Trích đăng

Vượt qua các giới hạn của bản thân – Trích “Thuyết phục bằng thấu cảm”

Published

on

Trong cuốn sách này, Lee Carter cho chúng ta thấy có cả một ngành khoa học đằng sau nghệ thuật thuyết phục. Cô ấy đưa ra những minh họa rõ ràng về cách làm thế nào đề đạt được sự thay đổi qua giao tiếp. Tát cả mọi người, từ giám đốc điều hành tới giáo viên phổ thông, từ cha mẹ tới các mục sư, sẽ nhận thấy cuốn sách này cực kì hữu dụng. Tác giả đã chia sẻ những lời khuyên tốt nhất trong cuốn sách này. Nếu bạn muốn trò chuyện để tạo ra sự thay đổi, hãy đọc và áp dụng những điều viết trong nó.

*

CHƯƠNG 1
Vượt qua các giới hạn của bản thân

Có tầm nhìn mà không có hành động chỉ là ảo tưởng. Có hành động mà không có tầm nhìn chỉ phí thời gian. Tầm nhìn đi đôi với hành động mới có thể thay đổi thế giới.
– JOEL BARKER

Đây là cuốn sách về việc giao tiếp hiệu quả. Và chính xác là vậy, tôi sắp hướng dẫn bạn cách thể hiện ý tưởng của mình để biến chúng thành những hiện thực mạnh mẽ, nhưng trước khi đạt tới mức độ đó, tôi muốn chắc chắn rằng những ý tưởng bạn đang cố gắng thực hiện là những ý tưởng đúng đắn. Những ý tưởng tốt nhất. Những ý tưởng tuyệt vời nhất.

Để thuyết phục, đầu tiên bạn cần biết chính xác điều bạn muốn đạt được là gì. Đó phải là điều bạn thực sự muốn đạt được, chứ không phải những gì người khác khiến bạn tin là nó có thực hay dễ đạt được. Cũng không phải những gì người khác muốn dành cho bạn. Chính những điều bạn nguyện thực hiện cho bản thân, cho công ty, cho tổ chức mới là những điều quan trọng nhất.

Khi thảo luận với khách hàng để bắt đầu bất kỳ dự án nào, một trong những điều đầu tiên tôi hỏi là, “Ông/bà hi vọng đạt được điều gì?” Thường thì khách hàng sẽ nói cho tôi những mục tiêu tổng quát, y như trong một kế hoạch kinh doanh vậy. Tôi muốn cụ thể. Tôi muốn biết chính xác thành công trông như thế nào đối với họ. Chúng ta thường hình dung điều mình muốn một cách chung chung, như đa số những người khác, nhưng để thuyết phục được thì không phải chỉ nói mỗi câu, “Tôi muốn trở nên phổ biến hơn’’ là đủ. Bạn muốn phổ biến hơn với ai? “Chúng tôi muốn thị phần lớn hơn.’’ Trong thị trường nào, với sản phẩm nào? “Tôi muốn được thăng chức.” Tới vị trí nào, thu nhập tăng thêm bao nhiêu. “Chúng tôi muốn có thêm nhiều người tham gia phòng chống biến đổi khí hậu.” Cụ thể là làm gì? Làm lúc nào? Việc thuyết phục thành công nằm ở sự cụ thể hóa. Tôi muốn tất cả các chi tiết. Tôi muốn hình dung ra chính xác thành công sẽ trông thế nào.

Trong thế giới truyền thông, việc được hay mất thị phần có thể xảy đến bất cứ lúc nào, nhưng để làm gì nếu điều đó xảy ra với một đối tượng khách hàng không thực sự quan trọng hay không đủ tiền để mua sản phẩm của bạn. Bạn có thể đã đạt được thị phần với một sản phẩm không hiệu quả về chi phí sản xuất. Và ngày nay biết bao người đã thăng tiến với những chức danh mới mà không đi cùng với việc tăng lương. Trên đây chỉ là một vài ví dụ, nhưng tôi muốn bạn hiểu ngay lập tức tại sao việc làm rõ các mục tiêu của bạn lại quan trọng đến vậy. Hãy nhìn xa hơn việc “được thích”.

Cụ thể hóa

Trước hết, bạn cần biết rằng sẽ tốn nhiều thời gian để có thể trả lời những câu hỏi như thế này. Đây không phải là điều chúng ta giải quyết cho một khách hàng trong một khoảng thời gian cụ thể. Nó đòi hỏi suy nghĩ. Nó cần sự phản hồi. Nó cần được cụ thể hóa. Bởi vì nếu không cụ thể hóa, bạn có thể sẽ không biết cần phải làm gì, nhóm của bạn sẽ không biết đang đi về đâu, và bạn sẽ không nhận diện được sự thành công khi nó xuất hiện. Không có những điều cụ thể, có khả năng bạn sẽ thất bại.

Khi ngồi với nhau lúc vừa rời trường đại học, cậu bạn Glenn đã hỏi tôi về ước mơ cho tương lai. Tôi đã đưa ra câu trả lời nửa vời kiểu, “Uhm, cậu biết đấy, kiếm một công việc tớ thích. Một ông chồng tớ yêu. Và hi vọng có một gia đình.” Cậu ta nhíu mày nhìn tôi, nhấp một ngụm rồi nói, “Lee à, đó có phải là ước mơ đâu. Một ước mơ phải cụ thể. Một ước mơ phải hình dung được. Khi tớ hỏi ước mơ của cậu là gì, tớ muốn cậu có thể vẽ ra một bức tranh chính xác những gì cậu muốn.” Tôi thở dài, nhìn xuống ly của mình và nghĩ, Người ơi, thật đáng sợ. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi hình dung cụ thể rồi tôi không thực hiện được? Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi nói cho người khác biết và nghe như một đứa ngốc? Tôi đảo mắt và cố thay đổi chủ đề.

Glenn đặt ly của mình xuống, nhìn chằm chằm vào tôi rồi nói, “Tớ nói cho cậu nghe ước mơ của tớ nhé. Vào lúc này mười lăm năm nữa, tớ sẽ ngồi trên chiếc thuyền câu cùng với bạn bè, nghe nhạc của Bob Seger, và cập vào cầu tàu. Gió đang vờn tóc tớ. Tụi tớ đã câu được ba con cá thiệt bự. Vợ với con gái tớ sẽ đứng trên cầu tàu đợi tớ. Đó sẽ là một ngày thứ Bảy tuyệt vời. Và tớ biết, đã biết, rằng tớ đã làm được điều đó.” Cậu ấy nói đầy tự tin và không có chút hài hước nào hết. Các bạn hãy đoán xem bây giờ ai có thể vừa cập cầu tàu vừa nghe bản Những đêm ở Hollywood của Bob Seger? Chính là Glenn đấy.

Trong nhiều năm, tôi đã suy nghĩ rất nhiều về điều này. Cuối cùng, dùng phương pháp tôi sắp chia sẻ với các bạn, tôi đã lập và đạt được những mục tiêu lớn trong sự nghiệp của mình. Tuy nhiên tôi vẫn thường lo lắng khi áp dụng cho đời sống cá nhân. Vào một ngày cuối tuần gần đây, tôi phát hiện ra rằng nhiều người bạn của tôi gặp phải vấn đề ngược lại. Nhưng dù thế nào đi nữa, dù đó là cuộc sống riêng tư hay sự nghiệp, việc đưa ra những mục tiêu như vậy là bước đầu tiên để đạt được những gì bạn muốn.

Vượt qua việc được yêu thích

Gần đây chúng tôi làm việc với một công ty dược hàng đầu. Có lẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên với bạn khi biết rằng từ vòng bầu cử vừa rồi (Sự việc thuốc Daraprim bị tăng giá gấp 5000% diễn ra vào cuối năm 2015 – thời điểm của các vòng bầu cử sơ bộ trước cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2016. ND), các công ty dược đang hứng chịu cuộc khủng hoảng về danh tiếng quanh việc định giá thuốc. Và trong khi có những lý do hợp lý cho việc tăng giá, một vài kẻ xấu trong ngành đã làm cho ngành dược mang hình ảnh của một kẻ tham tàn (cảm ơn Martin Shkreli – CEO của công ty Turing Pharmaceuticals, người đã tăng giá thuốc Daraprim lên 5000%. ND). Khi tiến hành phỏng vấn nhóm, người ta nói với chúng tôi rằng họ coi tất cả các công ty dược là những kẻ tham lam, bán cắt cổ những loại thuốc có giá thành sản xuất chỉ vài xu và trục lợi trên sự bất hạnh của người khác. Và khách hàng của tôi – nhiều người trong số họ đã quyết định làm việc trong ngành dược với niềm tin rằng họ có thể tạo ra những điều lớn lao bằng việc tìm kiếm những phương pháp chữa trị và phát triển những loại thuốc cải thiện sự sống – đã bị choáng bởi những gì họ nghe thấy. Họ đã thực sự nghĩ rằng họ là những người tốt – với mục đích cố gắng chữa bệnh cứu người – trong khi các công ty khác là những kẻ xấu xa. Tất cả những gì họ cần là thể hiện sự khác biệt.

Nhưng nếu thực sự muốn hàn gắn mối quan hệ tích cực với khách hàng, giải pháp không đơn giản với mỗi việc chỉ ra ai là người tốt, ai là kẻ xấu. Chúng tôi phải tìm cách kể lại câu chuyện của sự sáng tạo và các phương pháp chữa trị của công ty có thể giúp khách hàng thấy được những điều mà nội bộ công ty xem là bình thường. Để thành công, ban quản trị không thể chỉ nói, “Chúng tôi muốn được nhìn nhận một cách tốt đẹp hơn.” Họ cần biết chính xác họ muốn được nhìn nhận như thế nào – hình ảnh của họ nên ra sao. Vì vậy, chúng tôi đã làm việc với họ để cố gắng hiểu được điều gì thực sự tạo ra sự thay đổi. Để làm được điều đó, chúng tôi đi tới một câu hỏi khác. Tại sao người Mỹ lại không tin các công ty dược đến vậy? Sau khi tiến hành nghiên cứu, câu trả lời hóa ra đơn giản một cách đáng ngạc nhiên. Người ta không hề biết các công ty dược thực sự làm gì. Người ta chỉ nghĩ những gì họ nghĩ.

Các dữ liệu của chúng tôi cho thấy người tiêu dùng nghĩ các công ty dược sản xuất thuốc và bán với lợi nhuận cao. Họ không tính tới những thử nghiệm lâm sàng hay các nghiên cứu. Họ không để ý tới sự góp sức của các nhà khoa học, không quan tâm tới bất cứ thứ gì khiến giá thuốc lên cao. Bởi vì trong nền văn hóa của chúng ta, các tổ chức từ thiện, các cơ sở giảng dạy đã giành mất phần thưởng từ những nỗ lực tìm kiếm các phương pháp chữa bệnh của ngành dược. Bạn sẽ làm gì khi người thân của bạn bị ung thư hay mắc bất kỳ căn bệnh nào? Có vẻ sẽ là thế này: Tới chỗ người gây quỹ. Đi bộ, chạy bộ, hay đạp xe để chữa bệnh. Đóng góp cho một quỹ từ thiện. Điều cuối cùng bạn nghĩ là Tôi nên gửi một lá thư cho các CEO của Pfizer, Merck, và Novartis để xem họ có loại thuốc gì trong danh mục của họ. Vấn đề nằm ở đấy.

Để xoay chuyển tình hình, chúng tôi cần thuyết phục những người tiêu dùng đã bị tác động rằng các công ty dược không chỉ là các nhà sản xuất thuốc. Rằng từng ngày, họ đang nỗ lực tìm kiếm các phương pháp điều trị – cho những bệnh phức tạp nhất cũng như những bệnh thông thường.

Vì thế, vấn đề không nằm ở việc được thích. Được thích sẽ dẫn chúng ta tới ranh giới của sự không hiệu quả. Chính việc thuyết phục người tiêu dùng hiểu mục đích của ngành dược sẽ hữu ích. Đó là một trường hợp có thể giải quyết được với những công cụ mà tôi sẽ cung cấp cho các bạn trong phần III và IV. Tiến hành một chiến dịch nhấn mạnh việc nghiên cứu và phát triển để gia tăng doanh số, cải thiện thị phần và có thêm ngân quỹ cho việc phát triển các loại dược phẩm mới để giúp mọi người, đó là toàn bộ những gì ngành dược đã làm cũng là toàn bộ những gì cần làm.

Nghĩ nhiều hơn những gì có sẵn

Khi còn bé, tôi luôn thích chơi trò buôn bán. Trong khi các bé gái khác biến khăn phủ bàn thành một ngôi nhà, tôi biến nó thành một cửa hàng kem, một trạm bưu điện hay ngân hàng. Tôi không quan tâm buôn bán gì; điều tôi thích là cung cấp một dịch vụ tưởng tượng, kiếm được tiền – dĩ nhiên là giả vờ thôi – từ lũ bạn và bỏ vào heo đất của tôi.

Nhưng vào năm 2005, tôi bước vào tuổi 30 và không cảm thấy hạnh phúc trong ngành bảo hiểm nữa. Dường như chẳng có gì về công việc hay nơi sống phù hợp với bản thân tôi, dù mọi người xung quanh đều nói tôi đã thành đạt. Tôi là đứa con gái đầu tiên trong gia đình vào đại học và tập trung vào việc tạo dựng sự nghiệp.

Nhưng cuộc đời tôi là kết quả chính xác của cái ước mơ mờ nhạt mà bạn tôi đã cảnh báo. Tôi đã muốn có một công việc. Và tôi đã có – trong một ngành mà tôi không đam mê. Tôi đã muốn được độc lập. Tôi nghĩ thực ra là độc lập về tài chính, nhưng vì không cụ thể hóa nên tôi vẫn đang sống một mình.

Và tôi chưa bao giờ dành thời gian để hình dung rõ ràng một cuộc đời bao gồm mọi thứ tôi muốn – một công việc khiến tôi say mê, một mối quan hệ tình cảm sẽ hỗ trợ những ước vọng của tôi, một cách nào đó để có thể vừa làm mẹ vừa làm việc tốt – tôi thực sự ở trong tình trạng mà tôi đã lo ngại suốt nhiều năm trước khi vào đại học: không cảm thấy trọn vẹn.

Tôi biết mình muốn nhiều hơn. Nhưng câu trả lời không nằm ngay trước mắt. Đó không phải là một lựa chọn sẵn có cho tôi trong tình trạng này. Đó cũng không phải là việc được thăng chức hay nhảy sang một công ty bảo hiểm khác, hay thành công hơn với công việc lúc ấy, và tiếp tục việc đang làm.

Sự thay đổi sắp thành hình. Tôi sắp phải bước ra khỏi nơi quen thuộc và suy nghĩ về điều gì đó chưa rõ ràng cho bản thân.

Vì thế tôi bình tâm lại và tự vấn bản thân, Mình yêu thích cái gì nhỉ? Mình muốn gì nữa trong cuộc đời này? Mình đam mê gì?

Đây cũng là câu hỏi mà tôi thường hỏi khách hàng. Bởi vì bạn yêu thích điều gì thì bạn nên làm nó nhiều hơn. Điều này có vẻ rõ ràng và cũng đúng trong kinh doanh. Hãy suy nghĩ về những công ty với nhiều mảng kinh doanh và nguồn thu khác nhau. Vào cuối năm 2018, Citigroup đã bán bộ phận cầm cố cho Cenlar vì họ nhận ra rằng việc kinh doanh đa ngành, vốn phổ biến trong thập niên 90 thế kỉ 20 và đầu thế kỷ 21, đã làm loãng sự tập trung của tập đoàn và dẫn tới sự giảm sút về lợi nhuận. Họ quay về với việc họ giỏi nhất – ngân hàng thương mại – quyết định tập trung vào đấy và cố gắng giành lấy miếng bánh to hơn.

