Chuyện người cầm bút

Tùng Lam và những suy tư về quá trình dịch “Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm”

Còn biết chơi đùa nghĩa là không cô đơn. Khoảnh khắc cô bé ngừng chơi khi vừa lớn lên mới chính là lúc cô đơn ập đến. Không còn ai lắng nghe cô, ngay cả những người bạn vô tri vô giác; thế giới mất đi lớp màn lung linh của trí tưởng tượng và phơi ra những gì trần trụi nhất.

Published

on

Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm – tiểu thuyết đầu tay của nhà thơ Lê Thị Diễm Thúy về đề tài đời sống người Việt thời hậu chiến trong quá trình hội nhập tại đất Mỹ – là một tác phẩm giàu chất thơ với nhiều suy tư, có thể gây không ít khó khăn cho bất kì ai muốn chuyển ngữ. Chính vì thế, Bookish đã có cuộc trò chuyện với dịch giả Tùng Lam – người chuyển ngữ tiểu thuyết Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm sang tiếng Việt – để độc giả hiểu rõ hơn câu chuyện hậu trường của người dịch khi làm việc với tác phẩm này, cũng như những quan niệm về dịch thuật nói chung.

Trong quá trình dịch tác phẩm Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm sang tiếng Việt, bạn có gặp phải khó khăn nào không?

Không. Tôi chả gặp khó khăn nào. Tôi chỉ mở file dịch ra, ngủ vài ba giấc dậy là mọi thứ tự đâu vào đấy. Uớc gì tôi có thể trả lời như thế.

Với tôi, chuyện dịch dọt, dù là một cuốn tiểu thuyết như Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm hay một cuốn non-fiction tưởng đơn giản, đều khó. Cái khó không nằm cụ thể trong một đoạn văn, hình ảnh mà nó nghênh đón người dịch ngay từ câu đầu tiên, chữ đầu tiên – cho đến hết cuốn sách. Tôi cảm giác hành động dịch là quá trình giải mã liên tục các con chữ.

Bình thường, khi chúng ta giải quyết được một vấn đề, não sẽ bắn pháo bông các hormone tạo cảm giác dễ chịu. Con người đa số đều nghiện ngập cảm giác này. Và tôi ngờ rằng dịch giả là đám nghiện nặng nhất, chính thế mà họ lao vào đánh vật liên miên với chữ để nhận lại phần thưởng sinh hóa. Nếu không, ai dại gì đâm đầu vào cái nghề bèo bọt này?

Nói riêng về cái khó trong lúc dịch Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm, đó là chọn giọng. Sách được kể qua lời một thuyền nhân theo chân cha đến Mỹ lúc 6 tuổi cho đến khi cô 16 tuổi. Làm sao diễn tả được sự ngây thơ của một cô bé thích trò chuyện với đồ vật nhưng đã già trước tuổi vì sớm lìa quê hương, vì thấy cha hằng đêm nhỏ nước mắt trên xứ lạ nhưng “chẳng ích lợi gì”? Làm sao diễn tả được cái giọng cứng cỏi nhưng đầy âu sầu của cô thiếu nữ lớn lên chứng kiến cuộc đời bế tắc của cha mẹ – hai kẻ ngoại cuộc trên đất Mỹ, và cuộc đời ấy, có thể lắm, cũng là của cô?

Tôi không biết mình đã thành công bao nhiêu phần trăm trong việc chọn giọng này, đáp án có lẽ nhường lại cho người đọc.

Dịch giả Tùng Lam

Có những từ hoặc cụm từ đặc biệt nào trong bản gốc khiến bạn gặp thử thách khi dịch mà bạn muốn chia sẻ không? Ví dụ như, có một cụm từ hay một câu văn có thể hiểu theo hai hay nhiều nghĩa.

Tôi thấy Lê Thị Diễm Thúy không phải người thích chơi đùa với chữ theo kiểu bày ra một mâm tú hụ các trò chơi chữ có thể hiểu theo nhiều cách. Sự đa nghĩa của tác phẩm được thể hiện trên bình diện toàn văn bản, thay vì trên đơn vị từ/cụm từ. Duy có tựa đề của phần 2 tác giả đặt là “Palm”, vừa có nghĩa “lòng bàn tay”, vừa có nghĩa “cây cọ”.

Trong tòa chung cư gia đình nhân vật tôi sống ở Mỹ có một hồ bơi. Mẩu biển cả bé tẹo này là lời gợi nhắc cả gia đình về đại dương quê hương nơi làng chài ven biển họ đã bỏ lại sau lưng. Tuy nhiên, một hôm, người chủ nhà đã cho lấp hồ bơi và đem đến một vật được quấn kín bằng bọc nilon đen – bên trong là một cây cọ non thấp tè. Còn lòng bàn tay mình là thứ nhân vật tôi hay ngắm nhìn trong bóng tối. Qua cái nhìn trân trân của cô, những đường chỉ tay trong lòng bàn tay hóa thành dòng sông, đường hầm, con mương, rễ cây.

Tôi dịch “Palm” thành “Lòng bàn tay và cây cọ” nhưng không ngừng băn khoăn về ý nghĩa tác giả gửi gắm trong từ ngữ này. Có khi nào tác giả muốn nói: Cái vật được đem đến đặt giữa nơi từng là hồ bơi, khi mở ra, là một lòng bàn tay? Hay khi nhân vật tôi trân trân nhìn lòng bàn tay mình trong bóng tối, cô thấy, nó hóa ra là một cây cọ? Ý tác giả có phải thế không, tôi không biết.

Lê Thị Diễm Thúy là một nhà thơ nên từ cấu trúc kể chuyện của tác phẩm này cho đến văn phong đều tràn ngập chất thơ. Chính vì vậy, người dịch tác phẩm này có lẽ không chỉ đối diện với việc phải dịch tác phẩm sao cho hay, giữ gần trọn vẹn tinh thần của văn bản gốc mà còn là làm sao để giữ được nhịp điệu và chất thơ trong câu văn. Đối với tôi, bản dịch Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm của bạn đã đáp ứng được tiêu chí vừa dịch hay vừa dịch ra được chất thơ. Có nhiều đoạn văn dịch rất bay bổng mà vẫn có vần điệu, nhịp điệu. Bạn đã làm cách nào để giải được bài toán dịch thuật đầy thách thức như thế trong Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm? Bạn có phải là một người yêu mến thơ và trước đây đã từng dịch thơ rồi nên mới cảm được chất thơ trong tiểu thuyết của Lê Thị Diễm Thúy và dịch tốt như thế không?

