Trích đăng

Gieo trồng điều tốt – Trích “Lập trình hạnh phúc”

Published

on

Dựa trên nền tảng khoa học về bộ não, Tiến sĩ Rick Hanson – tác giả có lượng sách bán chạy nhất New York Times đã viết quyển sách Lập trình hạnh phúc vô cùng thiết thực này với đầy đủ các phương pháp dễ thực hành để phát triển cảm giác cân bằng, ổn định, nhận thức giá trị bản thân và đạt được sự bình an nội tâm.

“Tôi sẽ chỉ cho bạn cách làm sao biến các khoảnh khắc tốt đẹp thành một bộ não vĩ đại, tin tưởng vào giá trị bản thân và cảm giác được quan tâm. Đây chẳng phải những giây phút đáng giá triệu đô gì cả. Chỉ đơn giản là cảm giác dễ chịu khi mặc vào chiếc áo len ưa thích, thưởng thức một tách cà phê, cảm nhận sự ấm áp từ một người bạn, hài lòng sau khi hoàn thành một nhiệm vụ, hay là cảm nhận được tình yêu từ người bạn đời.”

  • Trích từ: Lập trình hạnh phúc
  • Tác giả: Rick Hanson
  • Phát hành: Tháng 10.2020
  • Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

*

CHƯƠNG 1
Gieo trồng điều tốt

Lúc còn đi học, tôi nhỏ hơn mấy đứa bạn cùng lớp một, hai tuổi, một cậu bé nhút nhát, gầy gò, ngốc nghếch đeo kính. Chẳng có gì tệ hại xảy ra với tôi cả, nhưng tôi có cảm giác như là mình đang quan sát người khác qua một bức tường bằng kính. Như một kẻ lạc loài, bị phớt lờ, bị coi thường, không ai muốn ở gần. Vấn đề của tôi nếu so với người khác thì không có gì to tát. Nhưng tất cả chúng ta về cơ bản đều mong muốn được cảm thấy mình hiện diện và có giá trị với người khác, đặc biệt khi còn là con trẻ. Khi những nhu cầu này không được thỏa mãn, ta cảm giác như thể đang sống nhờ xúp loãng. Bạn sẽ sống sót, nhưng không bao giờ cảm thấy mình có đầy đủ dinh dưỡng. Với tôi, đó là cảm giác như thể có một lỗ hổng to lớn bên trong, một khoảng trống trong tim.

Nhưng khi lên đại học, tôi chạm đến một điều gì đó có vẻ như rất đặc biệt vào lúc đó, và đến giờ vẫn có giá trị đáng kể với tôi. Một điều nhỏ bé nào đó đã xảy ra. Có lẽ là vài cậu bạn đã bảo “Đi nào, mình cùng đi ăn pizza”, hay một cô gái nào đó đã mỉm cười với tôi. Không quan trọng. Nhưng tôi phát hiện ra nếu tôi để sự kiện tốt đẹp ấy trở thành một trải nghiệm thú vị, chứ không phải chỉ là một ý tưởng, và lưu lại nó ít nhất trong vài hơi thở, chứ không vội vàng phủi đi hay xoay qua thứ khác thật nhanh, thì nó tạo cảm giác như thể điều tốt đẹp đã thấm vào bên trong tôi, trở thành một phần của tôi. Thực tế là tôi đã tiếp nhận điều tốt đẹp – khoảng chục giây vào lúc ấy. Nó nhanh chóng, dễ dàng mà lại rất dễ chịu. Tôi bắt đầu cảm thấy khá hơn.

Lúc ban đầu, khoảng trống trong tim tôi có vẻ to như một chiếc hồ bơi rỗng tuếch. Nhưng khi tôi bắt đầu thu nhận mỗi ngày một vài trải nghiệm được đón nhận, được cảm kích,
được quan tâm, thì tôi cảm thấy như mình đang đổ vài xô nước vào chiếc hồ. Từng ngày một, từng xô một, từng tháng một trôi qua. Tôi dần lấp đầy khoảng trống ấy trong lòng mình. Cách làm này đã nâng tinh thần tôi lên và giúp tôi cảm thấy càng lúc càng dễ chịu, tươi vui và tự tin.

Nhiều năm sau đó, sau khi đã trở thành nhà tâm lý học, tôi hiểu ra vì sao cách làm này tưởng chừng như nhỏ bé nhưng lại có thể tạo nên khác biệt lớn lao đến vậy đối với mình. Tôi đã đan kết được sức mạnh bên trong với tấm thảm tâm trí mình, bộ não cũng như đời sống của bản thân – đó là ý tôi muốn trình bày khi nói đến “lập trình hạnh phúc”.

Sức mạnh nội tại

Tôi hay đi leo núi và thường phải phụ thuộc vào những thứ có trong ba-lô của mình. Sức mạnh nội tại chính là nguồn dự trữ bạn có trong ba-lô trên hành trình bạn vượt qua các bước ngoặt và thường là những đoạn đường khó đi trong đời. Chúng gồm có tâm trạng tích cực, kiến thức cơ bản, lòng chính trực, bình an nội tại, lòng quyết tâm và một trái tim ấm áp. Các nhà nghiên cứu còn xác định thêm các sức mạnh khác nữa, chẳng hạn như lòng trắc ẩn với bản thân, sự gắn kết an toàn, trí tuệ cảm xúc, tính lạc quan học được, phản xạ thư giãn, lòng tự trân trọng, khả năng dung nạp căng thẳng, khả năng tự điều hòa, năng lực phục hồi, và năng lực thực thi. Tôi sử dụng từ sức mạnh với nghĩa rộng để bao gồm cả các cảm giác tích cực như bình tâm, sự mãn nguyện, và sự quan tâm, cũng như các kỹ năng, các xu hướng và góc nhìn hữu ích, cộng với các đặc tính được biểu hiện ra ngoài như sinh khí hay sự thư thái. Không giống như các trạng thái tinh thần thoáng qua, sức mạnh nội tại là các nét đặc trưng ổn định, là nguồn sống khỏe mạnh bền vững, là hành động cũng như đóng góp hữu hiệu và thông thái cho mọi người.

Ý tưởng về sức mạnh nội tại có thể ban đầu nghe có vẻ trừu tượng. Nào ta hãy đưa nó xuống mặt đất với vài ví dụ cụ thể sau. Báo thức vang lên và bạn muốn ngủ nướng – thế là bạn tìm đến sức mạnh ý chí để rời giường. Giả dụ bạn có con nhỏ, lũ trẻ đang cãi vã bực dọc – thay vì quát thét thì bạn tìm về nơi nào đó bên trong, vững vàng thay vì giận dữ. Bạn bối rối với một sai sót trong công việc – thế là bạn gợi nhớ lại cảm giác mình có giá trị từ các thành quả trước đây. Bạn căng thẳng với những cạnh tranh xung quanh – thế là bạn tìm đến sự bình yên trong vài hơi thở ra thật sâu. Bạn thấy buồn vì không có ai đồng hành – thế là bạn tìm sự ủi an khi nghĩ đến những người bạn mình đang có. Trong suốt ngày dài của bạn, các sức mạnh nội tại vẫn luôn vận hành tự động bên trong tâm trí, chẳng hạn như cảm giác về tầm nhìn, về lòng tin, hay là cảm giác tự nhận thức về bản thân.

Có một ý tưởng nổi tiếng trong y khoa và tâm lý học rằng cách bạn cảm nhận và hành động – cả trong hành trình đời mình cũng như trong hoàn cảnh hay các mối quan hệ đặc thù – được quyết định bởi ba yếu tố: thách thức bạn đối mặt, điểm yếu ớt mà các thử thách này gây ra, và các sức mạnh bạn có để xử lý được các thử thách này và bảo vệ được điểm yếu ớt của mình. Ví dụ, thách thức từ một người chủ hay chỉ trích có thể bị phóng đại lên nhiều lần bởi điểm yếu hay lo âu của một người, nhưng người này hoàn toàn có thể đương đầu bằng cách tìm đến sức mạnh bên trong của mình, tự xoa dịu bản thân và cảm giác được tôn trọng từ người khác.

Tất cả chúng ta đều có những điểm yếu ớt dễ bị tổn thương. Cá nhân tôi ước gì mình không quá dễ bị lo âu và tự chỉ trích bản thân như vậy. Và cuộc sống thì không bao giờ thiếu thử thách, từ chuyện vặt như cuộc gọi nhỡ cho đến những vấn đề lớn hơn như tuổi già, bệnh tật và cái chết. Bạn cần có sức mạnh đương đầu với khó khăn và những điểm yếu ớt, và khi một trong hai điều này phát triển lên, thì sức mạnh của bạn cũng phải tiến triển tương ứng với chúng. Nếu bạn muốn cảm thấy ít căng thẳng hơn, ít lo âu, bực dọc, khó chịu, ít cảm thấy trầm uất, thất vọng, cô đơn hơn, ít cảm giác tội lỗi, bị tổn thương, hay cảm giác thiếu thốn, thì sức mạnh bên trong sẽ giúp được bạn.

Sức mạnh nội tại là nền tảng cho một cuộc đời hạnh phúc, hiệu quả và tràn đầy yêu thương. Ví dụ, nghiên cứu trên một sức mạnh – cảm xúc tích cực – đã cho thấy nó có thể giảm bớt căng thẳng và tính phản ứng thụ động, giúp chữa lành các vết thương tâm lý và cải thiện năng lực phục hồi, tình trạng khỏe mạnh nói chung, và mức độ mãn nguyện trong cuộc sống. Cảm xúc tích cực khuyến khích ta tìm kiếm cơ hội, tạo ra những vòng lặp tích cực và thúc đẩy thành công. Chúng còn làm tăng cường hệ miễn dịch, bảo vệ trái tim của chúng ta, và nuôi dưỡng một cuộc đời lành mạnh dài lâu.

Trung bình có khoảng một phần ba sức mạnh của một người là bẩm sinh, được tích hợp sẵn vào trong tính khí di truyền, tài năng, khí sắc và nhân cách của họ. Hai phần ba kia được phát triển theo thời gian. Bạn có được bằng cách nuôi trồng chúng. Đối với tôi đây là tin tốt, bởi lẽ điều đó có nghĩa là chúng ta có thể phát triển hạnh phúc và các sức mạnh nội tại có lợi cho sự hài lòng, tình yêu, và tính hiệu quả, cũng như sự thông tuệ và bình an nội tâm. Tìm hiểu cách làm thế nào để nuôi trồng các sức mạnh bên trong này có lẽ là điều quan trọng nhất bạn từng học. Quyển sách này viết về điều đó.

Trong khu vườn

Hãy hình dung tâm trí bạn như một khu vườn. Bạn có thể đơn giản là ở cùng nó, nhìn ngắm các thảm cỏ và hoa, không cần phải phán xét hay thay đổi gì cả. Hoặc là, bạn có thể nhổ vài cọng cỏ bằng cách giảm bớt một số cái tiêu cực trong đầu mình. Hoặc bạn còn có thể trồng thêm hoa bằng cách tăng thêm điều tích cực trong tâm mình. (Hãy xem quan niệm của tôi về tích cực và tiêu cực ở ô trong trang 26.) Về cơ bản bạn có thể quản lý tâm trí mình theo ba cách chính: để nó diễn ra như thế, buông bỏ, tiếp nhận. Quyển sách này viết về cách thứ ba, gieo trồng sức mạnh nội tại: gieo trồng những bông hoa trong khu vườn tâm trí. Để giúp bạn làm được điều này hiệu quả nhất, tôi muốn liên hệ nó với hai cách thức tiếp cận tâm trí.

Ở cùng tâm trí của mình

Hãy để tâm trí của ta như vậy, đơn giản chỉ cần quan sát trải nghiệm của mình, cho phép bản thân khuây khỏa và nhìn toàn cảnh, như thể bạn bước ra khỏi màn hình chiếu phim và quan sát mọi thứ từ đằng sau cách đó hai mươi hàng ghế.

THẾ NÀO LÀ TÍCH CỰC?

Với từ tích cực và tốt, ý tôi là những thứ dẫn đến hạnh phúc cũng như tạo ra lợi ích cho bản thân người đó và người khác. Tiêu cực và xấu nghĩa là những gì dẫn đến đau khổ và tổn hại. Tôi đang nói về mặt ngữ nghĩa thực dụng, không bàn trên khía cạnh đạo đức hay tín ngưỡng.

Trải nghiệm tích cực thường tạo cảm giác tốt đẹp. Bên cạnh đó, một số trải nghiệm gây cảm giác tồi tệ nhưng lại đưa đến kết quả tốt đẹp, cho nên tôi cũng gọi đó là tích cực. Ví dụ, cơn đau do vết bỏng trên tay khi chạm vào lò nóng, cơn lo âu khi không tìm thấy con ở công viên, và nỗi hối hận khiến ta quyết tâm cư xử cao thượng, có thể gây ra cảm giác khó chịu bây giờ nhưng sẽ có ích và giúp ta cảm thấy tốt hơn về sau.

Tương tự, trải nghiệm tiêu cực thường gây cảm giác tồi tệ. Cũng vậy, có những trải nghiệm tạo cảm giác tốt đẹp nhưng lại có hậu quả xấu, nên tôi cũng cho đó là tiêu cực. Sự hưng phấn sau ba cốc bia hay cảm giác trả đũa có được khi ngồi buôn chuyện về người vừa đối xử tệ với bạn có thể tạo ra cơn khoái chí tạm thời, thế nhưng lợi bất cập hại bạn ạ! Những trải nghiệm như vậy làm ta dễ chịu tức thời nhưng sau đó thì rất tệ.

Để cho dòng ý thức chạy tự do có thể giúp bạn ngừng đuổi theo những điều dễ chịu cũng như thôi vật vã với những thứ khó chịu. Bạn có thể trải nghiệm đời sống của mình với niềm hứng thú và (mong là) với sự tử tế với bản thân, và có thể kết nối với các tầng lớp mềm mại hơn, dễ bị tổn thương hơn và hẳn là non nớt hơn bên trong tâm trí mình. Khi xét đến khả năng nhận thức có tính chấp nhận và bớt tính phản ứng thụ động thì suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực của ta đôi lúc có thể tan ra ngay lập tức như sương sớm trong một ngày đầy nắng.

Làm việc với tâm trí

Nhưng mà chỉ ở cùng với tâm trí thôi chưa đủ. Bạn còn cần phải làm việc với nó, tạo ra các nỗ lực khôn ngoan, nhổ cỏ và trồng hoa. Chỉ thuần quan sát căng thẳng, lo âu, bực dọc
hay một tâm trạng buồn bã sẽ không đào được tận gốc những vấn đề này. Như bạn sẽ thấy trong chương tiếp theo, não ta tiến hóa để học hỏi rất tốt từ các trải nghiệm tiêu cực, và nó lưu trữ chúng trong các cấu trúc thần kinh bền vững. Cũng vậy, chỉ ở đó với tâm trí sẽ không phát triển được lòng biết ơn, nhiệt huyết, lòng chân thật, tính sáng tạo hay nhiều sức mạnh nội tại khác. Các phẩm chất tinh thần này được đặt nền tảng trên các cấu trúc thần kinh sâu bên trong, chúng sẽ không nảy nòi và phát triển một cách tự thân. Thêm nữa, để có thể hoàn toàn ở đó cùng khu vườn tâm trí, bạn cần phải hợp tác với nó để phát triển các sức mạnh nội tại như sự bình tâm và năng lực tự soi chiếu để có thể giúp bản thân bạn cảm nhận toàn bộ cảm xúc của mình cũng như đối mặt với những góc tối bên trong ngay cả khi khó khăn nhất. Bằng không, mở lòng với trải nghiệm sẽ tựa như đang mở ra chiếc nắp hầm dẫn đến Địa ngục.

Giữ tâm tỉnh thức

Bất kể là bạn đang để mọi chuyện như thế, đang buông bỏ hay đang tiếp nhận, hãy luôn tỉnh thức, đơn giản nghĩa là hiện diện trong khoảnh khắc hiện tại từng giây từng phút. Tự thân sự tỉnh thức vốn chỉ có quan sát, nhưng việc quan sát ấy có thể đi kèm nỗ lực có chủ đích hướng tới mục tiêu định hướng tâm trí ta theo hướng này hay hướng khác. Làm việc với tâm trí không mâu thuẫn với sự tỉnh thức. Thực tế là, bạn cần phải làm việc với tâm trí mình mới có thể dựng xây nên sức mạnh nội tại của sự tỉnh thức.

Hãy tỉnh táo với thế giới bên ngoài lẫn thế giới nội tâm của bạn, với cả sự vật sự việc xảy ra chung quanh lẫn cái cách bạn cảm nhận chúng. Tỉnh thức không đơn thuần chỉ là tự nhận thức bản thân. Khi leo núi đá, tôi cực kỳ ý thức về việc người bạn đồng hành hãm dây bảo hộ cho mình và luôn ngoái đầu tìm kiếm tôi đang ở tít bên dưới!

Hệ quả tự nhiên

Khi điều gì đó vất vả hay khó chịu xảy ra – khi một cơn bão ập tới khu vườn của bạn – thì có ba cách vận động tâm trí của mình, giúp đem đến cho bạn một hệ quả từng bước hữu dụng. Đầu tiên, hãy ở đó với trải nghiệm của mình. Quan sát và chấp nhận nó như bản chất của nó, cho dù đau đớn đến mức nào. Thứ hai, khi đến thời điểm – có thể tính bằng giây với một cơn lo âu quen thuộc hay tính bằng tháng bằng năm khi mất đi một người thân yêu – hãy bắt đầu buông bỏ những điều tiêu cực. Ví dụ, hãy thư giãn cơ thể mình để giảm bớt căng thẳng. Thứ ba, một lần nữa khi đến thời điểm, sau khi đã giải tỏa một phần hay toàn bộ sự tiêu cực, hãy thay thế nó với điều gì đó tích cực. Ví dụ, bạn có thể nhớ đến lúc có ai đó trân trọng mình thì cảm giác như thế nào, và ở lại với trải nghiệm ấy chừng mười đến hai mươi giây. Bên cạnh cảm giác tốt đẹp vào lúc đó, bước thứ ba này còn có các ích lợi lâu dài, vì khi bạn đang thu nhận các trải nghiệm tích cực vào trong thì bạn không chỉ đang trồng hoa trong tâm trí mình đâu. Bạn đang gieo trồng các luồng thần kinh mới trong não mình. Bạn đang lập trình hạnh phúc.

Tính mềm dẻo thần kinh dựa trên trải nghiệm

Não bộ là một cơ quan có khả năng học hỏi, cho nên nó được thiết kế để thay đổi bởi trải nghiệm. Điều này đến nay vẫn còn làm tôi kinh ngạc, nhưng mà đó là sự thật: bất cứ điều gì chúng ta cảm giác, cảm nhận và mong muốn cũng như suy nghĩ lặp đi lặp lại, dù là chậm nhưng chắc chắn rằng chúng đang khắc nên một cấu trúc thần kinh. Trong khi bạn đang đọc, một khối mô nặng khoảng 1,5kg trông giống đậu hũ bên trong đầu bạn, bao bọc trong một nghìn tỷ tế bào nâng đỡ, có từ 80 đến 100 tỷ nơ-ron đang phát tín hiệu cho một tế bào khác trong một mạng lưới với nửa triệu tỷ liên kết, được gọi là các khớp thần kinh synapse. Toàn bộ hoạt động thần kinh phức tạp, nhanh chóng và nhộn nhịp này vẫn luôn đang điều chỉnh não bạn liên tục. Các khớp thần kinh năng động trở nên nhạy cảm hơn, các khớp thần kinh mới bắt đầu phát triển chỉ trong vài phút, các trung khu bận rộn được nhận nhiều máu hơn bởi chúng cần nhiều oxy và đường glucose hơn để công tác, và bộ gien bên trong tế bào thần kinh sẽ tắt bật tùy theo nhu cầu. Trong khi đó, các kết nối ít năng động hơn thì bắt đầu tàn lụi đi trong một quá trình mà đôi khi được gọi là thuyết Darwin thần kinh: kẻ sống sót là kẻ bận rộn nhất.

Tất cả hoạt động của tâm trí – hình ảnh và âm thanh, suy nghĩ và cảm giác, ý thức và vô thức – đều đặt nền tảng trên hoạt động thần kinh bên dưới. Quá nhiều hoạt động thần kinh ào ạt chảy qua não như những gợn sóng lăn tăn trên dòng sông, không để lại mấy tác động trên dòng chảy của mình. Nhưng một hoạt động thần kinh có cường độ mạnh, kéo dài hoặc là lặp đi lặp lại – đặc biệt khi nó có tính ý thức – sẽ để lại một dấu ấn lâu bền trong cấu trúc thần kinh, giống như một dòng chảy mạnh mẽ trào dâng làm biến dạng lòng sông vậy. Như người ta bảo trong khoa học thần kinh: tế bào thần kinh nào bắn tín hiệu cho nhau thì liên kết với nhau. Trạng thái tinh thần trở thành nét đặc trưng thần kinh. Từng ngày trôi qua, tâm trí đang đắp nặn bộ não của bạn.

Các nhà khoa học gọi đây là tính mềm dẻo thần kinh dựa trên trải nghiệm, một lĩnh vực nghiên cứu mới khá nổi bật hiện nay. Lấy ví dụ, các tài xế taxi ở London có khả năng ghi nhớ mạng lưới đường sá rối rắm như đĩa mì spaghetti sẽ có những lớp thần kinh dày đặc trong khu hồi hải mã, vùng não giúp hình thành trí nhớ không gian-thị giác; như thể họ đang tập luyện để lên cơ bắp, các tài xế này vận động rèn luyện một vùng não của mình và phát triển mô mới ở đó. Đó là câu chuyện về các tài xế taxi; lại nói về những người thiền tỉnh thức, họ có trong não mình vùng chất xám rất phát triển – nghĩa là một vỏ não dày hơn – trong ba khu vực chính: vỏ não trán trước đằng sau trán kiểm soát sự tập trung; thùy đảo, được dùng để thấu hiểu bản thân và người khác; và hồi hải mã. Trải nghiệm của ta không chỉ phát triển khớp thần kinh mới, vốn đã vô cùng đáng nể, mà một cách nào đấy còn vươn vào trong bộ gien của ta – đến các dải nguyên tử nhỏ bé trên chiếc thang xoắn phân tử DNA bên trong hạt nhân của các tế bào thần kinh – và thay đổi cách chúng vận hành. Ví dụ, nếu bạn thường kỳ luyện tập thư giãn, thì hoạt động của gien có chức năng điều hòa phản ứng căng thẳng sẽ gia tăng, khiến bạn dẻo dai hơn và có năng lực phục hồi tốt hơn.

Thay đổi não bộ theo chiều hướng tốt hơn

Nếu bạn lui một bước để nhìn bao quát các chi tiết khoa học này, sẽ có một thực tế nổi bật lên trước mắt: trải nghiệm của ta có giá trị quan trọng. Không chỉ trong cách chúng ta cảm thấy như thế nào vào thời điểm ấy mà còn trong các dấu hằn bền vững chúng để lại trên não bộ chúng ta. Trải nghiệm của ta về hạnh phúc, phiền muộn, tình yêu, và lo âu có thể tạo nên thay đổi thực thụ trong mạng lưới thần kinh của mình. Quá trình xây dựng cấu trúc hệ thần kinh này được tiếp thêm năng lượng bởi trải nghiệm có ý thức, và đặc biệt bởi những gì hiện diện nổi bật nhất trước nhận thức của bạn. Sự chú ý của bạn giống như là sự kết hợp của đèn pha và máy hút bụi: nó làm bật lên những thứ nó bắt thấy trước mắt và sau đó hút tọt vào não bạn – theo chiều hướng tốt hơn hoặc tệ hơn.

Dân gian có câu rằng tâm trí ta sẽ định hình từ cái mà nó tựa vào. Dựa trên những gì ta học được về tính mềm dẻo thần kinh dựa trên trải nghiệm, một phiên bản hiện đại có thể phát biểu rằng, bộ não ta định hình từ cái mà nó tựa vào. Nếu bạn vẫn tiếp tục đặt tâm trí trên các nền tảng như tự chỉ trích, lo âu, căng thẳng, tổn thương, oán thán người khác, thì não bạn rồi sẽ định hình theo cách thức phản ứng thụ động nhiều hơn, yếu ớt trước lo âu và trầm uất nhiều hơn, tâm trí bạn rồi sẽ chỉ còn tập trung rất hẹp vào các mối nguy hại và mất mát, và có xu hướng thiên về giận dữ, buồn đau và cắn rứt. Ngược lại, nếu bạn đặt tâm trí mình vào những hoàn cảnh và sự kiện tốt đẹp (ai đó tử tế với bạn, bạn vẫn còn nhà để về), cảm giác dễ chịu, những điều bạn đã làm được, những niềm vui về thân thể hay vật chất, và các dự định hay phẩm chất tốt đẹp, thì theo thời gian bộ não của bạn sẽ nhận lấy một hình dạng khác, một hình dạng có sức mạnh và khả năng phục hồi được lập trình, cũng như một cái nhìn lạc quan thực tế, một tâm trạng tích cực, và một cảm giác về giá trị nội tại. Hãy nhìn lại tuần vừa qua hay trước đó nữa, bạn đã đặt tâm trí mình dựa vào đâu là chủ yếu?

Trên thực tế, cái mà bạn chú tâm vào – cái mà bạn đặt tâm trí mình vào – chính là yếu tố định dạng chính cho não bạn. Đúng là có một số thứ tự động bắt lấy sự chú ý của một người – chẳng hạn như một rắc rối ở chỗ làm, một cơn đau trên cơ thể, hay một cơn lo âu nghiêm trọng – nhưng nhìn chung thì bạn có nhiều ảnh hưởng lên những điều mà tâm trí mình để tâm. Điều này có nghĩa là bạn hoàn toàn có thể chủ động kéo dài hay thậm chí là tạo ra các trải nghiệm có khả năng định hình lại não bạn theo cách tốt hơn.

Tôi sẽ chỉ cho bạn cách làm chi tiết, bắt đầu từ Chương 4. Trong khi đó, hãy thoải mái thu nhận điều tốt đẹp vào lòng ngay bây giờ. Phương pháp này, kết hợp với một trải nghiệm tích cực, được cô đọng chỉ trong bốn chữ: có nó, và tận hưởng (nó). Và hãy tự mình chứng kiến điều gì sẽ xảy ra khi bạn làm được.

Các trải nghiệm có lợi cho bạn nhất

Ngẫm thật kỹ về khu vườn tâm trí của mình lúc này, bạn thấy hoa nào nên được gieo trồng? Một số loại trải nghiệm nhất định sẽ có lợi cho bạn nhiều hơn những cái khác.

Đúng là trải nghiệm tiêu cực có thể có giá trị cho một người. Lấy ví dụ, làm việc ca đêm ở nhà máy đóng chai vào một mùa hè khi còn học đại học đã trui rèn tôi thành một người kiên cường. Thế nhưng trải nghiệm tiêu cực tự thân nó mang theo tác dụng phụ tiêu cực, chẳng hạn như sự bực bội về tâm lý hay hệ quả căng thẳng kéo theo về sức khỏe. Chúng còn có thể tạo ra xung đột với người khác, hay làm tệ hơn các xung đột này. Khi vợ chồng tôi mệt mỏi và kiệt sức trong việc nuôi dạy hai đứa con nhỏ, chúng tôi quát nạt nhau thường xuyên hơn. Cái giá của trải nghiệm tiêu cực thường kỳ vượt quá giá trị của nó, và thường thì chẳng có lợi ích gì cả, chỉ toàn là đau đớn chứ không được lợi gì. Cũng bởi tế bào thần kinh nào bắn tín hiệu cho nhau thì liên kết với nhau, cho nên nếu bạn ở lại với trải nghiệm tiêu cực mà đã vượt quá giá trị hữu dụng của nó thì đồng nghĩa với việc chạy đua nhiều vòng ở Địa ngục: bạn đào cái rãnh trong não mỗi lúc một sâu hơn mỗi khi bạn chạy qua nó một vòng lại một vòng.

Ngược lại, trải nghiệm tích cực thì luôn luôn có lợi và ít khi đau đớn. Chúng thường tạo cảm giác tốt đẹp tại thời điểm đó. Thêm nữa, cách trực tiếp nhất để phát triển các sức mạnh nội tại như lòng kiên tâm, cảm giác về bức tranh toàn cảnh, cảm xúc tích cực, và lòng trắc ẩn, đó là có được các trải nghiệm về các sức mạnh này ngay từ đầu. Nếu bạn muốn phát triển lòng biết ơn, hãy đặt tâm trí bạn vào cảm giác biết ơn. Nếu bạn muốn cảm thấy được yêu thương nhiều hơn, hãy tìm kiếm và ở lại với trải nghiệm mà trong đó bạn cảm thấy mình được đón nhận, nhìn nhận, công nhận, được yêu mến, và được bảo bọc. Câu trả lời cho câu hỏi về việc làm thế nào để gieo trồng điều tốt trong tâm trí nằm ở đây: tiếp nhận các trải nghiệm về chúng. Việc ấy sẽ đan bện chúng vào trong não bạn, hình thành các dòng thần kinh về chúng, giúp bạn mang chúng theo bên mình đến mọi nơi.

Bên cạnh việc gieo trồng các sức mạnh nội tại đặc hiệu cho bản thân, việc tiếp nhận điều tốt có những lợi ích tổng quát đi kèm như tính chủ động thay vì bị động, cư xử với bản thân như một người có giá trị, và tăng cường sức tập trung của mình. Thêm nữa, ta sẽ đọc thấy trong Chương 3, theo thời gian bạn có thể dần dần khiến bộ não mình nhạy cảm hơn với trải nghiệm tích cực để chúng trở thành các sức mạnh nội tại nhanh hơn và dễ dàng hơn.

Tính mềm dẻo thần kinh tự định hướng

Một nhà thần kinh học bạn tôi từng mô tả não bộ như một cái “bánh pudding bằng bột năng”. Trông như một đốm nhơm nhớp không có gì hấp dẫn. Thế nhưng nó là cơ quan chủ lực trong cơ thể người và là nguồn lực chính bên trong cho tình trạng lành mạnh của bạn, tính hiệu quả mỗi ngày, sự chữa lành về tâm lý, phát triển cá nhân, tính sáng tạo, và thành công. Bất kể bạn cảm thấy giận dữ hay đang thư giãn, bực bội hay mãn nguyện, cô đơn hay được yêu, tất cả đều phụ thuộc vào mạng lưới thần kinh của bạn. Xa hơn nữa, cách bộ não tương tác chính là cơ sở cho các mối quan hệ đủ đầy, các tổ chức thành công, các quốc gia thịnh vượng, và đích đến sau cùng, là cơ sở cho việc liệu ta có sống trong một thế giới hòa bình và phát triển bền vững hay không.

Khoa học về tính mềm dẻo dựa trên trải nghiệm cho thấy mỗi người đều có năng lực thay đổi bộ não của chính mình theo chiều hướng tốt hơn – và đó được Jeffrey Schwartz gọi là tính mềm dẻo thần kinh tự định hướng. Nếu bạn không lợi dụng sức mạnh này cho mình, thì các thế lực khác sẽ định hình não bạn thay cho bạn, chẳng hạn như áp lực ở chỗ làm hay ở nhà, công nghệ và truyền thông, những người hay thúc ép, tác dụng dai dẳng từ các trải nghiệm đau thương trong quá khứ và kể cả, như ta sẽ xem xét trong chương tới, Mẹ Thiên Nhiên nữa.

Mặt khác, với những cách nhanh, dễ làm và thú vị, trong dòng chảy cuộc sống đời thường của mình, bạn có thể sử dụng quyền năng của tính mềm dẻo thần kinh tự định hướng để xây nên một cảm giác lâu dài về sự thư thái, tự tin, chấp nhận bản thân, lòng tử tế, cảm giác được yêu thương, mãn nguyện, và bình an nội tâm. Về cốt lõi, việc bạn cần làm với những phương pháp trong sách này thực ra rất đơn giản: biến các trải nghiệm tốt đẹp mỗi ngày thành một cấu trúc thần kinh tích cực. Nói một cách công nghệ hơn, đó là: bạn sẽ kích hoạt các trạng thái tinh thần và rồi cài đặt chúng thành các nét đặc trưng thần kinh. Khi cần đến, bạn sẽ có thể rút ra sử dụng các đặc trưng này, khi chúng đã trở thành sức mạnh nội tại của bạn, khi ấy điều tốt đẹp đã được cấy vào tâm trí bạn.

Bạn sẽ sử dụng tâm trí mình để thay đổi não bộ và rồi để não bộ thay đổi tâm trí bạn theo hướng tốt hơn. Từng mẩu một, từng khớp thần kinh một, bạn hoàn toàn có thể xây dựng hạnh phúc vào trong não bộ của mình.

Và bằng cách này, bạn sẽ vượt qua được thiên kiến tiêu cực: não bộ giỏi học hỏi từ trải nghiệm xấu, nhưng kém cỏi trong việc học từ trải nghiệm tốt. Khi bạn đọc chương tiếp theo, bạn sẽ thấy nếu tâm trí là một khu vườn thì “đất” của bộ não sẽ màu mỡ dinh dưỡng cho cỏ hơn là hoa. Vì thế, điều vô cùng quan trọng là ta phải gieo trồng hạt giống sức mạnh nội tại bằng cách liên tục thu nhận điều tốt vào lòng.

THẤM NHẬP VÀO LÒNG

  • Sức mạnh nội tại của một người bao gồm sự bình yên, sự mãn nguyện, và tình yêu, cũng như khả năng phục hồi, tự tin, lòng kiên tâm và tri kiến nội tại. Các sức mạnh này giúp bạn đương đầu với những khó khăn trong đời, hồi phục lại từ căng thẳng, hàn gắn các đau thương cũ, duy trì thể trạng và tinh thần khỏe mạnh, hoàn thành được những điều muốn làm ở nhà cũng như chỗ làm, cũng như có thể nhẫn nại và quan tâm đến người chung quanh.
  • Phần lớn các sức mạnh nội tại được hình thành phát triển theo thời gian. Quyển sách này viết về công cuộc gieo trồng các sức mạnh bên trong thông qua trải nghiệm tích cực, đó chính là lập trình hạnh phúc.
  • Đơn giản quan sát tâm trí của mình đã là một việc cực kỳ hữu ích, nhưng bạn còn cần phải giảm bớt những tiêu cực và gia tăng điều tích cực. Tôi tập trung vào việc gia tăng điều tích cực: trồng hoa trong khu vườn tâm trí. Đồng nghĩa với thay đổi cấu trúc não bộ của bạn.
  • Tất cả hoạt động của tâm trí – hình ảnh và âm thanh, suy nghĩ và cảm giác, ý thức và vô thức – đều đặt nền tảng trên hoạt động thần kinh bên dưới. Hoạt động thần kinh/ tinh thần lặp đi lặp lại đều để lại các thay đổi bền vững trong cấu trúc thần kinh: đó được gọi là tính mềm dẻo thần kinh dựa trên trải nghiệm. Điều này nghĩa là bạn có thể sử dụng tâm trí mình để thay đổi não bộ, và rồi bộ não sẽ thay đổi tâm trí bạn theo hướng tốt hơn.
  • Cách tốt nhất để phát triển niềm hạnh phúc to lớn hơn và các sức mạnh nội tại khác là hãy có trải nghiệm về chúng, sau đó giúp các trạng thái tinh thần tốt đẹp này trở thành các nét đặc trưng thần kinh. Đây chính là nguyên lý của tiếp nhận điều tốt: kích hoạt một trải nghiệm tích cực và cài đặt nó vào trong não bạn.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tiếng đờn ca ở tiệm hớt tóc

Published

on

Hồi ức Phú Nhuận

Đầu thập niên 1960, dân cư quanh khu Bàn Cờ thấy có một tiệm hớt tóc được mở ra ở số 405B đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu - TP.HCM), đoạn giữa chợ Vườn Chuối và đường Cao Thắng. Tiệm có tên Đời Mới, bảng hiệu vẽ ba đầu tóc đàn ông chải bồng kiểu tăng gô không khác gì những mái tóc của kép Dũng Thanh Lâm, kép Minh Phụng sau này. Tiệm không có gì đặc biệt, bề ngang chỉ 2,2m, nhưng ai nấy đều chú ý vì ở đó thỉnh thoảng lại có tiếng đờn ca cổ...

Ban đờn ca tài tử này, tuy lúc rảnh mới tụ lại với nhau mà tồn tại hơn chục năm. Dấu ấn của nó sâu đậm tới mức đến giờ người vùng Bàn Cờ còn nhắc, dù đã hơn 40 năm và các nhân vật trong câu chuyện này hầu như không còn mấy ai.

Ông Tư Triều, chủ tiệm hớt tóc Đời Mới vốn dân gốc ở quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa. Về Sài Gòn lập nghiệp giữa thập niên 1950 sau khi gãy đổ cuộc hôn nhân đầu, ông cưới vợ lần nữa và mở tiệm hớt tóc khi vừa có đứa con gái.

Tiệm cũng là nhà ở, ông sống cùng hai người thợ. Vì có máu văn nghệ, thích ca cổ lại có nghề làm nhạc cụ, ông biến tiệm hớt tóc của mình thành nơi đờn ca tài tử những lúc rảnh. Từ hồi trai trẻ, ông đã mê cải lương, đờn ca cổ nhạc bên cạnh những thú vui khác như đá gà, đua ngựa...

Bạn thân ông đều là người thích tiếng hát, tiếng đờn như bác Năm Trèo ở Hóc Môn, cha của nghệ sĩ cải lương Hoài Thanh. Trước khi có tiệm hớt tóc, giữa thập niên 50, ông chơi thân với nghệ sĩ tài danh Hữu Phước và danh hài Văn Hường. Lúc đó họ chưa nổi tiếng, ông gọi Hữu Phước là Ri vì ông này quốc tịch Pháp có tên Henry và nghệ danh Hữu Phước chưa xuất hiện.

Ông Tư Triều cắt tóc cho một người khách ái mộ cải lương (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Khách đến hớt tóc có đủ loại người, già trẻ lớn bé, từ người trong giới bình dân, trí thức, luật sư, cảnh sát, hoặc phục vụ trong quân đội Sài Gòn, có cả một vị bộ trưởng. Ông Tư Triều là người từng trải, lịch duyệt lại có máu nghệ sĩ nên giỏi ăn nói, rành chuyện cải lương, rành nhạc cụ cổ nhạc. Ông còn biết sửa chữa nhạc cụ. Thoạt đầu, ông mua đờn cũ mang về chỉnh sửa theo ý mình rồi đưa cho bạn bè trong nhóm đờn ca dùng thử. Đến khi cứng tay nghề, ông đến xưởng gỗ bên Chánh Hưng (quận 8) đặt từng thanh gỗ để làm cần đờn, mặt đờn.

Về nhà, ông tiếp tục gọt giũa từng chi tiết rất công phu. Ông tự chế keo dán gỗ, mua dây đàn nhập từ Tây Đức... Khi đờn hình thành, ông đem đi cẩn ốc xà cừ. Ông cầu kỳ đến mức mua đờn tranh, thấy 16 “con nhạn”(miếng gỗ kê dây đờn) không đẹp, đặt luôn những miếng gỗ hình tam giác mang về gọt giũa thành những “con nhạn” mới.

Từ khi nhóm đờn ca tài tử của ông bắt đầu tụ lại, khách đến đông thêm. Những người thường ghé chơi là mấy thầy dạy bên trường Quốc gia âm nhạc như bác Hai Khuê, bác giáo Thinh và bác Bảy Hàm, có nhạc sĩ Vĩnh Bảo, nghệ sĩ tiền phong Duy Lân, bác Mười Phú, chú Mười Hoa (nhạc phụ nghệ sĩ Viễn Sơn), nhạc sĩ nổi tiếng Văn Giỏi, anh Minh Hữu nghệ sĩ đờn kìm, bác Tư Tuất (nghệ sĩ đờn cò một thời của gánh Hương Mùa Thu, thân phụ các nghệ sĩ Hoài Dung, Hoài Mỹ)...

Trong số đó, ông Tư Triều thương anh Minh Hữu vì anh có tài và khiêm tốn, luôn nho nhã với sơ mi trắng và đeo kính cận. Sau này, khi gánh hát Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há lên tivi, bà mời anh Minh Hữu chơi đờn kìm cho tuồng của bà và ông Tư Triều rất sung sướng khi nhìn thấy cây đờn kìm ông làm được Minh Hữu dùng biểu diễn trên truyền hình.