Nếu bạn muốn điều gì đó vì nó thực sự khiến bạn hứng khởi, bạn sẽ trở nên thuyết phục hơn vì bạn sắp dành đam mê và công sức cho nó. Điều này cũng giống như việc bạn cố thuyết phục ban quản lý cộng đồng khởi động dự án trồng cây xanh hay như việc các khách hàng của tôi chuẩn bị tung ra thị trường một sản phẩm tiêu dùng mới. Sự hứng khởi – tình yêu – là thứ dễ lan truyền.

Các câu trả lời của tôi là:

  1. Tôi yêu thích con chữ và ngôn ngữ.
  2. Tôi yêu thích chính trị.
  3. Tôi muốn giúp những người đối lập hiểu nhau hơn.

Điều này xảy ra vào năm 2005, ngay sau khi George W. Bush trúng cử nhiệm kì thứ hai, và tiếp theo là cú sốc của vụ 9/11, đất nước của chúng tôi một lần nữa bị chia rẽ. Là người đi đi về về giữa vùng ngoại ô New Jersey và thành phố New York, tôi cảm nhận rất rõ mình ở trung tâm của sự chia rẽ đó. Người thành phố có quan điểm chính trị khác hẳn so với quan điểm của gia đình và bạn bè tôi ở vùng ngoại ô. Tôi di chuyển giữa hai cộng đồng với những người mà tôi yêu quý và tôn trọng nhưng họ lại không thể tìm được tiếng nói chung.

Và bấy giờ tôi có ba trụ cột dẫn lối: ngôn ngữ, chính trị và sự thấu cảm. Tuy nhiên chúng chẳng dẫn tôi tới một nghề nghiệp cụ thể nào mà tôi đã biết cả.

Rồi tôi nghĩ về lời khuyên của Glenn và quyết định không làm theo cách cũ của mình nữa. Tôi sẽ không thay đổi đam mê cho phù hợp với thứ gì đó tôi đã biết, thứ gì đó có vẻ “ổn”. Tôi quyết tâm theo đuổi một tầm nhìn cụ thể: Tôi muốn một công việc có liên quan tới ngôn ngữ, chính trị và giao tiếp hợp tác, dù chưa hình dung được đó là việc gì.

Tầm nhìn soi sáng hành động

Một khi đã có quyết tâm rõ ràng, tầm nhìn sẽ định hướng cho những lựa chọn. Vì nơi tôi sống không có gì phù hợp với các lựa chọn đó, tôi biết mình sẽ phải mở rộng chân trời. Tôi tự đăng ký tham gia các khóa học, đi nghe các bài giảng và tham gia các sự kiện giúp tạo dựng quan hệ. Tôi mua thêm sách. Tôi yêu cầu sự giúp đỡ từ bạn bè trên khắp cả nước. Tại bất kỳ khúc ngoặt nào, khi băn khoăn có nên đăng ký tiếp một khóa học hay gửi một email mới không, tôi chỉ tự hỏi mình, Liệu hành động này có đưa mình đến gần hơn với những gì mình hình dung không? Nếu câu trả lời là có, tôi nhấn nút Send.

Vài tháng sau, tôi thấy mình đăng ký một hội nghị ở Charleston, Nam Carolina. Người ta gọi nó là Ngày cuối tuần Phục hưng, nơi tập hợp những bộ óc vĩ đại trong kinh doanh, chính trị và nghệ thuật. Những người tham gia đều phải thuyết trình và phát biểu. Các ứng viên của giải Nobel. Những người đã đoạt giải Pulitzer. Các nhà biên kịch với tượng vàng Oscar. Các nghị sĩ quốc hội. Và cả một thẩm phán tòa án tối cao. Tôi đã đi quá xa so với khả năng của mình. Đến từ một nơi nhỏ xíu ở New Jersey, Lee Carter có điểm gì chung với một phi hành gia nhỉ? Tôi có gì để trò chuyện với một cựu tổng thống đây? Sự bất an bắt đầu tấn công – cho tới khi tôi nghe một người đàn ông phát biểu. Ông ấy là Frank Luntz, và khi ông nói về tầm quan trọng của ngôn ngữ, thông điệp, và câu chuyện của cuộc bầu cử năm 2004, tôi hoàn toàn bị mê hoặc. Ông ấy là một trong những người sáng lập hãng maslansky + partners, và tôi biết – biết ngay – rằng tôi đã tìm thấy công việc tiếp theo của mình.

Nhưng tôi chẳng có kinh nghiệm gì trong lĩnh vực này cả. Tôi không có bằng cấp phù hợp. Và tôi còn đang sống ở New York chứ không phải ở Washington.

Trong chương sau tôi sẽ chia sẻ cách tôi thuyết phục họ phỏng vấn mình. Nhưng vấn đề ở đây là nếu không có tầm nhìn cụ thể, tôi đã không thực hiện những hành động dẫn lối tôi tới hội nghị đó cũng như không thể nhận ra cơ hội đến với mình.

Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi không suy nghĩ vượt qua phạm vi của những lựa chọn có sẵn? Tôi vẫn sẽ ngồi ở văn phòng nhận lương, làm điều gì đó mà mình căm ghét, như rất nhiều người khác. Tôi sẽ không bao giờ được tháp tùng thượng nghị sĩ Barack Obama tới Iowa và New Hampshire. Tôi sẽ không bao giờ được tham gia vào cuộc hành trình của Tổng thống Donald Trump từ một doanh nhân trở thành Tổng thống Mỹ. Và tôi sẽ không bao giờ được thấy chính mình trên sóng truyền hình mỗi tuần, bên cạnh một trong những thần tượng trong nghề của tôi, Maria Bartiromo.

Ba lợi ích của tầm nhìn

Vào năm 2007, có một khách hàng muốn chúng tôi tìm giúp một thông điệp về sự cho đi. Khi tôi hỏi mục tiêu là gì, ông nói rất đơn giản “Cứu thế giới”. Mục tiêu đáng kinh ngạc và nhân văn của ông ấy là làm sao để tất cả mọi người trên thế giới sẽ cho đi một cái gì đó. Chúng tôi rất xúc động và muốn chắc chắn dự định này được diễn dịch thành một điều gì đó rõ ràng, có thể thực hiện được và có ảnh hưởng lên người khác. Rõ ràng là mục tiêu này quá rộng để có thể thúc đẩy người khác hành động. Cho đi cái gì? Cho ai? Tại sao phải cho đi? Sự thuyết phục không chỉ có mỗi ngôn ngữ và thông điệp; chiến lược cũng không kém phần quan trọng. Khách hàng của chúng tôi biết rằng khi cố gắng thuyết phục mọi người làm quá nhiều, bạn sẽ làm tê liệt họ, hoặc tệ hơn nữa họ sẽ hoàn toàn ngó lơ bạn. Ông muốn có sự giúp đỡ của chúng tôi – không chỉ tìm ngôn ngữ để thể hiện mà còn làm cho tầm nhìn ấy trở nên cụ thể. Dưới đây là ba lợi ích của việc làm rõ tầm nhìn của bạn.

Lợi ích 1. Sự tập trung

Một tầm nhìn cụ thể sẽ giúp bạn biết nên dành ưu tiên vào đâu. Bạn chỉ có chừng đó năng lượng tinh thần và thời gian trong một ngày, và cũng chỉ có chừng đó tài nguyên mà thôi. Nếu không nắm rõ điều đang cố gắng thực hiện, bạn sẽ lãng phí thời gian vào những việc không giúp mình tiến lên. Bạn có thể tự vấn, Lựa chọn này có làm tôi tới gần hơn với mục tiêu hay không? Nếu không, lựa chọn đó có thể phản tác dụng.

Ví dụ, nếu mục tiêu của bạn là xoay chuyển tình hình chính trị, có phải bạn đang dành thời gian để nói chuyện với cử tri, gặp gỡ các ứng viên tiềm năng và các tình nguyện viên không? Nếu bạn định mở một nhà hàng, nhưng lại không dành thời gian để khảo sát vị trí, gặp gỡ các nhà đầu tư hoặc nghiên cứu thói quen ăn uống trong khu vực bạn muốn mở thì mục tiêu của bạn sẽ khó trở thành hiện thực. Một khi để mục tiêu quyết định sự tập trung, việc dành thời gian và năng lượng cho công việc sẽ trở nên dễ dàng hơn.

Điều này đặc biệt đúng với các công ty. Một khi đã lập Kế hoạch Thuyết phục cho khách hàng, chúng tôi luôn phải đảm bảo các công ty đã phân bổ đủ nguồn lực để thực thi toàn bộ kế hoạch. Sẽ là vô nghĩa để một công ty tuyên bố rằng, “Chúng tôi cam kết minh bạch hơn nữa trong quy trình cho vay của chúng tôi” nếu đội ngũ pháp lý của họ không thảo trước các tài liệu và có quy trình huấn luyện cần thiết cho nhân viên.

Hãy quay lại với khách hàng của tôi, người muốn cứu thế giới. Đấy là một mục tiêu vĩ đại, nhưng chúng tôi cần ông ấy tập trung. Chúng tôi đã thảo luận về tác động có thể có đối với ba nhóm đối tượng mà ông có thể nhắm đến để truyền cảm hứng thiện nguyện này: một là những người giàu nhất trong giới nhà giàu, hai là những tập đoàn và ba là những cá nhân như bạn và tôi. Sau khi trải qua bài tập này, ông ấy nhận ra rằng mình có thể tạo tác động lớn nhất đến tương lai bắt đầu với giới trẻ vào thời điểm họ đang cân nhắc xem họ muốn làm gì trong phần đời tiếp theo. Cuối cùng, ông tập trung vào thông tin cho thấy nếu sớm lôi cuốn được giới sinh viên tham gia các hoạt động thiện nguyện, hầu như họ sẽ trở nên vị tha suốt phần đời còn lại của mình.

Chúng tôi đã thấy kết quả từ những nỗ lực của ông – nhiều người trẻ muốn làm việc tại các tổ chức phi chính phủ (NGO) hơn tại các ngân hàng đầu tư. Chúng tôi nhận thấy các trường đại học tham gia vào hoạt động tình nguyện và gây quỹ nhiều hơn bao giờ hết. Tất cả điều này có thể xảy ra vì khách hàng của chúng tôi đã có thể dành năng lượng của ông ấy cho một mục tiêu vĩ đại – táo bạo – nhưng rất tập trung.

Lợi ích 2. Lôi kéo người khác cùng tham gia

Lợi ích thứ hai của một mục tiêu cụ thể là có thể thúc đẩy người khác cùng góp phần biến nó thành hiện thực. Các nhà lãnh đạo giỏi luôn làm điều này. Nhưng nó cũng đúng cho chính gia đình cũng như trong công việc của bạn.

Ví dụ như mục tiêu của bạn là làm cho gia đình có nhiều thời gian bên nhau hơn. Nếu bạn chỉ nói, “Ba/mẹ muốn có nhiều bữa ăn gia đình hơn”, mọi người sẽ mỉm cười, gật đầu, và có thể đồng ý với bạn, nhưng bạn vẫn chưa truyền đạt được mục tiêu cụ thể mà tất cả các thành viên có thể chung tay biến thành hiện thực.

Thay vào đó, nếu bạn nói, “Này cả nhà, ba/mẹ vừa đọc được là nếu con cái ăn tối cùng gia đình ít nhất ba lần một tuần, chúng sẽ học tốt hơn nhiều và sau này thành công hơn. Ba mẹ cũng muốn các con được như vậy. Thế nên vào thứ Ba, thứ Năm và Chủ nhật cả nhà sẽ ăn tối cùng nhau nhé.” Đó là một mục tiêu cụ thể mà mọi người có thể chung tay thực hiện với bạn. Nếu không thể lôi kéo mọi người lên thuyền với mình, thì dù mục tiêu ấy tốt đẹp đến đâu, bạn cũng sẽ không tới đích được. Hầu hết các mục tiêu, đặc biệt trong kinh doanh, cần có sự hợp tác để thành công.

Không ở đâu mà điều này quan trọng hơn như trong công việc của tôi, với tư cách là chủ tịch của maslansky + partners.

Vào cuối những năm 2000, tôi nhận ra rằng để tiếp tục phát triển, chúng tôi cần giải quyết một vấn đề chiến lược quan trọng. Trong nội bộ, chúng tôi đang luẩn quẩn giữa các câu hỏi: Chúng tôi là một công ty ngôn ngữ, một công ty truyền thông hay một công ty nghiên cứu? Kết quả là hoạt động tiếp thị bị rối vì chúng tôi chưa bao giờ thống nhất được cần thúc đẩy mặt nào trong các dịch vụ của mình. Tôi và các đối tác biết rằng mình đã đưa ra được giải pháp cho các khó khăn của nhiều khách hàng, nhưng chính chúng tôi lại có cảm giác không chung chiến tuyến. Đội của tôi muốn tiếp tục theo đuổi hoạt động nghiên cứu và tập trung vào những công việc chủ đạo từng giải quyết trước đây. Nhưng đối tác lại nhìn thấy các cơ hội lớn hơn. Sự không nhất trí này dẫn tới tình trạng khủng hoảng định danh.

Sau đó, tại một khóa học điều hành kinh doanh, tôi được giao nhiệm vụ suy nghĩ về một thách thức kinh doanh tôi muốn giải quyết. Tôi nhận ra ngay rằng chúng tôi chưa bao giờ đưa ra được một mục tiêu chung cho công ty. Chúng tôi đã mất thời gian để cố gắng xác định xem mình là a, b hay c, nhưng có lẽ thay vào đấy, chúng tôi là cái thứ tư, một mô hình gì đó mới mẻ, một thứ chưa ai từng thấy trước đây, một cách mới để phục vụ khách hàng.

Điều gì xảy ra nếu câu trả lời nghiêng về điều khiến ta khó xác định? Chúng tôi quyết định rằng việc kinh doanh sẽ xoay quanh điều chúng tôi đang làm tốt nhất – đưa ra các chiến lược ngôn ngữ. Chúng tôi đã nghiên cứu sự phát triển của chiến lược thương hiệu và nhận thấy rằng trong những thập kỷ qua, nó đã phát triển theo hướng: logo => cách phối màu => dịch vụ khách hàng => sự trải nghiệm – ví dụ như việc trải nghiệm mùi ở sảnh khách sạn hay thái độ của nhân viên chào đón ở cửa hàng.

Công ty chúng tôi cũng có cơ hội tương tự. Chúng tôi bắt đầu như một công ty nghiên cứu quan hệ công chúng nhằm giúp khách hàng truyền thông hiệu quả hơn. Sau đó, chúng tôi giúp các công ty tìm ra ngôn ngữ phù hợp với sản phẩm và thương hiệu mới của họ. Khách hàng đã đưa chúng tôi đi xa hơn. Họ yêu cầu chúng tôi giúp các quản lý cao cấp của họ truyền tải các chiến lược. Họ tìm chúng tôi để giúp họ giải thích các chính sách phức tạp cho khách hàng và nhân viên. Họ thách thức chúng tôi tìm ra cách truyền tải mới để tác động vào văn hóa nội bộ của các tổ chức khác nhau. Và chúng tôi nhận ra rằng trong thời đại khi thời gian chú ý của chúng ta giảm đi nhưng khối lượng thông điệp lại gia tăng, việc sử dụng ngôn ngữ trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Ngôn ngữ định hình hầu như mọi khía cạnh của việc khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng, nhân viên, nhà đầu tư và những người nắm giữ cổ phiếu nhìn nhận một công ty. Ngôn ngữ định hình trải nghiệm của cả nhân viên và khách hàng. Chúng tôi nhận ra rằng ngày nay, trong nhiều trường hợp, việc không dành ngân sách cho chiến lược ngôn ngữ cũng giống như trong quá khứ không có ngân sách cho chiến lược thương hiệu. Chúng tôi hình dung ra thời kì khi mà chiến lược ngôn ngữ sẽ trở thành một phần thiết yếu trong mọi chiến lược kinh doanh. Và ngày nay, mục tiêu đó đang dẫn hướng và định hình chiến lược kinh doanh cho công ty tôi.

Bước tiếp theo là truyền tải cho nhân viên điều chúng tôi muốn đạt được. Chúng tôi đưa ra một bức tranh và khuyến khích nhóm của chúng tôi trở nên thoải mái từ tình trạng khó chịu khi chúng tôi tìm ra các cách mới để áp dụng những gì mình đã làm cho các thử thách khác nhau.

Tầm nhìn cho phép chúng tôi tự tin hơn về giá trị của mình và thoải mái hơn khi làm việc với khách hàng theo phương pháp mới. Và công ty chúng tôi đã phát triển. Điều đó sẽ không thể xảy ra nếu chúng tôi không mở rộng tầm nhìn vượt qua những lựa chọn sẵn có. Và điều đó cũng không thể xảy ra nếu chúng tôi không theo đuổi mục tiêu này. Bởi vì chính các thành viên của công ty – chứ không chỉ các đối tác – mới là những người đang đưa con thuyền tiến lên phía trước.

Lợi ích 3. Động lực

Đôi khi tất cả chúng ta đều phải đối mặt với sự kiệt sức, chán nản và thất vọng. Mục tiêu sẽ mang đến cho bạn ít nhất năm điều giúp bạn tiếp tục khi mô hình mới nhất tỏ ra không hiệu quả, khi có sự ngưng trệ trong chuỗi cung ứng hay chỉ vì bạn cạn kiệt cảm hứng.

Lần đầu khi phát triển quy trình thuyết phục cho cuốn sách này, có những ngày tôi thấy rất khó để chuẩn hóa những gì mình đã làm như một doanh nghiệp vì chúng tôi đã tiến hành công việc theo bản năng. Một vài lần tôi đã muốn vo tròn tất cả và vứt đi. Để có thể kiên trì, tôi phải quay trở lại với mục tiêu ban đầu, tại sao tôi lại tin rằng việc chia sẻ lộ trình thuyết phục là cần thiết.

Tôi tin vào một mục tiêu mà trong đó tất cả chúng ta đều nắm được những kỹ năng cơ bản của sự thuyết phục và áp dụng nó thường xuyên trong cuộc sống cũng như trong công việc. Mục tiêu đó là:

  1. Chúng ta sẽ có những cuộc trò chuyện tốt hơn với ít hoài nghi hơn.
  2. Chúng ta sẽ cởi mở hơn trước các quan điểm khác.
  3. Chúng ta sẽ lắng nghe nhau một cách tôn trọng hơn.
  4. Chúng ta sẽ đồng cảm hơn.
  5. Chúng ta sẽ có những mối quan hệ ý nghĩa và bền lâu với khách hàng của mình cũng như với những người khác.

Tôi biết rằng nỗi sợ hãi sẽ giới hạn bản thân và tầm nhìn của bạn. Nó như tấm vải bịt mắt bạn ngay cả khi chỉ còn vài bước nữa là bạn đã tới đích. Dám bước đi là rất đáng quý, nhưng tin tưởng vào tài năng, khả năng và giá trị của bản thân có thể giúp bạn bước lên một con đường thậm chí còn tươi sáng hơn. Biến nỗi sợ hãi thành sự tự do, điều đó mới tuyệt vời làm sao. – Soledad O’brien

Còn tiếp.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Trích đăng “Hành trình người viết” – Christopher Vogler

Published

on

Trích từ: Hành Trình Người Viết
Tác giả: Christopher Vogler
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH

“Loài người thật ra chỉ có tầm hai hay ba câu chuyện thôi,

và chúng được lặp đi lặp lại mải miết cứ như lần đầu được kể.”

— Willa Cather, trong O Pioneers!

Về lâu dài mà nói, Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt của Joseph Campbell là một trong những quyển sách có sức ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20.

Những tư tưởng mà quyển sách truyền tải đang ảnh hưởng to lớn tới cách thức kể chuyện. Các tay viết đang dần nhận thức rõ hơn về các hình mẫu trường tồn mà Campbell đã đưa ra, và góp phần làm giàu thêm bằng chính công sức của họ.

Hiển nhiên Hollywood cũng đã nhận ra công trình của Campbell hữu ích thế nào. Những nhà làm phim như George Lucas và George Miller đều bày tỏ lòng biết ơn tới Campbell, tầm ảnh hưởng của ông còn được thể hiện trong các phim của Steven Spielberg, John Boorman, Francis Coppola, Darren Aronofsky, Jon Favreau, và nhiều người khác.

Không có gì ngạc nhiên khi Hollywood rất ưng các tư tưởng mà Campbell trình bày trong tác phẩm của mình. Những khái niệm ông đưa ra như hộp dụng cụ vào nghề cho biên kịch, nhà sản xuất, nhà thiết kế… Chúng ẩn chứa đầy đủ các công cụ chắc chắn để phục vụ hoàn hảo cho mục đích sáng tác. Những công cụ này cho phép người dùng dựng nên câu chuyện đáp ứng đủ loại tình huống, một câu chuyện vừa có thể ẩn chứa bi kịch, lại vừa mang tính giải trí, và còn chuẩn xác về mặt tâm lý. Chúng cho phép người dùng chẩn đoán mọi vấn đề ẩn chứa trong các kịch bản khó nhằn, cũng như cung cấp giải pháp chỉnh sửa để đưa kịch bản lên tới tầm khả thi đỉnh cao của nó.

Thời gian là bảo chứng rõ ràng nhất cho tác dụng của hộp đồ nghề này. Chúng tồn tại lâu đời hơn cả những kim tự tháp, vòng tròn đá Stonehenge hay những hình vẽ sơ khai trên vách hang động.

Bộ công cụ này được Joseph Campbell hoàn thành khi ông bỏ công sức góp nhặt và quy mọi nhánh tư tưởng về một mối, sau đó nhìn nhận, diễn giải, đặt tên, và sắp xếp lại toàn bộ. Chính ông là người đầu tiên đem những hình mẫu chứa đựng trong các câu chuyện ra ánh sáng.

Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt là bản báo cáo của Campbell về cấu trúc bền vững nhất trong văn học, xét cả văn nói lẫn văn viết: thần thoại về người anh hùng. Trong nghiên cứu của mình về thế giới thần thoại, Campbell nhận ra rằng về bản chất mọi câu chuyện đều y hệt nhau, một cấu trúc lặp đi lặp lại bất tận với vô hạn biến thể.

Ông nhận ra rằng trong mọi cách kể chuyện, dù vô tình hay hữu ý, thì cũng theo các khuôn mẫu cổ đại từ thần thoại. Và mọi câu chuyện, từ những chuyện đùa thô thiển nhất cho tới đỉnh cao văn học, đều có thể diễn giải dựa trên Hành Trình Anh Hùng: vòng lặp hành trình cùng các nguyên tắc của nó.

Các hình mẫu trong Hành Trình Anh Hùng mang tính chung nhất, áp dụng ở bất kỳ nền văn hóa, bất kỳ thời điểm nào. Hệt như chính loài người chúng ta, khả năng biến thể tái lặp của các hình mẫu là vô hạn, dẫu cho bản chất nguyên thủy không hề thay đổi. Hành Trình Anh Hùng là một chuỗi các yếu tố bền bỉ bật lên từ sâu thẳm nhất trong tâm trí con người, có khác biệt qua các nền văn hóa, nhưng về bản chất vẫn là một.

Suy nghĩ của Campbell cũng song hành với nhà tâm lý học người Thụy Sỹ Carl G. Jung, người từng viết về các cổ mẫu (hoặc nguyên mẫu) như sau: chúng là những nhân vật hoặc nguồn năng lượng được lặp lại, liên tiếp, xuất hiện trong giấc mơ của mọi người và các câu chuyện thần thoại trong mọi nền văn hóa. Jung cũng gợi ý rằng những nguyên mẫu trên phản ánh những khía cạnh khác nhau của tâm trí con người, rằng bản dạng của chúng ta được phân thành nhiều tính cách để đối ứng với những thăng trầm khác nhau của cuộc đời. Ông nhận ra có sự tương thích mạnh mẽ giữa các hình ảnh trong giấc mơ của bệnh nhân mình chăm sóc với các cổ mẫu trong thần thoại. Ông cho rằng cả hai đều xuất phát từ những nguồn sâu thẳm hơn: vô thức tập thể (collective unconscious) của loài người.

Những nhân vật được lặp đi lặp lại trong thế giới thần thoại cũng chính là những thứ thường xuyên xuất hiện trong giấc mơ và tưởng tượng của chúng ta: các anh hùng trẻ tuổi, những bô lão thông thái, người biến hình, và các nhân vật phản diện núp trong bóng tối. Điều đó lý giải tại sao thần thoại và các câu chuyện được dựng nên từ hình mẫu của chúng đều chứa đựng triết lý về tâm lý.

Các câu chuyện như thế là những hình mẫu chính xác cho việc khai thác tâm trí con người, bản đồ chân thực của tâm hồn. Chúng chính xác về mặt tâm lý, và đưa ra cảm xúc chân thật ngay cả khi được dùng để diễn giải các sự kiện siêu phàm, phi thường, phi thực tế.

Vì lẽ đó, các câu chuyện trên đều sở hữu tính phổ quát. Bất cứ ai cũng có thể cảm thụ được sức hấp dẫn của những câu chuyện dựa trên mô hình Hành Trình Anh Hùng, chính bởi nguồn gốc phổ quát và phản ánh được vạn vật tự nhiên.

Chúng giải thích những câu hỏi phổ biến thuở còn trẻ thơ của mọi người: Tôi là ai? Tôi đến từ đâu? Khi chết rồi tôi sẽ tới đâu? Thiện ác là gì? Tôi phải đối phó với chúng ra sao? Ngày mai sẽ thế nào? Ngày hôm qua đã trôi về đâu? Bên ngoài kia còn ai không?

Những tư tưởng được lồng vào trong thần thoại, sau đó được Campbell định dạng lại trong tác phẩm Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt có thể được dùng để thấu hiểu hầu hết vấn đề nhân sinh. Chúng là chìa khóa hữu ích cho cuộc sống, cũng như công cụ hiệu quả để lôi cuốn đám đông khán giả.

Nếu bạn muốn hiểu rõ các tư tưởng đằng sau Hành Trình Anh Hùng, chẳng có cách nào khác ngoài việc tìm đọc tác phẩm của Campbell. Đó sẽ là trải nghiệm thay đổi đời người.

Đọc nhiều thần thoại cũng là ý hay, nhưng đọc sách của Campbell thì hiệu quả cũng chẳng khác là bao bởi lối kể chuyện bậc thầy, và ông cũng thích minh họa những luận điểm bằng ví dụ lấy từ chính kho tàng thần thoại đồ sộ.

Trong Chương 4 của Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt có tên “Những Chiếc Chìa Khóa”, Campbell đã đưa ra dàn bài cho Hành Trình Anh Hùng. Tôi đã mạn phép thay đổi dàn bài một chút, cố gắng phản ánh thêm về các chủ đề phổ biến trong điện ảnh bằng các minh họa trích từ các bộ phim đương đại, và cả một vài phim cổ điển khác. Độc giả có thể so sánh hai dàn bài và các thuật ngữ thông qua Bảng 1 ngay dưới đây.

HÀNH TRÌNH NGƯỜI VIẾTNGƯỜI HÙNG MANG NGÀN GƯƠNG MẶT
HỒI MỘTKHỞI HÀNH, LY BIỆT
Thế Giới Bình Phàm
Tiếng Gọi Phiêu Lưu
Lời Từ Chối
Gặp Gỡ Sư Phụ
Vượt Ải Đầu Tiên
Thế Giới Thường Nhật
Tiếng Gọi Phiêu Lưu
Lời Từ Chối
Sự Trợ Giúp Siêu Nhiên
Vượt Ải Đầu Tiên
Bụng Cá Voi
HỒI HAIDẤN THÂN, KHỞI ĐẦU, VƯỢT QUA
Thử Thách, Đồng Minh, Kẻ Thù
Tiếp Cận Hang Động Trong Cùng
Khổ Hình   



Phần Thưởng
Con Đường Thử Thách 

Gặp Gỡ Nữ Thần
Ải Mỹ Nhân
Chuộc Tội Cùng Thánh Thần
Sự Sùng Bái
Ân Huệ Tối Thượng
HỒI BATRỞ VỀ
Con Đường Trở Về




Hồi Sinh
Quay Về Cùng Thần Dược
Từ Chối Trở Về
Hành Trình Kì Diệu
Sự Giải Cứu
Vượt Qua Thử Thách
Trở Về
Bậc Thầy Ở Hai Thế Giới
Tự Do Để Sống
BẢNG 1
So sánh dàn bài và thuật ngữ

Tôi sẽ kể lại giai thoại Anh Hùng theo cách riêng mình, và độc giả cũng nên làm tương tự. Mọi tay viết đều có thể nhào nặn các hình mẫu thần thoại theo mục đích riêng, hoặc theo nhu cầu của một nền văn hóa cụ thể nào đó.

Đó là lý do tại sao người hùng lại có muôn vàn gương mặt.

Một chú thích về thuật ngữ “anh hùng” được dùng ở đây, cũng tương tự như “bác sĩ”, hay “nhà thơ”, hoàn toàn có thể chỉ bất kỳ giới tính nào.

HÀNH TRÌNH ANH HÙNG

Dẫu cho có muôn vàn biến thể, bản chất câu chuyện về Anh Hùng luôn là một hành trình. Họ từ bỏ cuộc sống dễ chịu quen thuộc cố hữu để dấn thân vào thế giới xa lạ đầy thử thách. Đó có thể là một hành trình hướng ngoại đến một địa điểm cụ thể nào đó: một mê cung, một khu rừng, hay một hang động, một thành phố, một quốc gia xa lạ, một địa điểm mới toanh, nơi sẽ trở thành võ đài cho chính họ chiến đấu với những thế lực phản diện khó nhằn.

Nhưng cũng có nhiều câu chuyện đưa ra hành trình hướng nội, tìm về tâm trí, trái tim, linh hồn của con người. Trong bất kỳ câu chuyện hấp dẫn nào cũng chứa đựng hành trình trưởng thành và thay đổi của nhân vật chính: từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ yếu ớt đến mạnh mẽ, từ điên cuồng đến khôn ngoan, từ yêu thành hận, và ngược lại. Những hành trình đầy cảm xúc này mê hoặc khán giả và tăng cường giá trị theo dõi của chính câu chuyện.

Có thể nhận ra các chặng đường trên Hành Trình Anh Hùng ở khắp mọi câu chuyện, không chỉ gói gọn trong các phiên bản phiêu lưu hành động nảy lửa. Nhân vật chính luôn là người hùng trong mọi hành trình, dù cho con đường phiêu lưu kia chỉ xoay quanh tâm lý hay những mảng quan hệ của họ.

Các chặng trong Hành Trình Anh Hùng xuất hiện và liên kết theo một lẽ tự nhiên, ngay cả khi người viết chẳng hề để ý tới, nhưng những kiến thức góp nhặt từ kho tàng xa xưa này vẫn chứng tỏ độ hữu dụng trong việc nhìn nhận vấn đề và cải thiện cách kể chuyện. Hãy xem 12 chặng đường này như một địa đồ cho Hành Trình Anh Hùng, không chỉ để soi rọi đường đi, mà còn là con đường bền bỉ, linh hoạt, và đáng tin cậy bậc nhất.

CÁC CHẶNG ĐƯỜNG TRONG HÀNH TRÌNH ANH HÙNG

1. THẾ GIỚI BÌNH PHÀM

2. TIẾNG GỌI PHIÊU LƯU

3. LỜI TỪ CHỐI

4. GẶP GỠ SƯ PHỤ

5. VƯỢT ẢI ĐẦU TIÊN

6. THỬ THÁCH, ĐỒNG MINH, KẺ THÙ

7. TIẾP CẬN HANG ĐỘNG TRONG CÙNG

8. KHỔ HÌNH

9. PHẦN THƯỞNG (ĐOẠT LẤY GƯƠM BÁU)

10. CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ

11. HỒI SINH

12. QUAY VỀ CÙNG THẦN DƯỢC

Đọc bài viết

Trích đăng

Vài chuyện linh tinh mà cây cối dạy cho mình về tình yêu – Trích “Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành”

Published

on

Trích từ: Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành
Tác giả: Anh Khang
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Có một dạo, cứ mỗi lần nhớ người thương cũ, mình lại đi mua một cái cây, về trồng ngoài ban công.

Thói quen ấy đều đặn thành nếp sống. Đến một ngày, trước cửa sổ phòng, đã là cả một khu vườn nho nhỏ xinh xanh.

Những buổi sáng, tỉnh dậy, nắng len qua ô kính, dụi mắt đánh thức mình. Điều đầu tiên mình nhìn thấy, là cả một khoảng trời xanh mướt của từng phiến lá khẽ đung đưa, như vẫy tay chào, và bảo: “Ê, ngày mới tới rồi. Đừng nằm lì ở ngày hôm qua nữa. Dậy đi tưới cây, ngắm nắng, tỉa lá, chăm hoa,... Vườn nhà biết bao việc. Nằm đó nhớ nhung gì!”.

Đó là khi mình nhận ra, sau rất nhiều năm tháng chia tay, điều đầu tiên mình nghĩ đến khi thức dậy, không còn là người ấy nữa.

Mình bắt đầu nghĩ về bổn phận của một người làm vườn có trách nhiệm với mầm xanh trước cửa, của một người “nông dân cày xới trên mảnh đất tinh thần”. Và nhất là, không còn nghĩ về danh phận mà mình đã truy cầu suốt thời tuổi trẻ, khiến xói mòn tiêu hao rất nhiều “hạt giống niềm tin” vào quả ngọt mang tên “tình yêu” chưa bao giờ kết trái.

Hồi xưa, mình từng cho rằng bản thân chẳng có tay trồng cây, mọi hạt giống gieo xuống đều chẳng nảy lên xanh. Cũng giống như bản tính thích yêu và được-yêu, nhưng lại chẳng có duyên với mấy chuyện yêu đương. Nhưng, nhờ những ngày tháng hiện tại, bầu bạn cùng cỏ cây, quanh quẩn bên hoa lá, chăm chút từng mầm xanh,... mình học thêm được vài bài học mới, vài cách nghĩ khác đi, từ “người thầy” xanh màu diệp lục tố.

Như là, tại sao cứ mặc định bản thân là “vô năng bất khả”, tại sao cứ hạn định mọi nỗ lực và cố gắng của chính mình?

Dù là chuyện trồng cây.

Hay là chuyện yêu đương cũng thế.

#1

Càng bớt cố chấp, càng đỡ mệt thân

Mình có một chấp niệm, với cây hương thảo.

Loài thảo mộc bản địa của vùng Địa Trung Hải, vốn đã theo chân mình suốt dặm đường rong ruổi hồi trẻ qua biết bao thành phố ở vùng cựu lục địa. Thế nên, một trong những chậu cây đầu tiên mà mình mang về khu vườn nhỏ của mình, hiển nhiên, phải là hương thảo.

Dù đã được nhiều người chủ vựa cây kiểng dặn dò về thuộc tính đỏng đảnh “ưa nước nhưng ghét ẩm”, “thích nắng nhưng sợ hạn” của loài cây thơm lừng từ ngọn tới lá này, mình vẫn một mực tìm mua đủ mọi giống hương thảo. Từ loại giâm cành chiết ngọn ở miền Bắc đến miền Tây, rồi cả giống cây thuần khí hậu miền Nam, hay được dưỡng thân hóa gỗ thành dáng bonsai vững vàng...

Nhưng bất kể bao cố gắng kiên trì của mình, thì không một chậu cây hương thảo nào chịu sống đời dai dẳng, ở lại bên mình dài lâu được cả.

Mình càng cố, thì kết quả, vẫn chỉ là cành khô ngọn rủ, từng bụi hương thảo cứ thế héo hắt rời đi. Vì nhiều lý do, từ giá thể thổ nhưỡng đến vị trí trồng trọt, và còn hằng hà sa số điều kiện thiên thời địa lợi đã không thể chiều lòng chấp niệm “trồng hương thảo” của mình.

Không phải mình cứ cố gắng là sẽ đạt được ý nguyện ban đầu. Có những thứ mà ngay từ đầu, có lẽ, đã là chấp niệm viển vông của riêng bản thân. Chứ chẳng thể thành toàn viên mãn.

#2 

Nếu đã là duyên phận thuộc về bạn,

cơ bản bạn chẳng cần làm gì cũng viên mãn

Vẫn tiếp tục câu chuyện về hương thảo.

Trong rất nhiều bụi hương thảo đã bỏ mình đi, thì duy nhất, trong vườn còn lại một bụi thơm lừng, bền bỉ tỏa hương, nhẫn nại vươn cành.

Ban đầu, đây vốn chỉ là một bầu cây nhỏ xíu mình mua hú họa, chẳng dụng công trồng hay đặt nhiều hy vọng. Tiện tay, ướm vào chậu treo, thấy vừa khít, nên tùy ý móc lên mái tôn trước bệ cửa sổ. Ai ngờ, cây hương thảo bé nhỏ chẳng được chăm chút mấy, lại trở thành loài thảo mộc ở lại bên mình kiên tâm lâu dài nhất.

Ngẫm lại, cả khu vườn trải qua bao mùa cây cối tụ tán, hoa lá nở tàn, thì chỉ có duy nhất cây hương thảo treo đó, vẫn cam tâm tình nguyện cùng mình kết một đoạn duyên phận, lặng lẽ nhưng thâm tình, bình đạm nhưng thành tâm.

Để bây giờ, mỗi lần mở cửa sổ, hương thơm the mát vương mùi thảo mộc, thoảng đầy ý vị bình an, cứ thế len lỏi khắp phòng.

#3

Yêu thương khi không thấu hiểu,

chỉ gây thêm gánh nặng cho người mình yêu

Có một lần, quá nôn nóng vì cây hạnh ngọt chưa chịu ra hoa và hoa rụng trước kỳ đậu quả, mình bèn mua đủ loại phân bón.

Khỏi nói cũng biết kết quả. Mình, chẳng chịu tìm hiểu kỹ lưỡng nguyên tắc dưỡng trồng, cứ vung tay quá trớn, sơ sẩy thiển cận. Thành ra, cây hạnh ngọt đang li ti hoa trắng, ngấp nghé vài quả non, chỉ sau một đêm, lập tức khô khốc trụi cành, hoàn toàn héo rũ.

Sau đó, mới nhận ra bản thân đã sai ngay từ đầu, trong những khâu cơ bản như tìm hiểu, chọn lựa thành phần, chế độ, liều lượng,... của các loại chế phẩm chăm cây. Hóa ra, chính sự yêu thương thiếu kiến thức của mình đã đẩy đối tượng mình yêu thương (là cái cây) đi đến chỗ đang xanh-màu thành xanh-cỏ.

Tình yêu, suy cho cùng, nếu thiếu đi sự thấu hiểu, sẽ chẳng thể đồng hành lâu dài, giúp nhau tăng tiến. Mù quáng trao đi yêu thương mà không nhận thức rõ ràng đâu là đủ-thiếu, đâu là đúng-sai, thì chỉ chuốc thêm đau lòng cho chính mình và phiền lòng cho người mình yêu.

#4

Có những kết thúc chính là để bắt đầu

Có mấy chậu cây, mình chăm dữ lắm, nhưng cứ được vài tháng là bắt đầu vàng lá mục cành.

Mình, bắt đầu chấp nhận sự đến-đi của vô thường, ngay cả cây cối cũng đâu thể tránh khỏi thành-trụ-hoại-không. Định bụng, chào cái cây lần cuối, xong sẽ bỏ đất, thay chậu, chôn cây, cho xong một vòng tuần hoàn của đời thảo mộc. Ai dè, ngay kế cành cây sắp mục ruỗng ngã đổ, một mầm xanh bé xíu đang gắng sức vươn lên. Chiếc lá non xanh biếc, giống hệt dáng hình của chiếc lá đang ngả vàng của nhánh cây héo rũ kế bên. Một sự tiếp nối, lặng lẽ diễn ra. Những mầm xanh bé nhỏ, còn bền bỉ tách đất vươn lên. Huống hồ tuổi trẻ, vốn chẳng có một giới hạn nào, sao chúng ta lại cứ ngại, sợ? Có kết thúc nào là mãi mãi dừng lại ở đó đâu, khi đằng sau nó luôn là cả một khởi đầu miên viễn. Bạt ngàn. Vô tận.

Đời sống luôn là một bản trường ca mà khi một nốt trầm lặng xuống thì chính là báo hiệu một đoạn tấu khúc réo rắt sắp bắt đầu khởi xướng.

#5

Rừng xanh nào cũng bắt đầu từ hoang sơ

Có những hôm trời bất chợt đổ mưa. Ngó ra khoảng không xanh mướt mắt đang ướt đẫm trong màn nước trong vắt bên ngoài. Mình bỗng mềm lòng, nhớ lại. Chỉ mới vài tháng trước, khoảnh sân này chỉ là một mái tôn trơ trọi xám lạnh. Giờ đã thành vườn xanh. Mấy bông hoa chanh đã đậu quả thành trái non lúc lỉu trên cành. Mấy trái tắc mới vài tuần trước còn li ti như những hạt sương lấm tấm xanh xanh giờ đã tượng hình thành trái múp míp. Và cả bụi hoa hồng đã rụng hết đợt hoa bừng sắc tháng trước, đến nay cũng đã ươm mầm mới nở thành nụ phơn phớt dịu dàng.

Và cái đứa từng nghĩ rằng bản thân không có tay trồng cây, không có thể ươm xanh nụ mầm... sau tất cả, cũng đã tự tay có được khu vườn của riêng mình.

Chỉ cần mình chịu bắt đầu. Từ một việc đơn giản nhất. Là gieo mầm. Thay vì cứ đứng đó trơ mắt nhìn vào trống trải tiêu sơ.

Trộm nghĩ, một khu rừng rậm rạp cách mấy, cũng đều phải khởi sự từ những nhánh cây mầm cỏ bé nhỏ ban đầu. Nếu không có hoang tàn trơ trọi lúc đó, thì làm sao có hùng vĩ trong lành hôm nay? Điều quan trọng là chúng ta đừng chỉ nhìn chăm chăm vào mớ hỗn độn ngổn ngang rồi chùng lòng chán nản, thoái thác tháo lui, mà phải chấp nhận dấn thân, lao tâm khổ tứ. Dù là trồng rừng, trồng cây, hay là trồng lại hy vọng, niềm tin của chính mình. Vào tình yêu. Vào con người.

#6

Ai rồi cũng sẽ có khoảng trời thuộc về mình

Ngồi viết những dòng này, khi bên ngoài, hoàng hôn vừa xuống. Cảm giác bình yên choáng ngợp trong lòng. Có điều, sự choáng ngợp này, không khiến bản thân kinh hãi, mà chỉ càng làm thấm thía trân trọng thêm khoảnh khắc hiện tại.

Đi khắp Đông-Tây-Nam-Bắc. Trải qua yêu-ghét-thương-hờn. Nếm đủ tụ-tan-ly-hợp. Đến giờ, đã có thể bình thản, một mình, ngồi ngắm hoàng hôn mà trong lòng không còn bất kỳ một lời đồng vọng. Dù là nhớ nhung chuyện cũ. Hay là trách cứ tình xưa.

Hoàng hôn để ôn chuyện cũ. Đã từng nghĩ như vậy suốt thời tuổi trẻ. Thế nên, từng có một giai đoạn bị ám ảnh hoảng loạn với hoàng hôn. Cứ thấy trời chiều, là lo lắng. Cứ thấy nắng tắt, là hoang mang. Bởi lẽ, buổi chiều, đã-từng là khi chúng ta hẹn hò, là khi chúng ta đợi chờ đến lúc gặp nhau, là khi anh cùng em rong ruổi phố phường, đuổi bắt hoàng hôn. Buổi chiều, cũng là khi chim về tổ, người về nhà, là khi ai cũng mong cầu tìm cho mình một chốn về nương náu yên thân.

Thế nhưng, bản thân ở hiện tại, đối diện buổi chiều, lại chỉ thấy bình yên. Một mình hay mấy mình, giờ đã không còn mấy quan trọng. Chỉ biết là trong khoảnh khắc mặt trời le lói, vẫn thấy lòng ngập tràn ánh sáng. Thứ ánh sáng của an vui hỉ lạc, của tự tại tùy duyên.

Hóa ra, huyền cơ của việc thuận theo ý trời, tuân lời thiên mệnh, chỉ nằm trong một khoảnh khắc như thế này.

Đó là nhìn trời chiều, không buồn không tiếc, không nấn ná dây dưa cũng không hối hả sợ sệt. Chỉ thấy biết ơn năm tháng dù hối hả trôi qua, ghi ân thời gian dù vội vã giục giã, nhưng vẫn luôn độ lượng khoan dung dành cho chúng ta một chốn về yên ả.

Anh và em. Tôi và người. Bạn và chúng ta. Tất cả rồi cũng đều sẽ có một khoảng trời riêng. Nơi mưa nắng bão dông đều trở nên dịu dàng. Nơi bình minh hay hoàng hôn đều đầy đặn ánh sáng. Nơi mình hiểu ra nhân duyên đẹp đẽ nhất mà ông trời ban tặng, không phải là gặp đúng ý trung nhân trọn kiếp chung tình, mà là được gặp gỡ và trở thành phiên bản trọn vẹn nhất, tốt đẹp nhất, bình an nhất, của chính mình.

Cũng giống như một cái cây, đâu phải vì muốn kết duyên đôi lứa với một cành cây cọng cỏ nào khác, nên mới sum suê xanh tốt. Cây cối, tự mình vươn cành, vì mình xanh mướt.

Việc của cây là xanh. Không bận tâm vì ai mà tươi tốt. Cũng không vì ai lìa bỏ mà héo tàn.

Vậy nên, việc của chúng ta,

là cứ bình an,

là cứ hạnh phúc.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Cafe sáng