Sáng tác

Truyện ngắn: Scheherazade (Murakami Haruki)

Sau mỗi lần họ quan hệ, cô đều kể cho Habara nghe một câu chuyện lạ lùng và thú vị. Hệt như nữ hoàng Scheherazade trong “Ngàn lẻ một đêm.”

Published

on

LỜI DỊCH GIẢ: 

Trong truyện ngắn được đăng tải trên tờ New Yorker số ra ngày 13.10.2014, Scheherazade, Murakami viết về quan hệ giữa một nhân vật nam bị cô lập trong nhà (anh tự nhận mình là “đảo hoang”) và một người phụ nữ trung niên bí ẩn được giao nhiệm vụ chăm sóc (hay giám hộ?) anh lồng ghép trong câu chuyện về tiền kiếp của cô như là một con cá mút đá và câu chuyện về tuổi thành niên rối bời bởi những tình cảm đầu đời, khao khát được quan tâm yêu thương, các tò mò giới tính, và sự kết nối mỏng manh như tơ của con người với nhau thấm đượm một cảm thức đạm tịch của đời.

Bằng vào các chi tiết được cung cấp khá đại lược trong truyện, chúng ta không cách nào xác định nhân thân của các nhân vật. Mơ hồ như danh tính và số phận của bất cứ ai trên thế gian này, thầm lặng sống và chết, như “thoáng cảnh qua một lỗ nhỏ” trên bức màn thời gian phù hư vô tận. Cũng không có cách nào biết được, vì sao nhân vật nam chính lại không ra khỏi nhà. Vì bị câu lưu, hay tự trừng phạt, hoặc tự rèn luyện trong kỉ luật của một loại công việc đặc thù? Murakami trả lời phỏng vấn: “Độc giả có thể tự đưa ra câu trả lời, tôi chỉ viết.”

“Đời thật lạ, nhỉ? Anh có thể hoàn toàn bị mê hoặc vì cái gì đó một phút, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để khiến nó là của anh, nhưng rồi một thời gian ngắn trôi qua, hay phối cảnh của anh biến chuyển một chút, và thình lình mọi thứ sáng rực rỡ làm anh choáng váng thế đó bỗng mờ phai. Em đã tìm kiếm gì? chắc anh đang tự hỏi thế. Vậy đó, câu chuyện về giai đoạn ‘bẻ khóa và đột nhập’ của em.” Lời tự bạch ấy của Scheherazade, cùng các ảnh tượng hay thị kiến của cô về các tiền thân của mình, phác vẽ tổng quan một bức tranh huyền hoặc về kiếp mạng hư ảo của toàn bộ các sinh thể trên thế gian. Loài cá mút đá, nơi đáy hồ sâu quạnh hiu của chúng, có khi sẽ chẳng có cơ hội thấy một mống cá hồi nào, dù béo hay gầy, ngang qua. Chúng rồi sẽ bám chặt lấy các tảng đá đó, chết trong lạnh lẽo và vô danh. Viễn cảnh mất mát đầy hư vô đó, cũng như khả năng những người gần gũi bên ta đột ngột biến mất vào một lúc nào đó trong đời mình, như mặt trời chìm.

Bằng cách gì, chúng ta có thể thấy được hay tỉnh thức về định mệnh trêu ngươi: “tất cả chúng ta rồi sẽ chết!”–một cách nói khác của việc “sẽ hoàn toàn mất tự do” như Habara hình dung cuối truyện? Phải chăng, mọi dòng sinh mệnh hiện hữu trên thế gian, như ngàn đời vẫn thế, tự hiển lộ mình bằng cách vừa được ấp ủ trong một bên tay của thực tại tồn lưu cùng lúc phủ nhận triệt để thực tại tồn hiện đó bên một cánh tay khác? Như ai cũng biết đấy, đời người thật tột cùng huyễn giác, như móc sương, như bóng chớp. Nhưng có lẽ, một câu hỏi khác sẽ được âm thầm kí thác liền sau: “Vậy còn cái gì đáng trân quý hơn đời-sống-thực-tại-này chăng?”  