Hầu hết họ đều là các nghệ sĩ đánh đờn, chỉ có vài giọng ca là anh Biện (hay Biền) to cao nhưng hiền lành. Một giọng khác là anh Ngọc, đẹp trai còn hơn nghệ sĩ với mái tóc chải ép, ca rất hay. Ngày đó không dễ gì liên lạc nhau nhưng không hiểu sao mấy nghệ sĩ tài tử này "đụng" nhau thường xuyên ở tiệm Đời Mới như đã hẹn hò từ trước. Mỗi tuần ông Tư Triều đều dành một buổi chơi đờn hay hòa đờn với nhau. Lâu lâu vào buổi tối ông mời bạn bè lên gác hát xướng, hòa điệu cho đến khuya.

Bà Tư niềm nở hiếu khách nên bạn bè ông Tư không ngại. Khách đến chơi, hứng thú khi nhìn chung quanh tiệm treo đầy những cây đờn. Ở nhà sau treo trên hai bên vách hơn 30 loại nhạc cụ (kìm, cò, tranh, sến, guitar, gáo, đoản...), có cây vĩ cầm trong chiếc hộp gỗ thiệt đẹp, bên trong lót vải nhung đỏ rực. Đó là tất cả gia tài và niềm đam mê của ông Tư Triều.

Chú bé Tâm, con trai út của ông Tư Triều nay đã ở tuổi năm mươi, sinh sống tại Đức còn nhớ những ngày vui đầu thập niên 1970 khi mới lên bảy. Lúc đó, cuộc sống còn dễ thở, khách đến đông và giới đờn ca tài tử thường xuyên đến góp vui. Mỗi lần tụ họp thường từ 9, 10 giờ sáng đến quá trưa rồi ai về nhà nấy. Khách qua đường thường đứng lại nghe đờn. Nếu có người ca thì người xem đông hơn.

Có chị hàng xóm dắt con đến cắt tóc, cũng xin ngồi vào ca vài bài, rất đúng nhịp trong khi đợi cậu con trai. Các chú các anh ít khi ca bài vọng cổ mà thường ca những bài cổ, khó hơn như Tây Thi, Lưu Thủy Trường, Xàng Xê, Tứ Đại Oán... Anh Ngọc, giọng ca chính có bài ca Phù Đổng Thiên Vương cách thể hiện rất hào hùng. Ông Tư Triều thỉnh thoảng cũng góp giọng, dù làn hơi yếu nhưng điệu ca lạ tai, vững nhịp.

Nhóm đờn ca tài tử ở tiệm hớt tóc Đời Mới (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Tâm còn nhớ nghệ sĩ Duy Lân thường chở cô học trò cưng Ngọc Hoa (bây giờ là nghệ sĩ Thoại Miêu) đến chơi. Thầy bảo hát gì là chị răm rắp nghe lời. Có lần, tàn cuộc thầy dắt chiếc xe Mobylette ra về, đạp hoài không nổ. Thầy bảo: “Phụ thầy đẩy đi con” là chị lập tức cột hai vạt áo dài trắng tinh, cong lưng đẩy ngay. Một lần Tâm chứng kiến ông Tư Triều đồng ý bán cây đờn do ông chế tác.

Số là trong số khách đến hớt tóc có trung tá X., luôn đi bằng xe Jeep. Anh này thích tiếng của cây đờn tranh, có mướn thầy về dạy riêng ở nhà. Anh kính mến ông Tư, nhiều khi tóc chưa dài cũng ghé cắt, chỉ để nói chuyện với ông. Anh mê một cây đờn tranh cẩn xà cừ rất đẹp của ông và sau nhiều lần thuyết phục, anh được ông Tư đồng ý đổi chiếc đờn lấy một tivi Sanyo 17 inch mới toanh, giá lúc ấy 90.000 đồng. Hẳn ông rất quý anh bạn trẻ và cũng muốn có tivi cho vợ con xem cải lương nên chấp nhận cho cây đờn ra đi.

Từ năm 1973, tiệm hớt tóc Đời Mới dần vắng khách. Kinh tế lúc đó bắt đầu đi xuống do người Mỹ rút đi. Chính quyền đặt ra loại thuế T.V.A (trị giá gia tăng), ngoài thuế môn bài. Tất cả cửa tiệm kinh doanh đều phải kê khai từ ngày thành lập cho đến thời điểm hiện tại và phải đóng một số tiền khổng lồ, nếu không thì dẹp. Ông Tư Triều quyết định đóng cửa tiệm lui về Củ Chi trồng rau nuôi gà và cắt tóc cho dân quanh vùng mưu sinh, cuối tuần lại về Sài Gòn thăm vợ con.

Mấy mươi năm theo tiếng đờn ca của những ban nhạc tài tử, ông gặp đủ loại người. Nhưng không bao giờ gặp lại những bạn bè cùng đi hát trên xe vespa từ khi họ nổi danh, thậm chí còn không nhận ra ông là người quen. Đó là lý do ông không thích đến rạp hát nữa. Nhóm đờn ca tài tử, nơi quy tụ những người cùng ngân nga những bài ca cổ đề cao nhân hiếu tiết nghĩa, cũng là nơi lui tới của những người “vui đâu chầu đó”, điều đó không có gì lạ.

Năm 1979, Tâm gặp lại anh trung tá năm xưa mua cây đờn tranh. Biết tin ông Tư đã về Củ Chi, anh buồn buồn chia tay. Sau đó vài năm, ông Tư Triều mất vì tai biến lúc Tâm đã ra nước ngoài.

Ông Tư Triều và ban đờn ca tài tử của ông chỉ là một mảnh nhỏ xíu trong đời sống văn hóa người Sài Gòn - Gia Định. Họ có thể vô danh hay hữu danh, yêu lời ca tiếng nhạc bằng tâm hồn rộng mở, hồn nhiên và tình cờ góp phần tạo nên mạch ngầm chảy âm ỉ nhưng đủ sức nuôi dưỡng vốn cổ văn hóa của ông bà, từ thời mở cõi vô Nam.

Hồi ức Phú Nhuận | Phạm Công Luận

Đọc bài viết

Cafe sáng