ham muốn tội lỗi của mình, cái ham muốn mà càng cố gắng đè bẹp, nó càng khiến cho gã phát cuồng lên, đặc biệt là khi Humbert sống kề sát Lolita, bị cô bé kích động hàng ngày, mà luôn phải giả bộ là một người cha dượng thân ái và lịch thiệp. Humbert yêu thương và tôn thờ Lolita như với cách mà anh ta gọi các em bé gái: Tiểu nữ thần. Tình yêu đơn phương của H.H cũng có đầy đủ các cung bậc của một thứ tình yêu tột đỉnh. Sau sự phản bội của Lolita, gã cha dượng H.H nổi lòng ghen tuông và “Lo ngước mắt lên với một nụ cười nửa miệng ngỡ ngàng và chẳng nói chẳng rằng, tôi bạt một cái tát tai trời giáng trúng cái chỏm nhỏ, cứng và nóng của gò má em…”

Và tiếp đến là hối hận, là nức nở chuộc tội êm dịu đến thắt lòng, là quỳ gối yêu đương, là làm lành trong mê cuồng xác thịt đến tuyệt vọng. “Trong đêm nhung lụa ở motel Mirana, tôi hôn lòng bàn chân hoe hoe vàng với những ngón dài của em, tôi đốt cháy mình…” Humbert vừa là chủ nô, vừa là nô lệ của Lolita, và toàn bộ câu chuyện toát lên rất rõ hai khía cạnh mâu thuẫn đầy ám ảnh này.

Lolita tên thật là Dolores Haze, là một cô bé tính khí thất thường, vừa ngây thơ, vừa dày dạn. Có thể người đàn bà trong cơ thể cô phát triển quá sớm, với những khao khát về tình dục quá sớm trong khi trí não cô cũng không trưởng thành hơn tuổi mười hai là mấy, mọi hành vi của Lolita chỉ là sự tò mò của một bé gái dậy thì.

Trong suốt cuộc hành trình chạy trốn rong ruổi suốt nước Mỹ, cô vừa có những cuộc truy hoan cùng người đàn ông đáng tuổi bố mình, vừa thèm thuồng những trò chơi tinh nghịch mà lứa tuổi “tiểu nữ thần” như cô ưa thích. Và cũng đúng như tính cách của một đứa trẻ, cô nhanh chóng chán “cái thế giới Humberland màu nâu sậm và đen kịt”. Cô chạy trốn, cô chối bỏ bởi trước mắt cô là một tương lai mịt mù bởi một thứ tình yêu nô lệ tước đoạt cả tuổi thơ, tước đoạt tự do, tước đoạt một cuộc sống bình thường.

Lolita đáng thương hơn là đáng trách bởi cô chỉ là cô bé không cha không mẹ, không bạn bè và không người chia sẻ sống trong một môi trường bất bình thường, với một kẻ bất bình thường nuôi dưỡng một thứ tình yêu bất bình thường.

Không thể phủ nhận Lolita là một tiểu thuyết khó đọc, có thể ở những trang đầu độc giả có thể sẽ bị choáng vì nó khó nhằn, cảm thấy ghét Humbert và cả Lolita nhưng nếu chịu khó theo dõi tiếp thì sẽ cảm thấy vô cùng thú vị với lối chơi chữ cũng như diễn biến của câu chuyện. Cuộc hành trình của hai con người ấy sẽ khiến người đọc cảm thấy buồn bã, thương cho số phận của những nhân vật, đồng cảm, tìm ra sự yêu thương nhiều hơn là căm phẫn. Và cuối cùng là sự vỡ òa khi Humbert đã xóa bỏ nguyên tắc mang mã gene độc nhất vô nhị của mình, xóa bỏ tư duy mỹ cảm của một người đàn ông, xóa bỏ lòng kiêu hãnh của một nam nhân khi nhìn cái bụng to phình của người thương đang mang đứa con của kẻ khác.

“Tôi khẩn thiết muốn thế giới biết tôi yêu xiết bao Lolita của tôi, chính Lolita này, trắng bệch và ô nhiễm, với đứa con của một kẻ khác trong bụng, nhưng vẫn còn nguyên cặp mắt xám với rèm mi đen nhánh như bồ hóng, mái tóc vẫn nguyên màu hạnh đào nâu đỏ, vẫn là Carmencita, vẫn là của tôi. Ngay cả như vậy, chỉ cần trông thấy bộ mặt thân yêu tái nhợt của em, chỉ cần nghe âm thanh cái giọng trẻ khản đặc của em, lòng tôi đã ngập tràn thương mến đến phát điên rồi, ơi Lolita của tôi.”

Chỉ đến khi Lolita bỏ trốn, chỉ đến khi gã lặn lội đi tìm bằng được cô, chỉ đến khi gã bị cô kiên quyết từ chối, cảm xúc, sự hy sinh, sự tuyệt vọng của gã mới làm người xem rung động và xót xa. Rồi đến khi gã đi tìm gặp người mà Lolita yêu say đắm và cũng là người làm tan nát trái tim cô để trả thù, bạn đọc lại có cảm giác tình cảm của Humbert với Lolita mang hơi hướng của tình cảm cha-con.

Cuối cùng, khi gã người tình chết, Humbert vào tù và viết ra Lolita như một bản tự thú, một lần nữa Nabokov đã dùng tình yêu mãnh liệt của mình để làm cho Lolita trở thành bất tử. Tượng đài Lolita đã nói lên khát vọng tình yêu đẹp đẽ của Nabokov, một tình yêu đã vượt ra ngoài biên giới của tình dục, ham muốn và bản năng.

Nabokov đã chạm đến tận cùng những kẽ tâm lý trong ngõ thẳm của tâm hồn người, những suy nghĩ sâu kín được tác giả trải dài trên giấy trắng mực đen. Cốt truyện nhiều biến động, nhiều tình tiết ly kỳ, không gian đẹp và ý tưởng chân lý. Lolita chậm rãi và nhẹ nhàng như một giai điệu cổ điển réo rắt để người đọc có thể gặm nhấm từ từ, đọc để cảm thụ khi có thời gian và không gian thoải mái thích hợp.

Hết.

Thu Hiền

*

Có thể bạn đọc sẽ thích


Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng