Trích đăng

Chương 1 “Trở về không” – Joe Vitale

Published

on

Nếu Không giới hạn (Zero Limit) là sự bắt đầu của phương pháp Ho’oponopono thì Trở về không (At Zero) chính là sự nối tiếp thông điệp với những phương thức nâng cao bí truyền, mở đường cho phép mầu xảy đến trong thực tại.

Quyển sách giúp bạn nắm bắt những bí mật cao thâm của Ho’oponopono, khai phóng chính mình đề tỉnh thức, để được hạnh phúc, và cho phép Siêu nhiên (Zero) truyền hứng khởi hoặc thậm chí thức tỉnh bạn. Đây là chiếc vé để đạt đến sự viên mãn. Những lợi lạc khác sẽ đến cùng, hầu như một cách bí ẩn và siêu phàm. Hãy tạo ra thực tại của chính mình!

  • Trích từ: Trở về không
  • Tác giả: Joe Vitale
  • Phát hành: Tháng 9.2020
  • Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

*

CHƯƠNG 1
Gặp rắc rối

“Không có cái gọi là bản ngã. Chỉ là dữ liệu, dữ liệu và dữ liệu.” – Tiến sĩ Ihaleakala Hew Len.

Tôi gửi bản thảo cuốn Không giới hạn cho nhà xuất bản trong dịp diễn ra khóa Không giới hạn lần thứ hai, tổ chức tại Maui vào cuối năm 2006. Đây là quãng thời gian hưng phấn với tôi. Cơ bản mà nói, cuốn sách này tự nó viết ra. Tôi đã chấp bút chỉ trong hai tuần, một tốc độ đáng kinh ngạc. Các cuốn sách khác của tôi đều mất hàng tháng cho đến hàng năm trời để hoàn thành. Hai tuần ư? Quả là một phép lạ. Tiến sĩ Hew Len, đồng tác giả với tôi, đã ưng ý sau khi đọc vài trang. Ông nói, “Siêu nhiên bảo ổn rồi”.

Tôi thấy tự hào. Tại sao lại không chứ? Tôi chẳng hề biết rằng những gì tồi tệ nhất chưa xảy đến.

Trong suốt khóa học lần thứ hai ấy, Tiến sĩ Hew Len bảo tôi rằng khi cuốn sách ra mắt, “Mọi chuyện sẽ be bét cho mà xem.” Tôi không biết ông nói gì, nhưng tôi không lo lắng. Tôi cảm thấy được dẫn dắt và che chở. Tinh thần của tôi phấn chấn, và niềm tin đang dâng cao. Tôi sẽ tiếp tục thanh tẩy. Sẽ không có chuyện gì khiến tôi hoang mang.

Tôi đã sai lầm.

Buổi tối đầu tiên trong khóa học, ngay trước bữa ăn tối để gặp gỡ và giao lưu, tôi nhận được một cú điện thoại đầy tức giận từ một tác giả kiêm bậc thầy tinh thần mà tôi xem như thần tượng. Bà đã viết lời ủng hộ bản thảo cuốn sách tôi gửi đến nhưng dường như chưa đọc cuốn sách. Sau khi đọc, bà đã phản đối vài điều trong đó, mà một trong số chúng có đề cập đến bà mặc dù không nêu danh. Khi nhận ra chính mình, bà bực dọc với tôi – và đã gọi cho tôi để phản ứng.

Tôi không có ý hại ai. Phần nội dung đó bàn đến việc ngay cả những người thành công cũng có những điểm mù và tự chuốc lấy sự nhiễu loạn. Tôi đã dùng bà như một ví dụ, nhưng không nêu tên. Tôi rất ngạc nhiên khi bà thịnh nộ vì bà thường dùng những thử thách trong cuộc sống cá nhân làm bài học giảng dạy trong các cuốn sách của chính bà. Điều đó chẳng phải là một bí mật. Nhưng mọi người thường gắn mọi thứ, kể cả những cuốn sách, với các ngụ ý và cảm giác bất an của mình. Bà nhìn thấy một điều gì đó bà không ưng, và thay vì chịu trách nhiệm hoàn toàn về những gì nhìn thấy (vốn là toàn bộ ý niệm của Ho’oponopono và Không giới hạn), bà đã phản ứng với tôi.

Bởi vì tôi đã (và vẫn là) một người hâm mộ bà, chuyện này làm tôi tổn thương nặng nề. Tôi đã sửa lại bản thảo để không nhắc đến bà nữa, nhưng sự thương tổn vẫn còn. Sau đó, tôi gọi cho bà để giải quyết vấn đề, nhưng tôi vẫn cảm thấy chao đảo. Làm thế nào lại xảy ra chuyện này? Nếu đây là những gì Tiến sĩ Hew Len dự báo và cuốn sách thậm chí còn chưa xuất bản, thì chuyện gì đang chờ đợi tôi? Giá mà tôi biết được. Rõ ràng là đã có chuyện – và một khi cuốn sách ra đời, mọi chuyện mới thực sự bắt đầu be bét.

Như tôi đã đề cập trong phần giới thiệu, cả những người trước đó chưa đọc cuốn sách (vì sách chưa được phát hành) cũng lên án cuốn sách và tôi. Họ nói rằng tôi đã bịa ra mọi chuyện, cả về Tiến sĩ Hew Len lẫn câu chuyện ông đã giúp chữa lành cho các bệnh nhân tại bệnh viện tâm thần hình sự Hawaii ra sao. Một số người lên án cuốn sách là không đầy đủ, và những người khác thì công kích tôi về việc đã không tiết lộ hết những bí mật trong khóa học về Ho’oponopono. Họ cáo buộc tôi đã tìm cách đề cập các sản phẩm khác của tôi trong cuốn sách. Một số còn cho rằng nếu Tiến sĩ Hew Len có thật thì ông ta là người điên có thể được cấp giấy xác nhận.

Phải nói rằng mọi chuyện quả thật là điên đầu và khó chịu. Làm thế nào một cuốn sách lại có thể khích bác nhiều người đến thế, nhất là khi nó không những được viết bằng sự yêu thương mà còn dạy về tình yêu thương và sự tha thứ?

Trong khi đó, hàng ngàn độc giả đã được chuyển hóa. Tôi đã nhận được các cuộc gọi, thư từ, và email từ những người thật lòng tri ân. Họ đã tìm thấy niềm hy vọng, sự chữa lành và cứu rỗi. Quả thật đáng khích lệ, nhưng những vết thương đâm trên lưng tôi vẫn đau nhói.

Mọi chuyện sẽ còn tồi tệ hơn nữa trước khi khá lên. Tôi có một người bạn thân mà tôi đã truyền dạy, trợ giúp, đỡ đần, tư vấn và truyền cảm hứng, một người khổ sở về mặt tiền bạc. Anh không có nhiều kỹ năng kinh doanh trực tuyến, nhưng tôi thích con người anh, sự sáng tạo và óc hài hước của anh. Tôi nhìn thấy tiềm năng khi giúp đỡ và làm việc với anh.

Tôi đã trao tặng mọi thứ, miễn phí, để giúp anh có thể tự lực. Tôi giúp anh tạo dựng một doanh nghiệp trực tuyến và một danh sách email các khách hàng. Tôi giúp anh về sản phẩm và tiếp thị. Tôi trả thù lao cho anh vì đã giúp tôi trong các sự kiện đặc biệt, ngay cả khi tôi bị lỗ trong việc tổ chức. Anh biết ơn và bày tỏ điều đó bằng cách thường hôn lên má tôi khi chia tay và nói, “Thương lắm, Joe”.

Năm 2009, tôi đến Nga để dự một loạt các buổi thuyết trình và mời anh đi cùng. Anh được chu du một chuyến bằng vé hạng nhất miễn phí, còn tôi thì có một người bạn đồng hành. Anh cũng đồng ý giúp tôi trên sân khấu vì nói chuyện nhiều ngày liên tục là một việc dễ kiệt sức. Đó là một giao ước cả hai cùng có lợi. Mặc dù cả hai đều e sợ Nga (từ bao câu chuyện về các cuộc tấn công hạt nhân mà chúng tôi được nghe khi lớn lên – nếu nhìn từ góc độ dữ liệu), chúng tôi cũng đã thu xếp hành trang, chuẩn bị tinh thần và bay sang phía bên kia bán cầu. Chuyến đi Nga không phải là một dịp dã ngoại. Lịch trình rất khốc liệt, gần như tra tấn. Vừa hạ cánh, tôi được đưa thẳng đến một chương trình truyền hình tại Moscow mà chẳng kịp tắm táp hoặc cạo râu. Tôi choáng váng đến độ không nói nên lời bởi vì theo hợp đồng, tôi biết tôi phải làm tất cả mọi chuyện mà người Nga yêu cầu ở tôi. Tôi tham gia chương trình truyền hình. Sau đó cũng trong đêm, tôi ký tặng sách mấy giờ liền tại một hiệu sách. Chương trình không ngơi trong suốt hai tuần tiếp theo. Mặc dù đi theo để trợ giúp, anh bạn của tôi thường ở lại phòng để ngủ, trong khi tôi đi ra ngoài để tiếp tục nói chuyện, thuyết trình, dự phỏng vấn, ký sách và làm nhiều việc khác nữa. Tôi không phiền gì. Tôi thấy nhẹ nhõm khi anh được nghỉ ngơi. Anh xứng đáng được như vậy.

Thậm chí việc rời khỏi nước Nga cũng là một chuyến đào thoát khỏi địa ngục.

Chúng tôi phát hiện ra thị thực của mình đã hết hạn trước khi chuyến đi kết thúc. Ai đó đã làm sai giấy tờ của chúng tôi. Thị thực du lịch của chúng tôi không hợp lệ. Tôi cảm thấy như chúng tôi đang rơi vào một bộ phim chiến tranh thế giới. Như một tình cảnh không có thật. Các viên chức lãnh sự Mỹ bảo người bạn của tôi hãy “Làm mọi cách để ra khỏi quốc gia này trước lúc nửa đêm”.

Thật là khốn khổ. Chúng tôi được đưa đi trên những con đường hẻo lánh, băng qua các trạm gác quân sự ở Nga, liên tục xuất trình hộ chiếu, và cuối cùng được thả xuống trong rừng ở Phần Lan – ngay trước lúc nửa đêm, chỉ vài phút trước khi thị thực hết hạn. Chúng tôi vẫn phải đến Helsinki và tìm chuyến bay mới để trở về Hoa Kỳ (với một khoản tốn kém lớn cho tôi). Ôi chao ơi, câu chuyện thật trần ai.

Nhưng chuyện đó vẫn chưa phải là tệ lắm.

Khi chúng tôi về đến nhà an toàn, người bạn của tôi đã bị khủng hoảng. Trong vòng 72 tiếng sau khi về, anh đã gửi cho tôi một bức email với một hóa đơn các khoản kê bất ngờ và hoàn toàn thêu dệt về công sức trong hai năm trước đó. Mọi việc anh đã làm miễn phí cho tôi với tư cách bạn bè hay vì tri ân tôi, đều được nêu trên hóa đơn. Anh nói rằng tôi nợ anh và nợ rất nhiều tiền. Tôi không tin nổi.

Mặc dù chưa bao giờ thỏa thuận sẽ trả thù lao cho anh về chuyến đi Nga, khi sang đến đó tôi cũng đã hứa sẽ cho anh ta một khoản. Tôi không hề được thanh toán đầy đủ cho công việc ở nước ngoài, và tốn đến 10.000 đô la để cả hai có thể bay về nhà vào phút chót. Tuy nhiên, sự trợ giúp của anh ở Nga đã giúp tôi trụ được trước áp lực công việc. Tôi định tặng cho anh một chiếc xe mà tôi biết anh yêu thích như một món quà bất ngờ, thế mà anh đã giận dữ với tôi, trong vòng chưa đến ba ngày sau khi trở về, khiến tôi chưng hửng. Tôi kinh ngạc. Tôi bị chấn động đến tận tâm can. Tôi không thể hiểu được hành vi của anh.

Tôi đã tìm cách gặp anh. Tôi gọi anh. Tôi để lại thư thoại. Tôi nghĩ rằng nếu cùng ngồi xuống để nói chuyện, chúng tôi có thể hình dung ra điều gì trục trặc. Có lúc tôi đã ngỏ lời trả thù lao cho anh, để mối quan hệ được yên lành. Anh viết một cách tức giận, “Hãy quên đi”. Anh tiếp tục trút giận, viết những điều khủng khiếp về tôi trên mạng. Anh viết riêng cho những người tôi biết – thậm chí cả nhân viên của tôi – nhằm lôi kéo họ về phe anh để chống lại tôi. Hành động của anh đầy thủ đoạn, xấu xa, quỷ quyệt và nham hiểm nhằm hủy hoại thanh danh của tôi.

Không có cách nào lột tả được hết nỗi đau qua sự việc này. Cứ như ta thức dậy và phát hiện ra người bạn đời hoặc người bạn chí cốt đã đi mất hoặc mất đi. Tôi đau buồn. Tôi tổn thương. Làm thế nào mà người bạn thân thiết nhất của tôi lại có thể hành động một cách độc ác và lạnh lùng như vậy? Tôi không hiểu nổi. Có phải chỉ là chuyện tiền bạc? Có phải anh ta vứt bỏ một tình bạn, một quan hệ cộng tác kinh doanh, một giao ước tâm linh, chỉ vì tiền bạc? Tâm linh nằm đâu? Ho’oponopono mà tôi đã giúp anh học nằm đâu? Con tim của anh nằm đâu?

Điều trớ trêu là chính do anh mà tôi đã quan tâm đến Ho’oponopono. Anh đã nghe một câu chuyện và đọc một cuốn sách nhỏ, và kể lại với tôi. Anh không hề biết Ho’oponopono là gì. Tôi thấy đề tài này hấp dẫn và muốn tìm hiểu nhiều hơn, nên đã bắt đầu truy tìm xuất xứ câu chuyện, về nhân vật và sự việc trong đó. Cuối cùng tôi đã được dẫn dắt đến gặp Tiến sĩ Hew Len và viết cuốn Không giới hạn.

Tôi nghĩ bạn tôi hiểu các nguyên tắc về trách nhiệm cá nhân, tình yêu và sự tha thứ. Dù gì, tôi cũng đã trả phí để anh tham dự khóa học Ho’oponopono đầu tiên của anh trong đời, nhưng khi bị chạm vào khía cạnh nhạy cảm, từ vết thương của chuyến đi Nga hay từ điều gì đó, anh đã không chịu trách nhiệm. Anh đổ lỗi cho tôi và đã đi quá xa. Trong Ho’oponopono người ta gọi thể loại trả đũa này là ino, có nghĩa là hành động cố ý làm tổn hại với lòng thù hận. Đó là một trong những tội lỗi nghiêm trọng nhất có thể tưởng tượng.

Và anh đã làm điều đó với tôi.

Tôi đã thanh tẩy, cứ thanh tẩy… và thanh tẩy.

Tôi nhìn vào sự can dự của mình trong tấn kịch này ở cấp độ năng lượng, cố gắng để hiểu làm thế nào tôi lại thu hút nó. Tôi biết cuộc sống của chúng ta đan xen với nhau. Chúng ta là một vũ điệu của năng lượng. Chẳng có điều gì xảy ra trong chân không. Bạn tôi và tôi đã cùng chia sẻ một chương trình – virus của tâm trí. Tôi đã làm hết sức để nhớ lại tất cả những gì Tiến sĩ Hew Len từng dạy tôi, để biết rằng cách thoát ra duy nhất là thanh tẩy, thanh tẩy và thanh tẩy.

Tôi bắt đầu cảm thấy buồn cho anh bạn của mình. Tôi bắt đầu hiểu rằng bằng cách nào đó anh ta đã thu nạp một chương trình khống chế tâm trí của anh. Tôi biết anh từng có những cơn xung đột với gia đình và bạn bè trước kia. Tôi đã từng chứng kiến những chuyện đó. Có điều tôi không bao giờ ngờ chuyện đó xảy đến với mối quan hệ của chúng tôi hoặc nhắm vào tôi. Cứ như có một chương trình đã chiếm hữu và sai khiến anh. Tôi muốn giúp anh, chữa lành cho anh bằng cách nào đó. Tôi đã không ngừng thanh tẩy để xóa sạch chuyện này trong tôi, hy vọng nó cũng sẽ được xóa bên trong anh.

Trong thực tại theo Ho’oponopono, đó không phải là chuyện của anh. Đó là chuyện của tôi.

Nếu ai đó có quyền cảm thấy mình là nạn nhân, thì đó là tôi. Nếu ai đó có chứng cứ rằng người bạn đã phản bội mình, thì đó là tôi. Tôi vẫn còn giữ các email liên lạc giữa chúng tôi và các email từ những người anh đã liên lạc, chứng tỏ mọi chuyện anh đã làm cả công khai lẫn riêng tư. Một người khác có thể dùng tất cả những thứ đó để phản đòn. Tôi thì không.

Như Tiến sĩ Hew Len thường dạy tôi, “Chẳng có gì ngoài kia cả”. Tất cả ở bên trong. Tôi đã buộc chính mình phải nhận trách nhiệm hoàn toàn cho mọi thứ bạn của tôi đã làm, tìm kiếm chương trình bên trong tôi và chúng tôi đã tạo ra, thu hút, và thị hiện thành toàn bộ tấn tuồng này.

Bạn tôi đã dời đi nơi khác, khiến tôi cảm nhận anh muốn làm lại từ đầu. Có phải anh đã tạo ra tình cảnh ác mộng này để cắt đứt mối quan hệ làm ăn với tôi? Tôi đoán anh có vấn đề về tiền bạc. Có phải anh cần một vật tế thần? Nếu vậy, chắc chắn tôi là mục tiêu thích đáng. Tôi nói ra điều này không nhằm đổ lỗi cho anh, bởi vì đổ lỗi không phải là cách của Ho’oponopono, mà để thấy tâm trí con người luôn cố gắng ra sao để biện minh cho sự phi lý. Tôi không biết mình nghĩ đúng hay sai về động cơ của anh, mà điều đó cũng không thành vấn đề. Vấn đề thực sự ở đây là Tiến sĩ Hew Len đã nói đúng. Mọi chuyện đã be bét.

Tôi đã làm gì để xử lý cuộc khủng hoảng đã được kích hoạt bởi chương trình chung trong anh và trong tôi? Không làm gì cả.

Tôi không thuê luật sư hoặc liên hệ với bất kỳ cơ quan chính quyền nào. Hành động đó không cho cảm giác yêu thương và tha thứ như Ho’oponopono thực thụ. Thậm chí dù anh bạn của tôi đã làm một số chuyện tệ hại nhằm hủy hoại thanh danh của tôi (mà thậm chí tôi còn tổn thương nặng nề hơn vì anh hiểu rõ về việc nhận trách nhiệm hoàn toàn và thanh tẩy), tôi cũng đã không trả đũa.

Thay vào đó, tôi thanh tẩy – tôi cảm nhận nỗi đau thấm thía của mình, sự phản bội và sự bất công, và tôi dâng trọn cho Siêu nhiên. Tôi áp dụng chính quy trình mà Tiến sĩ Hew Len đã dạy. Tôi nhận trách nhiệm. Tôi gánh lấy hoàn cảnh. Tôi đã không nói ra bất cứ điều gì tiêu cực, và tôi chỉ chia sẻ câu chuyện trong lúc này để có một bài học lớn hơn (sắp được trình bày). Tôi đã đón nhận tấn tuồng vào bên trong, và tại đó tôi thanh tẩy.

Tôi cũng áp dụng một hình thức Ho’oponopono cao cấp, mà tôi sẽ chia sẻ sau với các bạn trong cuốn sách này. Sự kết hợp tất cả những phương pháp ấy rốt cục cho phép tôi phóng thích năng lượng từ sự nhận thức về người bạn trước đây. Tấn tuồng lắng dịu. Anh dừng chiến dịch bôi nhọ. Cát bụi lắng xuống. Cuộc sống tiếp diễn. Việc kinh doanh vẫn diễn ra như thường lệ, chỉ có điều không có anh trong cuộc sống của tôi. Tôi vẫn nhớ mối quan hệ thân tình đã có, nhưng tôi thà được tự do hơn phải phát điên.

Thật thú vị, anh đã liên lạc với tôi trong khi tôi đang viết cuốn sách này để hỏi liệu tôi có muốn tổ chức một khóa Ho’oponopono cùng anh. Đó có phải là một dấu hiệu cho thấy sự thanh tẩy của tôi đã có tác dụng và chúng tôi giờ đây đã an hòa? Vâng. Nhưng tôi đã từ chối lời đề nghị của anh. Anh là quá khứ, và tôi đã dọn sạch để nó đi qua. Tôi thương anh, tha thứ cho anh, và cầu chúc anh điều tốt lành.

Chúng ta hãy đi về phía trước.

Bài học lớn ở đây là gì?

Hãy hiểu rằng tấn tuồng này không hề là lỗi của bạn tôi, cũng không phải là lỗi của bất kỳ ai. Không ai là người có lỗi. Nguyên nhân là một chương trình. Đây là điều thiết yếu phải hiểu. Tôi đã nhận toàn bộ trách nhiệm đối với chương trình mà tôi nhận thức được trong chính bản thân mình. Khi tôi thanh tẩy chương trình đó, hoàn cảnh được giải quyết.

Đó là bài học trước tiên. Đó là lý do tôi chia sẻ câu chuyện này. Ngay cả với các tác giả và các đạo sư, vấn đề cốt lõi là thực hành Ho’oponopono để xóa các chương trình, ký ức và dữ liệu khác hầu trở lại với trạng thái yêu thương thuần khiết. Như Tiến sĩ Hew Len vẫn thường nói, “Tôi có mặt chỉ để dọn dẹp”.

Như bạn sẽ thấy qua sách này, cuộc sống luôn đưa đến những thách thức. Đó là bản chất của cuộc sống. Bí quyết để thoát khỏi ngục tù là thực hành Ho’oponopono. Trong khi tâm niệm bốn mệnh đề – Thương lắm, tôi xin lỗi, hãy tha thứ cho tôi, cảm ơn – ta đã xóa các chương trình và niềm tin bên trong mà không hề nhận biết, làm cho hành trình cuộc sống dễ dàng hơn. Ta càng thanh tẩy thì càng xóa nhiều dữ liệu và đến càng gần hơn với Siêu nhiên tức Zero.

Có thật dễ dàng như thế không? Phương cách này liệu có tác dụng luôn luôn? Tại sao cuộc sống dường như cứ tệ hại rồi mới trở nên tươi đẹp hơn?

Hãy đi cùng tôi, và chúng ta sẽ dấn sâu hơn vào cuộc phiêu lưu này…

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tiếng đờn ca ở tiệm hớt tóc

Published

on

Hồi ức Phú Nhuận

Đầu thập niên 1960, dân cư quanh khu Bàn Cờ thấy có một tiệm hớt tóc được mở ra ở số 405B đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu - TP.HCM), đoạn giữa chợ Vườn Chuối và đường Cao Thắng. Tiệm có tên Đời Mới, bảng hiệu vẽ ba đầu tóc đàn ông chải bồng kiểu tăng gô không khác gì những mái tóc của kép Dũng Thanh Lâm, kép Minh Phụng sau này. Tiệm không có gì đặc biệt, bề ngang chỉ 2,2m, nhưng ai nấy đều chú ý vì ở đó thỉnh thoảng lại có tiếng đờn ca cổ...

Ban đờn ca tài tử này, tuy lúc rảnh mới tụ lại với nhau mà tồn tại hơn chục năm. Dấu ấn của nó sâu đậm tới mức đến giờ người vùng Bàn Cờ còn nhắc, dù đã hơn 40 năm và các nhân vật trong câu chuyện này hầu như không còn mấy ai.

Ông Tư Triều, chủ tiệm hớt tóc Đời Mới vốn dân gốc ở quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa. Về Sài Gòn lập nghiệp giữa thập niên 1950 sau khi gãy đổ cuộc hôn nhân đầu, ông cưới vợ lần nữa và mở tiệm hớt tóc khi vừa có đứa con gái.

Tiệm cũng là nhà ở, ông sống cùng hai người thợ. Vì có máu văn nghệ, thích ca cổ lại có nghề làm nhạc cụ, ông biến tiệm hớt tóc của mình thành nơi đờn ca tài tử những lúc rảnh. Từ hồi trai trẻ, ông đã mê cải lương, đờn ca cổ nhạc bên cạnh những thú vui khác như đá gà, đua ngựa...

Bạn thân ông đều là người thích tiếng hát, tiếng đờn như bác Năm Trèo ở Hóc Môn, cha của nghệ sĩ cải lương Hoài Thanh. Trước khi có tiệm hớt tóc, giữa thập niên 50, ông chơi thân với nghệ sĩ tài danh Hữu Phước và danh hài Văn Hường. Lúc đó họ chưa nổi tiếng, ông gọi Hữu Phước là Ri vì ông này quốc tịch Pháp có tên Henry và nghệ danh Hữu Phước chưa xuất hiện.