Tôi đọc thơ theo kiểu cầm chừng và chỉ có dịch thơ thẩn thôi.

Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm là một tác phẩm nặng suy tư và giàu chất thơ – hai yếu tố khiến tôi vô cùng tận hưởng quá trình dịch quyển sách này, vì tôi cũng là tạng ưa tư lự và bay bướm. Nhưng sẽ có những người thích lối hành văn thô ráp, chân phương hơn. Và tôi nghĩ cách viết nào cũng đặt ra thách thức cho người dịch.

Để chuyển tải bản dịch gần sát nhất với tinh thần bản gốc, tôi nghĩ dịch giả phải sở hữu một kho từ vựng biến hóa khôn lường, lúc đó dịch kiểu bay trên trời cũng được mà dịch kiểu đi dưới đất cũng xong. Phần đầu cuốn sách này, tôi được một dịch giả lâu năm góp ý tỉ mỉ về cách diễn đạt và dùng từ. Để dịch cụm “faceless and nameless”, cô đề xuất “vô nhân dạng, vô danh tính” làm tôi cứ xuýt xoa mãi. Làm sao có thể nghĩ được cách dịch hay tuyệt diệu như thế chứ.

Dịch giả Tùng Lam

Đề tài của cuốn tiểu thuyết này có lẽ sẽ không gần gũi với phần lớn người trẻ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam sau chiến tranh khi viết về đời sống người Việt tha hương. Là một người trẻ thuộc thế hệ 9x, làm sao bạn có thể hòa vào tâm tư, tình cảm, cũng như những chi tiết về đời sống của nhân vật để có thể dịch được Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm giàu cảm xúc như thế?

Thứ nhất, tôi nghĩ hầu hết người mê chữ đều có một sự nhạy cảm nhất định. Sự nhạy cảm đó cho phép họ đọc/nghe về hoàn cảnh của người khác và ngay lập tức nảy sinh đồng cảm, dù họ chưa từng sống qua hoàn cảnh đó bao giờ. Tôi nghĩ mình có chút nhạy cảm đó khi đọc Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm và những cuốn sách khác về thuyền nhân Việt Nam.

Thứ hai, dù không phải một người Việt tha hương nhưng tôi chia sẻ chút nào đó cảm giác ngoại cuộc của các nhân vật trong sách. Từng là một cô bé tỉnh lẻ lên thành phố trọ học, thời gian đầu tôi nếm đủ mùi chua chát vì sự khác biệt của mình: quần áo, chất giọng, lối suy nghĩ. Nỗi lạc loài khủng khiếp vì tự mình nhận thấy mình khác biệt và vì cái cách người khác nhìn mình làm tô đậm thêm sự khác biệt ấy: “Mày không thuộc về nơi này”.

Ngoài ra, một phần lớn trong Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm là hồi ức về ngôi nhà thơ ấu của nhân vật tôi ở một làng chài ven biển Việt Nam. Ngôi nhà đó, làng chài đó như bước thẳng ra từ trang sách để nhập vào ngôi nhà của tôi, làng chài của quê tôi ở một tỉnh miền Trung. Ngôi nhà lấm lem bụi đất với lũ gà chạy lục tục trong sân, những con tàu nằm dài trên bãi, thuyền câu mực với những ngọn đèn lấm chấm trong đêm, những người chết biển, những đám ma bên huyệt mộ đào sẵn, những vỏ sò, những con ốc… Tôi thấy tuổi thơ mình trong những trang sách này.

Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm có cấu trúc truyện kể theo lối phi tuyến tính, năm phần trong tiểu thuyết hầu như không phải theo kiểu mở đầu của phần sau tiếp nối kết thúc của phần trước về mặt sự kiện. Đôi khi, sự kết nối vẫn có nhưng lại nằm trong tâm thức mơ hồ của nhân vật; thậm chí, trong cùng một phần truyện, nhân vật có thể di chuyển tâm tư qua nhiều chiều không gian và thời gian khác nhau, lúc thì ở Việt Nam, lúc thì ở Mỹ; lúc thì ở giai đoạn tuổi thơ, lúc thì ở tuổi trưởng thành; lúc thì là câu chuyện về mối quan hệ giữa con gái và cha mẹ, lúc thì là hồi ức về chuyện tình giữa cha mẹ trong thời chiến. Mỗi một lần nhân vật dịch chuyển tâm tư như thế đều có sự khác biệt trong bối cảnh, thoại, văn mạch. Trong lúc dịch, bạn có thấy khó khăn khi phải di chuyển liên tục theo nhân vật như thế không? Có bao giờ bạn cảm thấy bị hụt hơi trong mạch tâm tư của nhân vật và làm cách nào, bạn tạo ra sự thống nhất cho cả một đoạn văn dịch, hay một phần truyện, hay rộng hơn là toàn bộ tiểu thuyết này?

Tôi nghĩ cấu trúc truyện đã mô phỏng thành công cấu trúc tâm lý tự nhiên của con người, vì chúng ta có bao giờ suy nghĩ một cách tuyến tính, đúng không? Tâm trí chúng ta như con khỉ chuyền cành liên tục, nhảy từ hiện tại về quá khứ đến tương lai, mừng vui rồi khấp khởi rồi tiếc nuối, nghĩ chuyện mình đến chuyện người, chuyện nhân tình thế thái.

Một cấu trúc truyện như Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm tôi nghĩ có thể làm khó độc giả hơn là dịch giả nếu họ đọc không cẩn thận. Là người dịch, tôi có xa xỉ để nghiền ngẫm rất lâu một đoạn văn, nâng lên đặt xuống ý nghĩa của một hình ảnh cho đến khi thỏa mãn – do đó nhiều khả năng hiểu được ý đồ của tác giả.

Dù “nhảy cóc” qua nhiều chiều không gian và thời gian nhưng lời kể xuyên suốt sách thuộc về một nhân vật duy nhất, vì thế Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm vẫn “nhẹ đô” hơn rất nhiều so với, chẳng hạn, The Sound and the Fury của William Faulkner. Chuyện của Faulkner được kể từ ba điểm nhìn của ba anh em trong một gia đình, trong đó có một người tâm thần, vì thế không dễ tìm được sợi dây kết nối (dù có phần mơ hồ) như trong Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm. Tôi nghĩ nếu dịch cuốn của Faulkner, tôi chỉ có nước khóc thét.

Dịch giả Tùng Lam

Nhân vật “tôi” trong Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm có những trò chơi khá thơ mộng và cô đơn khi còn nhỏ như: trò chuyện với thú thủy tinh và con bướm mắc kẹt trong dĩa, nhìn bầu trời và tưởng tượng những hình ảnh, tự tạo hình với bàn tay của chính mình… Bạn có thể chia sẻ những trò chơi tuổi ấu thơ mà bạn yêu thích không? Và những trò chơi trong kí ức của bạn có chút cộng hưởng nào với trò chơi của nhân vật “tôi” khi bạn dịch không? Giả sử bạn có thể gặp nhân vật “tôi” khi cô bé còn nhỏ, và thậm chí ngay lúc cô bé đang chơi những trò chơi cô đơn đó, bạn có muốn nói hay chia sẻ điều gì với cô bé không? 

Lúc nhỏ tôi cũng hay chơi với bóng bàn tay mình trên vách tường, tạo hình bàn tay thành con thỏ, đại bàng… Mẹ luôn rầy tôi mỗi lúc tôi giỡn với bóng như thế. Trong Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm, nhân vật tôi cũng nhảy nhót với cái bóng của mình và bị má la. Người lớn luôn đầy những lời răn đe như thế đúng không?

Tôi cũng từng nói chuyện với chó, mèo, gấu bông và tưởng tượng đủ thứ quái gở trên đời. Tôi nghĩ hầu như đứa con nít nào cũng vậy. Nhưng vì đã đi qua thời trẻ nhỏ một thời gian, lúc ban đầu khi thấy nhân vật tôi chơi những trò như thế, tôi nghĩ cô bé cô đơn. Vì không được ai lắng nghe nên phải trò chuyện với đồ vật, vì thế giới thực quá tàn khốc nên phải chui vào vùng đất tưởng tượng.

Nhưng nghĩ lại tôi thấy mình nhầm. Còn biết chơi đùa nghĩa là không cô đơn. Khoảnh khắc cô bé ngừng chơi khi vừa lớn lên mới chính là lúc cô đơn ập đến. Không còn ai lắng nghe cô, ngay cả những người bạn vô tri vô giác; thế giới mất đi lớp màn lung linh của trí tưởng tượng và phơi ra những gì trần trụi nhất. Những người lớn bị tước khả năng chơi đùa và niềm hy vọng vào điều không tưởng mới chính là những kẻ cô đơn khủng khiếp.

Nếu bây giờ tôi gặp cô bé, tôi sẽ răn đe cô – như một người lớn chính hiệu: “Hãy chơi khi còn có thể đi”. Nhưng như vậy thì ác với một đứa con nít quá, phải không?

Một trong những chủ đề chính của Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm là hành trình truy tìm danh tính của mỗi người. Trong lúc dịch tác phẩm này, bản thân bạn có đối diện với cuộc truy tìm danh tính trong lĩnh vực mình yêu thích là văn chương, dịch thuật; hay xa hơn là trong cuộc đời không? Và nếu có, quá trình dịch Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm có phần nào giúp bạn tiệm cận hơn với câu trả lời bạn luôn mong mỏi tìm kiếm không?

Tôi nghĩ ai sống trên đời cũng đều trải qua hành trình truy tìm danh tính của chính mình, dù họ có nhận thức được hay không. Có những hành trình khốc liệt hơn những hành trình khác.

Danh tính của tôi gắn liền với con chữ: đọc-viết-dịch. Nhưng mới cách đây vài năm, tôi chưa biết dịch và viết cũng không ra gì. Lúc đó thấy khủng hoảng lắm, cảm giác mình chẳng có giá trị gì, chẳng biết làm gì. Nhưng nói gì thì nói, đây vẫn chỉ là cuộc truy tìm danh tính trong công việc. Có những người, như nhân vật trong bộ phim tài liệu Đi tìm Phong, phải đi tìm bản dạng giới của mình; nhân vật trong Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm đi tìm gốc gác, di sản, nơi mình thuộc về. Những cuộc truy tìm đó, tôi nghĩ, đắng đót nhọc nhằn hơn nhiều.

Bạn có thể chia sẻ với Bookish những dự định tương lai của bạn trong văn chương và dịch thuật không?

Tôi vẫn sẽ dịch đến chừng nào bị người đọc ném đá đến chết vì làm ra một thảm họa dịch thuật (hy vọng ngày đó không đến). Thường tôi không kén chọn, nhà xuất bản giao cuốn nào tôi dịch cuốn ấy, đúng theo kiểu “nhạc nào cũng nhảy, cuốn nào cũng chơi”. Tôi không mong kiếm chác tiền bạc hay danh tiếng trong ngành này, chỉ là càng thêm tuổi, tôi càng trở thành một người lớn chán ngắt, khó tìm thấy niềm vui trong đời. Và dịch thuật là một trong những điều hiếm hoi còn làm tôi thấy vui thú (bên cạnh chân gà ngâm xì dầu).

Cảm ơn Tùng Lam vì đã dành thời gian cho một cuộc chia sẻ sâu với Bookish. Chúc bạn luôn thành công, hạnh phúc trên con đường tương lai.

Chuyện người cầm bút

Tác giả gốc Việt Viet Thanh Nguyen nhận thêm giải thưởng văn học

Giải thưởng Thành tựu Văn học Kenyon Review vừa công bố sẽ trao giải năm 2025 cho nhà văn gốc Việt Viet Thanh Nguyen.

Published

on

Trên website chính thức, Kenyon Review công bố Giải thưởng Thành tựu Văn học năm 2025 sẽ trao cho tác giả Viet Thanh Nguyen. Lễ trao giải diễn ra vào ngày 7/11 tại New York.

Giải thưởng này "tôn vinh những văn nghiệp xuất sắc, ghi nhận những cá nhân có tầm ảnh hưởng và quan trọng đã định hình nền văn học Mỹ".

Nhà văn Viet Thanh Nguyen (Nguyễn Việt Thanh) sinh năm 1971 tại Buôn Ma Thuột. Ông đến Mỹ cùng gia đình vào năm 1975 và sinh sống tại Pennsylvania, sau đó chuyển đến California. Hiện ông đang là giáo sư tại Đại học Nam California, đồng thời là học giả, nhà văn, diễn giả... Ông cũng sáng lập và đồng điều hành The Diasporic Vietnamese Artists Network (Mạng lưới nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại). Ngoài ra, ông là thành viên Hội đồng giải thưởng Pulitzer và là giám khảo của các giải thưởng văn học quan trọng khác tại Mỹ.

Tiểu thuyết đầu tay The Sympathizer (2015) của ông thắng giải Pulitzer năm 2016 hạng mục tác phẩm hư cấu, đã được HBO chuyển thể thành loạt phim truyền hình ngắn tập… Một số tác phẩm khác của ông là Người tị nạn (2017), The Committed (2021, phần tiếp theo của The Sympathizer). Ông là chủ biên cuốn Kẻ ly hương - tuyển tập gồm tác phẩm của 17 tác giả từ nhiều nước như Mexico, Bosnia, Iran, Afghanistan, Ukraine, Hungary, Chile, Ethiopia, Việt Nam, kể lại câu chuyện nhập cư của mình.

Ông từng nhận học bổng từ Quỹ Guggenheim và MacArthur. Một số sáng tác gần đây nhất của ông là A Man of Two Faces: A Memoir, A History, A Memorial; To Save and to Destroy: Writing as an Other...

Thành lập năm 2002, Giải thưởng Thành tựu Văn học Kenyon Review hướng đến vinh danh những cây bút có sự nghiệp xuất sắc, đã định hình văn học Mỹ bằng tầm nhìn, trí tưởng tượng và phong cách nghệ thuật độc đáo trong sáng tác. Giải được trao hàng năm tại đêm gala gây quỹ tại New York City, với mục đích hỗ trợ học bổng và quỹ nội bộ của Kenyon Review.

Một số tác giả nổi bật từng đoạt giải: năm 2005 Umberto Eco (Lịch sử cái đẹp, Tên của đóa hồng, Số không), năm 2007 Margaret Atwood (Chuyện người tùy nữ), năm 2012 Elie Wiesel (Đêm).

Theo ZNews

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Cuộc tẩu thoát táo bạo: Hành trình một nhân viên ngân hàng Mỹ giải cứu 113 thường dân Việt Nam

Published

on

Đầu tháng 4 năm 1975, khi toán lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam, các giám đốc điều hành cấp cao của Ngân hàng Chase Manhattan Bank đã đặt lên vai Ralph White, vốn là một nhân viên cấp dưới làm việc tại chi nhánh Bangkok, một nhiệm vụ đầy thách thức: sơ tán 53 nhân viên người Việt đang làm việc tại chi nhánh Sài Gòn. Và như độc giả có thể thấy ở trang bìa của cuốn sách "Rời khỏi Sài Gòn", ông đã thành công hoàn thành nhiệm vụ ấy. Thế nhưng bấy nhiêu là không đủ để lột tả hết những rào cản to lớn mà ông phải đối mặt, cũng như những giải pháp thông minh, thậm chí gây đứng tim cho người đọc. Trong bài phỏng vấn đăng trên The Christian Science Monitor vào năm 2023, tác giả Ralph White có một số chia sẻ về cuốn sách với phóng viên Erin Douglass, cộng tác viên của Monitor. Nội dung buổi phỏng vấn đã được tác giả gốc biên tập đôi chút để rõ ràng hơn và đảm bảo độ dài phù hợp. 

Nhiệm vụ thành công dường như là nhờ vào những hành động mang tính quyết định của ông, và một trong số đó là dám đứng lên nhận lãnh trách nhiệm với sinh mạng của những con người ấy. Ông có đồng ý với nhận xét này không, và bên cạnh việc đứng lên chịu trách nhiệm, thì còn hành động nào khác mà ông cho là mang tính quyết định đối với thành công này?

Tôi nghĩ là có. Tôi thường nghe người ta nhắc đến “sự kiên trì”, có lẽ đó cũng là một yếu tố góp phần làm nên thành công của chuyến đi. Khi ấy tôi chỉ mới tốt nghiệp trung học được 10 năm, đã vậy còn thiếu chín chắn so với độ tuổi của mình. Lúc ấy tôi đang phiêu bạt, đi đây đi đó khắp Đông Nam Á, rồi bất chợt, bánh răng lịch sử xoay chuyển, khiến tôi ngỡ ngàng. 

Tôi nghĩ rằng những viên chức ngoại giao đứng về phía tôi – ông Shep Lowman, viên chức chính trị tại Đại sứ quán Mỹ [ở Sài Gòn] và ông Ken Moorefield, lúc bấy giờ đang là trợ lý của đại sứ tại Trung tâm Kiểm soát Sơ tán (ECC), hai người họ là những nhân tố không thể thiếu đối với thành công của tôi. Còn cả Đại tá [William] Madison tại Văn phòng Tùy viên Quốc phòng (Defense Attaché Office) nữa. Những con người ấy chính là yếu tố chính tạo nên thành công của hành trình.

Về phần tôi, tôi sẽ dùng từ “bướng”. Khi ai đó cố gắng ngăn tôi làm điều gì đó mà tôi nghĩ tôi có thể làm, thì tôi sẽ tìm cách làm cho bằng được. Bởi vậy tôi cứ ráng xoay xở đủ đường với đại sứ quán và Tùy viên Quốc phòng (Defense Attaché). Một yếu tố khác nữa đơn giản là sự may mắn tuyệt đối. Trong cuốn sách, đã hai lần tôi đề cập đến việc mọi thứ đã có thể diễn ra theo một kịch bản hoàn toàn khác. Ngay từ đầu, nếu họ chọn anh chàng đầu tiên được giao nhiệm vụ này, anh ta rất có thể sẽ chỉ sơ tán được bốn nhân viên [ngân hàng] rồi coi như đó là thành tựu gì lớn lao lắm. Nhưng không, họ đã chọn tôi.