Ông Tư Triều cắt tóc cho một người khách ái mộ cải lương (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Khách đến hớt tóc có đủ loại người, già trẻ lớn bé, từ người trong giới bình dân, trí thức, luật sư, cảnh sát, hoặc phục vụ trong quân đội Sài Gòn, có cả một vị bộ trưởng. Ông Tư Triều là người từng trải, lịch duyệt lại có máu nghệ sĩ nên giỏi ăn nói, rành chuyện cải lương, rành nhạc cụ cổ nhạc. Ông còn biết sửa chữa nhạc cụ. Thoạt đầu, ông mua đờn cũ mang về chỉnh sửa theo ý mình rồi đưa cho bạn bè trong nhóm đờn ca dùng thử. Đến khi cứng tay nghề, ông đến xưởng gỗ bên Chánh Hưng (quận 8) đặt từng thanh gỗ để làm cần đờn, mặt đờn.

Về nhà, ông tiếp tục gọt giũa từng chi tiết rất công phu. Ông tự chế keo dán gỗ, mua dây đàn nhập từ Tây Đức... Khi đờn hình thành, ông đem đi cẩn ốc xà cừ. Ông cầu kỳ đến mức mua đờn tranh, thấy 16 “con nhạn”(miếng gỗ kê dây đờn) không đẹp, đặt luôn những miếng gỗ hình tam giác mang về gọt giũa thành những “con nhạn” mới.

Từ khi nhóm đờn ca tài tử của ông bắt đầu tụ lại, khách đến đông thêm. Những người thường ghé chơi là mấy thầy dạy bên trường Quốc gia âm nhạc như bác Hai Khuê, bác giáo Thinh và bác Bảy Hàm, có nhạc sĩ Vĩnh Bảo, nghệ sĩ tiền phong Duy Lân, bác Mười Phú, chú Mười Hoa (nhạc phụ nghệ sĩ Viễn Sơn), nhạc sĩ nổi tiếng Văn Giỏi, anh Minh Hữu nghệ sĩ đờn kìm, bác Tư Tuất (nghệ sĩ đờn cò một thời của gánh Hương Mùa Thu, thân phụ các nghệ sĩ Hoài Dung, Hoài Mỹ)...

Trong số đó, ông Tư Triều thương anh Minh Hữu vì anh có tài và khiêm tốn, luôn nho nhã với sơ mi trắng và đeo kính cận. Sau này, khi gánh hát Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há lên tivi, bà mời anh Minh Hữu chơi đờn kìm cho tuồng của bà và ông Tư Triều rất sung sướng khi nhìn thấy cây đờn kìm ông làm được Minh Hữu dùng biểu diễn trên truyền hình.

Hầu hết họ đều là các nghệ sĩ đánh đờn, chỉ có vài giọng ca là anh Biện (hay Biền) to cao nhưng hiền lành. Một giọng khác là anh Ngọc, đẹp trai còn hơn nghệ sĩ với mái tóc chải ép, ca rất hay. Ngày đó không dễ gì liên lạc nhau nhưng không hiểu sao mấy nghệ sĩ tài tử này "đụng" nhau thường xuyên ở tiệm Đời Mới như đã hẹn hò từ trước. Mỗi tuần ông Tư Triều đều dành một buổi chơi đờn hay hòa đờn với nhau. Lâu lâu vào buổi tối ông mời bạn bè lên gác hát xướng, hòa điệu cho đến khuya.

Bà Tư niềm nở hiếu khách nên bạn bè ông Tư không ngại. Khách đến chơi, hứng thú khi nhìn chung quanh tiệm treo đầy những cây đờn. Ở nhà sau treo trên hai bên vách hơn 30 loại nhạc cụ (kìm, cò, tranh, sến, guitar, gáo, đoản...), có cây vĩ cầm trong chiếc hộp gỗ thiệt đẹp, bên trong lót vải nhung đỏ rực. Đó là tất cả gia tài và niềm đam mê của ông Tư Triều.

Chú bé Tâm, con trai út của ông Tư Triều nay đã ở tuổi năm mươi, sinh sống tại Đức còn nhớ những ngày vui đầu thập niên 1970 khi mới lên bảy. Lúc đó, cuộc sống còn dễ thở, khách đến đông và giới đờn ca tài tử thường xuyên đến góp vui. Mỗi lần tụ họp thường từ 9, 10 giờ sáng đến quá trưa rồi ai về nhà nấy. Khách qua đường thường đứng lại nghe đờn. Nếu có người ca thì người xem đông hơn.

Có chị hàng xóm dắt con đến cắt tóc, cũng xin ngồi vào ca vài bài, rất đúng nhịp trong khi đợi cậu con trai. Các chú các anh ít khi ca bài vọng cổ mà thường ca những bài cổ, khó hơn như Tây Thi, Lưu Thủy Trường, Xàng Xê, Tứ Đại Oán... Anh Ngọc, giọng ca chính có bài ca Phù Đổng Thiên Vương cách thể hiện rất hào hùng. Ông Tư Triều thỉnh thoảng cũng góp giọng, dù làn hơi yếu nhưng điệu ca lạ tai, vững nhịp.

Nhóm đờn ca tài tử ở tiệm hớt tóc Đời Mới (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Tâm còn nhớ nghệ sĩ Duy Lân thường chở cô học trò cưng Ngọc Hoa (bây giờ là nghệ sĩ Thoại Miêu) đến chơi. Thầy bảo hát gì là chị răm rắp nghe lời. Có lần, tàn cuộc thầy dắt chiếc xe Mobylette ra về, đạp hoài không nổ. Thầy bảo: “Phụ thầy đẩy đi con” là chị lập tức cột hai vạt áo dài trắng tinh, cong lưng đẩy ngay. Một lần Tâm chứng kiến ông Tư Triều đồng ý bán cây đờn do ông chế tác.

Số là trong số khách đến hớt tóc có trung tá X., luôn đi bằng xe Jeep. Anh này thích tiếng của cây đờn tranh, có mướn thầy về dạy riêng ở nhà. Anh kính mến ông Tư, nhiều khi tóc chưa dài cũng ghé cắt, chỉ để nói chuyện với ông. Anh mê một cây đờn tranh cẩn xà cừ rất đẹp của ông và sau nhiều lần thuyết phục, anh được ông Tư đồng ý đổi chiếc đờn lấy một tivi Sanyo 17 inch mới toanh, giá lúc ấy 90.000 đồng. Hẳn ông rất quý anh bạn trẻ và cũng muốn có tivi cho vợ con xem cải lương nên chấp nhận cho cây đờn ra đi.

Từ năm 1973, tiệm hớt tóc Đời Mới dần vắng khách. Kinh tế lúc đó bắt đầu đi xuống do người Mỹ rút đi. Chính quyền đặt ra loại thuế T.V.A (trị giá gia tăng), ngoài thuế môn bài. Tất cả cửa tiệm kinh doanh đều phải kê khai từ ngày thành lập cho đến thời điểm hiện tại và phải đóng một số tiền khổng lồ, nếu không thì dẹp. Ông Tư Triều quyết định đóng cửa tiệm lui về Củ Chi trồng rau nuôi gà và cắt tóc cho dân quanh vùng mưu sinh, cuối tuần lại về Sài Gòn thăm vợ con.

Mấy mươi năm theo tiếng đờn ca của những ban nhạc tài tử, ông gặp đủ loại người. Nhưng không bao giờ gặp lại những bạn bè cùng đi hát trên xe vespa từ khi họ nổi danh, thậm chí còn không nhận ra ông là người quen. Đó là lý do ông không thích đến rạp hát nữa. Nhóm đờn ca tài tử, nơi quy tụ những người cùng ngân nga những bài ca cổ đề cao nhân hiếu tiết nghĩa, cũng là nơi lui tới của những người “vui đâu chầu đó”, điều đó không có gì lạ.

Năm 1979, Tâm gặp lại anh trung tá năm xưa mua cây đờn tranh. Biết tin ông Tư đã về Củ Chi, anh buồn buồn chia tay. Sau đó vài năm, ông Tư Triều mất vì tai biến lúc Tâm đã ra nước ngoài.

Ông Tư Triều và ban đờn ca tài tử của ông chỉ là một mảnh nhỏ xíu trong đời sống văn hóa người Sài Gòn - Gia Định. Họ có thể vô danh hay hữu danh, yêu lời ca tiếng nhạc bằng tâm hồn rộng mở, hồn nhiên và tình cờ góp phần tạo nên mạch ngầm chảy âm ỉ nhưng đủ sức nuôi dưỡng vốn cổ văn hóa của ông bà, từ thời mở cõi vô Nam.

Hồi ức Phú Nhuận | Phạm Công Luận

Đọc bài viết

Cafe sáng