Một trong những điểm nổi bật trong cuốn sách "Rời khỏi Sài Gòn" chính là khả năng quan sát vô cùng sắc sảo của ông. Ông có thể chia sẻ câu chuyện về “đám mây bụi” giăng khắp Sài Gòn không?

Bốn năm trước sự kiện đó, tôi đã làm việc ở Việt Nam với tư cách là một thường dân, tôi làm cho tờ American Express, nhưng lúc ấy tôi sống và làm việc ở Tây Nguyên. Dạo đó, tôi có ghé Sài Gòn một vài lần, và mặc dù nhiều con đường đã được tráng nhựa, nhưng sẽ luôn có một đám mây bụi dày giăng mắc khắp đường phố Sài Gòn. Khi tôi trở lại vào bốn năm sau, tức khoảng 18 tháng sau khi Hiệp định Paris được ký kết và quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam, đám mây bụi đó đã hạ xuống nhiều [chỉ đến độ mắt cá chân]. Trong mắt tôi, hình ảnh đó cũng như một con chó không sủa vậy. Bởi một thứ gì đó đã biến mất khỏi Sài Gòn. Thứ đó tất nhiên, chính sự hiện diện của quân đội Mỹ. 

Ông đã phát triển một mối quan hệ hợp tác thú vị với Nga, một cô gái bán hoa trẻ, có anh trai có liên hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông thấy ở Nga có điểm gì đặc biệt?

Chúng tôi gặp nhau trong một hoàn cảnh thật bi thảm; tôi cảm thấy rất tiếc cho cô ấy. Tôi có thói quen như vầy: Tôi sẽ trả tiền cho những cô gái bán hoa để họ dạy tiếng cho tôi. Tôi đã làm vậy ở Thái Lan, ở Việt Nam và cả những nơi khác. (Nhưng tôi chưa bao giờ làm kiểu "bóc bánh trả tiền" kia đâu.) Đó là một cách học tiếng khá tiết kiệm. Đó là ý định ban đầu khi tôi tìm đến cô ấy. Rồi tôi bắt đầu nhận ra rằng dưới vẻ ngoài gai góc, Nga lại là một người khá lanh lợi và ngọt ngào.

Ông từng có dịp được ngồi trong chiếc Lincoln Continental bóng bẩy của ông Tùy viên Thương mại đại sứ quán (Embassy’s Commercial Attaché). Và cảm giác mất kết nối với thế giới bên ngoài khi ngồi trong con xe đó, dưới ngòi bút của ông, đã thật sự gợi lên nhiều suy tưởng. Liệu ông có thể chia sẻ thêm với các độc giả về khoảnh khắc ấy không?

Khi đi bộ, anh sẽ chú ý được rất nhiều chi tiết xung quanh. Khi đi xe đạp, anh sẽ bắt đầu bỏ lỡ một vài chi tiết. Rồi, khi đi xe hơi, anh sẽ thôi chú ý những chi tiết, nhưng từ trong xe hơi thì vẫn nhìn rõ được bên ngoài, và anh hoàn toàn có thể hạ kính xe xuống để quan sát. Nhưng nếu chiếc xe hơi anh đang đi là một chiếc xe hầm hố chẳng khác gì xe tăng – bọc thép, được trang bị kính chống đạn, còn được lắp điều hòa – thì chắc chắn, anh chẳng thể ý thức được những gì đang xảy ra ngoài kia đâu. Bởi khi mọi âm thanh xung quanh bị dập tắt, thì những suy nghĩ của anh sẽ hướng vào bên trong nhiều hơn bên ngoài. 

Sau này tôi mới xâu chuỗi mọi chuyện và ngộ ra rằng cái thứ đó [chiếc Continental] có thể là một phần nguyên nhân tại sao phía Mỹ mù tịt về tình hình bấy giờ, lẽ đương nhiên là ông đại sứ mù tịt, bởi ông ta lúc nào cũng ngồi trong chiếc xe đó. Nếu anh được cơm bưng nước rót tận miệng, vườn tược thì có người chăm lo, con cháu thì có người săn sóc, chó thì được dắt đi dạo, thứ gì cũng có người làm cho, còn anh chỉ việc lái chiếc Continental đi đó đây, hằng ngày ở trong những căn phòng hạng sang, thì làm sao mà anh có thể ý thức được về những gì đang xảy ra cơ chứ. Tôi nghĩ chắc cũng có những ông đại sứ sẽ đi lang thang vào văn phòng cấp thấp nhất và hỏi han kiểu: “Hôm nay có vấn đề gì không?” nhưng trong số đó không có [Đại sứ] Martin.

Đã gần 50 năm trôi qua kể từ cuộc sơ tán ấy. Trong số hơn một trăm thường dân Việt Nam mà ông đã giúp đỡ (và đã giúp đỡ ông), ông còn giữ liên lạc với những ai? 

Tính đến khi tôi hoàn thành bản thảo, hình như đầu năm 2020, tôi chưa liên lạc được với bất kỳ [đồng sự] người Việt nào. Tôi đã rất nỗ lực tìm kiếm, nhưng chẳng có kết quả gì. 

Rồi tính bướng của tôi nổi lên! Tôi tìm thấy sáu hội nhóm người Mỹ gốc Việt ở Mỹ. Mỗi hội đều có thư thông báo, và tất cả họ đều đang khao khát có một tin thật ấn tượng để đăng lên. Vì vậy tôi đã nhắn cho họ, nói rằng Ralph White, trước đây làm việc ở Ngân hàng Chase Manhattan Bank chi nhánh Sài Gòn, giờ đang tìm kiếm các đồng nghiệp cũ của mình. Tôi nhận được một cuộc điện thoại từ chủ tịch Hội người Mỹ gốc Việt tại New Jersey, anh Tony Nguyễn. Và anh ấy nói, “Này Ralph, tôi biết anh đã làm được những gì. Cha tôi bị bắt ở Sài Gòn sau mùa thu, sau đó ông ấy phải vào trại cải tạo lao động trên rừng trong suốt 10 năm. Người của anh đã suýt phải chịu cảnh tương tự... nhưng chính anh đã cứu họ. Tôi muốn mời anh đến tham dự Gala Tết Nguyên đán của hội chúng tôi.” 

Vậy nên tôi đã cùng bạn gái đến đó; về cơ bản chỗ đó là một phòng tập thể dục nối liền với một trung tâm sinh hoạt cộng đồng ở Piscataway, New Jersey. Theo như tôi nhớ, chúng tôi là những người da trắng duy nhất ở đó. Một người phụ nữ ngồi cạnh tôi và hỏi: “Anh đang làm gì ở đây? Anh có đi nhầm phòng không đấy?” Tôi chỉ đảo mắt bởi lời tôi sắp nói ra với cô ấy có lẽ sẽ nghe vô cùng ngớ ngẩn. “Tôi đang cố gắng tìm các cựu nhân viên của Ngân hàng Chase Manhattan Bank chi nhánh Sài Gòn.” Rồi cô ấy đáp, “Ồ, tôi biết một người làm ở chỗ Chase Saigon... đó đó, cô ấy là bạn thân tôi!” Thế là tin Ralph White xuất hiện cứ càng truyền càng xa, vì vậy tôi đã nhận được nhiều cuộc gọi từ Orlando và Houston và San Francisco ... tất cả đều đến từ những người khi xưa tôi từng quen biết. 

Ông có muốn chia sẻ gì thêm không?

Có một điều tôi không nhắc đến trong sách, và cả [Ken Moorefield] cũng chưa biết, đó là tôi đã đề cử ông ấy nhận Huân chương Tự do của Tổng thống. Đó là để tôn vinh sự dũng cảm của ông ấy với tư cách là người đứng đầu Trung tâm Kiểm soát Sơ tán, khi dám đưa 113 người của tôi – và tôi nghĩ là cả vài ngàn người xuất cảnh trái phép khác nữa – rời khỏi Sài Gòn. Sau này ông ấy lại tiếp tục làm đại sứ ở châu Phi. 

Kể từ sau khoảnh khắc ấy, ông đã ghé lại thăm Việt Nam lần nào chưa?

Tôi đang có kế hoạch về thăm Việt Nam. Cuối năm nay, tôi sẽ chọn một khoảng giữa mùa mưa và mùa nóng, để xem liệu tôi có thể lang bạt và ghé lại những chốn cũ không.

Thục Uyên dịch từ CSMonitor

Sách Rời Khỏi Sài Gòn là câu chuyện có thật và đầy cảm xúc của Ralph White – một nhân viên ngân hàng Mỹ đã liều mình vượt quyền để giải cứu 113 nhân viên và gia đình người Việt trong những ngày cuối cùng của Sài Gòn tháng 4/1975. Với giọng kể chân thành, hài hước và đầy nhân văn, cuốn sách là minh chứng cho lòng dũng cảm và tình người giữa thời khắc hỗn loạn của lịch sử.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Từ viết báo đến viết sách – Những con chữ đi qua lửa

Published

on

Có những con đường không hề cách biệt như ta từng nghĩ. Tưởng như báo chí và văn học là hai lối đi rẽ về hai phía: một nơi sắc lạnh hiện thực, một nơi dịu dàng mộng tưởng. Nhưng thực ra, giữa chúng là một cây cầu âm thầm bắt nhịp từ những con chữ. Và trên cây cầu ấy, biết bao người đã đi, trong lặng lẽ, đam mê, và đôi khi đau đớn, để từ trang báo bước sang trang sách, để từ tiếng nói của thời cuộc hóa thành tiếng lòng của con người.

Vào mỗi dịp 21/6 ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, chúng ta không chỉ tưởng nhớ những người đã ngã xuống vì sự thật, vì lịch sử, mà còn để tướng nhớ trước những người đã viết không chỉ để đưa tin, mà để giữ lại một phần linh hồn thời đại. Những người viết báo, nhưng trong đáy chữ luôn có hơi văn. Những người viết sách, nhưng trong từng dòng vẫn vang vọng nhịp đập của tin tức, của điều vừa xảy ra, đang xảy ra. 

Báo chí: Trường học đầu đời của nhiều nhà văn lớn

Nói đến mối quan hệ giữa báo chí và văn học, không thể không nhắc tới những tên tuổi lớn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, hay sau này là Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Tô Hoài, Nguyễn Quang Thiều - những người đã bước ra từ báo chí để làm nên diện mạo của văn học hiện đại Việt Nam. 

Quả thật, báo chí đã trở thành cánh đồng đầu tiên nơi nhiều nhà văn cắm bút xuống đất, viết ra những mùa màng chữ nghĩa - vừa tươi rói đời sống, vừa nhuốm màu trăn trở nhân sinh.

Ở giai đoạn đầu thế kỷ XX, khi văn học Việt Nam đang chuyển mình từ văn chương chương hồi, biền ngẫu sang hình thái hiện đại, thì báo chí lại chính là chiếc cầu nối đầy táo bạo giữa chữ nghĩa và cuộc sống.

Vũ Trọng Phụng, cây bút hiện thực phê phán sắc bén nhất giai đoạn 1930–1945, đã bắt đầu sự nghiệp bằng những bài báo ngắn, tiểu phẩm và phóng sự đăng đều đặn trên Hà Nội Báo, Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Ông chính là người khai phá dòng văn học phóng sự ở Việt Nam với những tác phẩm như Kỹ nghệ lấy Tây, Lục xì, Cạm bẫy người - vừa mang tính điều tra báo chí, vừa kết tinh phong cách văn chương sâu cay, châm biếm.

Hay Ngô Tất Tố, bắt đầu từ những bài viết báo chí phê phán xã hội nông thôn, để rồi kết tinh lại trong Tắt đèn - một tiểu thuyết xé lòng về kiếp người trong vòng xoáy sưu thuế. Những bài phóng sự ngắn, góc nhìn trực diện của ông về nông thôn Bắc Kỳ thời kỳ Pháp thuộc đã sớm cho thấy một bút lực không khoan nhượng. Và với chị Dậu, khái niệm báo chí đã không còn như ban đầu, mà đã được tiểu thuyết hoá để trở thành biểu tượng cho hàng vạn thân phận bị nghiền nát trong guồng máy bất công - một sức mạnh mà chỉ văn chương mới có thể tạo nên, sau khi đã được chưng cất từ đời sống và ngôn ngữ báo chí.

Có một điều không thể phủ nhận: báo chí không chỉ rèn luyện kỹ năng viết, mà còn giúp nhà văn học cách sống giữa đời thực - nơi mà ngôn ngữ không còn là sự bày biện thẩm mỹ, mà là công cụ để chạm vào con người.

Nam Cao là một minh chứng. Trước khi trở thành nhà văn của những phận người tăm tối như Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc, ông từng là phóng viên chiến trường, viết trong mưa bom, bụi đỏ. Những bài viết khi ấy không chỉ giúp ông rèn kỹ năng quan sát và ngôn ngữ, mà còn hun đúc nên giọng văn nhân đạo đến tận cùng, đau đáu với cái nghèo, cái đói, và lòng tự trọng bị chà đạp.

Nguyễn Tuân, cây bút tài hoa, duy mỹ bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại, cũng có một quá trình dài làm báo. Ông từng là phóng viên chiến trường trong cả kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Nhưng dù là phóng sự, tùy bút hay ghi chép, Nguyễn Tuân vẫn giữ cho mình phong cách “chơi ngông” chữ nghĩa - thứ làm nên linh hồn độc đáo trong Tùy bút sông Đà, tác phẩm kết tinh sự giao thoa hoàn hảo giữa chất liệu thực tế báo chí và cảm hứng nghệ thuật thuần túy.

Với Tô Hoài, hành trình từ báo chí đến văn chương cũng là một dòng chảy liền mạch. Ông bắt đầu viết báo từ thập niên 1930, sau này làm biên tập cho các tờ báo lớn. Những năm tháng gắn bó với nghề viết tin, phóng sự, đã rèn luyện cho ông một lối văn quan sát sắc sảo, từ tốn mà đậm tình. Điều đó thể hiện rõ trong Dế Mèn phiêu lưu ký – tác phẩm thiếu nhi kinh điển, nhưng đặc biệt sâu sắc trong các tập hồi ký như Cát bụi chân ai, Chiều chiều - nơi ông hòa trộn những mảnh đời thực với lớp ký ức văn chương đầy trầm tích.

Được coi là một hiện tượng văn chương sau Đổi mới, Nguyễn Huy Thiệp cũng là cái tên đi lên từ nghề báo, từng sống đời công chức bình dị, dạy học, làm xuất bản, rồi mới bước vào văn đàn với loạt truyện ngắn gây chấn động. Chính chất hiện thực trần trụi, cách nhìn sắc lạnh và nhãn quan xã hội bén nhạy trong văn của ông đã cho thấy dấu ấn của một người từng quen với thực tế đời sống, với cách tư duy nhanh gọn của nghề báo.

Có thể nói, giữa dòng chảy báo chí đầy biến động, họ - những nhà văn - đã không chỉ đưa ngôn từ vào con chữ, mà còn thắp lửa lên từng con chữ. Nhìn chung, có thể khẳng định rằng những cái tên trứ danh đi lên từ bao chi đều là những người viết giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức.

Phóng sự – Giao lộ giữa thời sự và văn chương

Để kể về một trong những dạng thức tiêu biểu nhất cho sự dung hòa giữa báo chí và văn học trong lịch sử, thì ắt hẳn không thể bỏ qua dòng văn học phóng sự - thể loại nở rộ từ đầu thế kỷ XX với những cây bút như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang (Tôi kéo xe), Nguyễn Huy Tưởng (Bốn năm sau), và sau này là các phóng sự chiến trường đầy ấn tượng của Nguyễn Tuân, Trần Đăng, Phùng Quán.

Những tác phẩm như Tôi kéo xe của Tam Lang hay Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng không chỉ dừng lại ở việc thuật lại sự kiện, mà đã trở thành tấm gương phản chiếu xã hội, nơi người đọc vừa thấy thực tại, vừa cảm nhận được góc nhìn sắc sảo, nhân văn của người cầm bút. Phóng sự, nhờ vậy, không chỉ là một thể loại, mà còn là minh chứng sống động cho quyền lực của chữ nghĩa trong việc đối thoại với thời đại.

Phóng sự mang đậm hơi thở thời sự, tinh thần thời điểm, và sức mạnh phản ánh hiện thực - ba yếu tố cốt lõi làm nên giá trị sống còn của báo chí. Đây đều là những điều cốt tủy của nghề viết báo, và khi đi qua bàn tay nhà văn, nó được nâng lên thành nghệ thuật nhờ cách kể chuyện, xây dựng hình ảnh, sử dụng ngôn ngữ và biểu đạt cảm xúc. Những đoạn miêu tả ngắn, những câu kết hóm hỉnh mà giàu suy tư, hay những chi tiết bắt gặp giữa dòng đời, v.v. tất cả được nhà văn khéo léo đặt vào khung hình chữ, vừa chân thực, vừa rung động.

Có thể nói, văn học phóng sự chính là dạng thức rõ ràng nhất của sự giao thoa giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức. Nó vừa yêu cầu tính chính xác, trách nhiệm xã hội của người làm báo, vừa đòi hỏi sự tinh tế, đồng cảm và chiều sâu tư tưởng của người nghệ sĩ ngôn từ.

Báo chí, ở một nghĩa nào đó, chính là chiếc neo giữ cho văn chương không bị trôi dạt khỏi một thực tại đầy biến động mà văn học hiện đại đôi khi e ngại đối diện. Và ngược lại, văn học cũng truyền cho báo chí một điều ngược lại: khả năng lay động cảm xúc, chiều sâu của cái nhìn và sức sống bền bỉ qua thời gian. Những phóng sự xuất sắc không chỉ khiến người đọc "biết", mà còn khiến họ "nghĩ" và "thấy" - bằng đôi mắt của trái tim.

Ngày nay, thể loại này vẫn tiếp tục được phát triển, với các cây bút như Trần Mai Hạnh (Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75), hay qua những ký sự dài kỳ mang tính văn học đăng trên các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, An Ninh Thế Giới. Chúng không chỉ ghi chép sự kiện mà còn truyền tải tinh thần thời đại bằng những câu chuyện đời thường lay động.

Từ sự thật đến hư cấu: Văn học thể nghiệm và ảnh hưởng của báo chí

Bên cạnh văn học phóng sự, một mạch ngầm khác đang trỗi dậy là văn học thể nghiệm, nơi các tác giả không ngại thử nghiệm các hình thức viết mới, trộn lẫn chất báo chí với tư duy tiểu thuyết, hồi ký, thậm chí là phi hư cấu sáng tạo (creative nonfiction). Đây là nơi mà sự thật không chỉ được ghi nhận, mà còn được tái tạo qua lăng kính cá nhân. Người viết không đứng ngoài quan sát, mà dấn thân vào câu chuyện. Họ không chỉ “thấy” mà còn “cảm” và “nghĩ”. Chính sự nhập vai ấy khiến văn học thể nghiệm ngày nay không còn là vùng đất của thuần hư cấu, mà là chỗ để đời sống lên tiếng, không qua trung gian.

Chúng ta có thể nhắc đến các tác giả như Đặng Hoàng Giang với Điểm đến của cuộc đời, hay Phan Việt với Xuyên Mỹ, nơi văn học được viết bằng giọng điệu của nhật ký, ký sự, đôi khi lồng ghép cả dữ liệu thực tế. Ở đó, ranh giới giữa nhà văn và nhà báo được làm mờ, và người viết trở thành một nhân chứng, một người kể chuyện mang tính cá nhân nhưng phản ánh vấn đề chung. 

Các tác phẩm như Chuyện của thiên tài của Nguyễn Thế Hoàng Linh, hay Những thiên đường mù của Dương Thu Hương - dù không trực tiếp là báo chí - vẫn cho thấy ảnh hưởng của lối viết sát thực, sắc lạnh, đậm tính “nhìn thấy rồi kể lại” mà nghề báo rèn giũa. Điều này tạo nên một dòng văn chương dung hợp giữa quan sát xã hội và đào sâu nội tâm, giữa lý trí tỉnh táo và cảm xúc mãnh liệt.

Sự dung hòa giữa cái thật và cái nghĩ, giữa báo chí và văn chương, đang mở ra một không gian viết mới, nơi người đọc không chỉ đọc để biết, mà đọc để thấm, để đối diện với chính mình trong hiện thực đang biến động.

“Văn chương dung hợp” hay sự “khai phá” cho văn học hiện đại

Trong những năm gần đây, sự chuyển mình của báo chí hiện đại - từ báo giấy sang báo mạng, từ đưa tin sang bình luận - đã đồng thời mở ra một không gian mới cho văn chương thể nghiệm. Nhiều nhà văn trẻ hiện nay không chỉ “làm văn học” theo nghĩa truyền thống, mà còn tận dụng các công cụ báo chí, điều tra, ghi chép thực tế, phỏng vấn nhân vật,... để dựng nên những cấu trúc tiểu thuyết “lai” điển hình giữa ký sự, tiểu luận và hư cấu.

Khi báo chí và văn chương hòa quyện, điều ta có được là một thứ văn học không chỉ để "thưởng thức" mà còn để "hiểu", không chỉ để "mơ mộng" mà còn để "thức tỉnh". Thế hệ những cây bút trẻ hiện nay như Nguyễn Ngọc Tư, Phan An, Đinh Hằng, Nguyễn Thiên Ngân cùng nhiều gương mặt khác đang cho thấy một hướng đi thú vị: họ không ngần ngại bắt đầu từ những chuyên trang báo chí, blog, mạng xã hội, nhưng lại làm nên những tác phẩm văn học độc đáo, cá nhân, và giàu chất sống.

Không khó để nhận ra những tác phẩm đương đại đang đi theo con đường dung hợp ấy. Đi như là ở lại của Lê Vũ Trường Giang mang dáng dấp của một hành trình ký sự nhưng lại thấm đẫm chiêm nghiệm nội tâm. Ngay cả những tập truyện ngắn như Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư cũng cho thấy khả năng nhìn đời sống từ một con mắt báo chí - sắc lạnh nhưng không đánh mất độ rung cảm.

Sự lai ghép không làm văn học mất đi bản sắc, mà ngược lại, mở ra những hình thức biểu đạt mới, nơi người viết không còn bó mình trong vai trò “người kể chuyện” mà còn trở thành “người đối thoại”: vừa là nhân chứng, vừa là kẻ kiến tạo thế giới. Trong dòng chảy ấy, “văn chương dung hợp” không chỉ là một khái niệm, mà là một câu trả lời nghệ thuật cho những khắc khoải hiện sinh, cho khát vọng ghi lại thế giới này bằng đôi mắt vừa tỉnh táo vừa dịu dàng.

Sự dung hợp này không đơn thuần là một trào lưu hình thức, mà là cách mà văn học hiện đại đang tìm đường để tái định nghĩa chính mình: không còn khép kín trong thế giới hư cấu, mà mở ra trước những chuyển động của đời sống và con người đương đại. Văn học, nhờ đó không chỉ tiếp tục vai trò phản ánh, mà còn trở thành một công cụ nhận thức - như một cuộc trò chuyện hai chiều giữa tác giả và độc giả, giữa thực tại và tưởng tượng. 

Ngày nay, sự phân ranh giữa nhà báo và nhà văn có thể mờ đi, nhưng điều quan trọng vẫn là: người cầm bút cần giữ cho mình sự trung thực, dũng cảm và thấu cảm, bất kể viết ở thể loại nào. Nhà báo giỏi cũng có thể trở thành nhà văn lớn, và nhà văn, nếu biết lắng nghe đời sống và giọng nói nhân dân, cũng là một nhà báo của tinh thần.

Trong thời đại mà thông tin tràn ngập và cái gọi là “thật” nhiều khi bị thao túng, thứ văn chương dung hợp giữa báo chí và nghệ thuật chính là ngọn lửa giữ cho chữ nghĩa không hóa rỗng. Và hành trình “từ viết báo đến viết sách” sẽ còn tiếp tục như một dòng chảy, nơi con chữ được gọt giũa bởi cả sự thật và cái đẹp.

Hải Đăng

Đọc bài viết

Cafe sáng