***

Sau mỗi lần họ quan hệ, cô đều kể cho Habara nghe một câu chuyện lạ lùng và thú vị. Hệt như nữ hoàng Scheherazade trong “Ngàn lẻ một đêm.” Cho dù, dĩ nhiên, Habara chẳng giống vị vua, không có ý định chém đầu cô sáng hôm sau. (Gì đi nữa, cô đã chẳng bao giờ ở lại với anh đến sáng.) Cô kể cho Habara nghe các câu chuyện vì cô muốn thế, vì, anh đoán, cô thích cuộn mình trong giường và trò chuyện với một người đàn ông trong các khoảnh khắc thân mật, hoang hoải sau khi làm tình đó. Và chắc cũng, bởi cô đã mong Habara, người phải trải qua mọi ngày bị giam chân trong nhà, cảm thấy thư thái.    

Bởi điều này, Habara đã đặt tên người đàn bà là Scheherazade. Anh không bao giờ dùng tên đó trước mặt cô, đó chỉ là cách anh ám chỉ đến cô trong cuốn nhật kí nhỏ mà anh giữ. “Scheherazade đến hôm nay,” anh chép bằng bút bi. Rồi anh ghi lại ý chính của câu chuyện hôm ấy với những mục từ khó hiểu, sơ lược để chắc chắn ngăn bất cứ ai có thể đọc cuốn nhật kí sau này.   

Habara không biết các câu chuyện của cô là thật hay hư cấu, hoặc có phần thật và có phần hư cấu. Anh không có cách nào kể ra được. Thực tại và giả định, sự quan sát và phóng tưởng thuần túy dường như trộn lẫn vào nhau trong các tường thuật của cô. Bởi thế Habara thích thú chúng như một đứa trẻ có thể, mà không hỏi quá nhiều. Nói cho cùng, liệu có gì khác nhau về phía anh, nếu chúng là những lời nói dối hay sự thật, hoặc là một chắp vá phức hợp của cả hai chứ? 

Trường hợp nào đi nữa, Scheherazade có năng khiếu kể các câu chuyện chạm đến con tim. Bất kể đó là loại chuyện gì, cô cũng đã khiến nó đặc biệt. Giọng nói, cách chọn thời điểm, nhịp kể của cô, tất cả đều không tì vết. Cô thu hút sự chú tâm của người nghe, dẫn dụ, thúc đẩy anh cân nhắc và suy xét, rồi cuối cùng, đưa ra chính xác điều anh tìm kiếm. Bị quyến hoặc, Habara có thể quên đi thực tại xung quanh mình, dù chỉ một chốc. Hệt như một bảng đen được chùi sạch với tấm vải ẩm, anh được xóa đi những lo âu, các kí ức khó chịu. Ai có thể đòi hỏi hơn thế nữa? Ở thời điểm này trong cuộc đời anh, kiểu lãng quên đó là điều Habara ước ao hơn bất cứ gì khác. 

Scheherazade 35, nhiều hơn Habara bốn tuổi, và là một người nội trợ toàn thời gian với hai con đang học tiểu học (dù cô cũng là một y tá có chứng chỉ và có vẻ như được gọi đến cho công việc phụ động.) Chồng cô là một viên chức văn phòng điển hình. Nhà họ cách chỗ Habara 29 phút lái xe. Đây là tất cả (hay gần như tất cả) thông tin cá nhân cô đã tự nói. Habara chẳng có bất cứ cách gì để xác minh cả, nhưng anh không thể nghĩ ra lí do đặc biệt nào để nghi ngờ cô. Cô không bao giờ tiết lộ tên mình. “Anh chẳng có nhu cầu phải biết, đúng không?” Scheherazade hỏi. Cô cũng chẳng khi nào gọi Habara bằng tên anh, dù dĩ nhiên là cô biết. Cô khéo léo tránh xa danh tính, như thể hẳn sẽ không may mắn hay chẳng thích đáng nếu phải nói nó cách nào đó qua môi cô.

Điều này, xét ở bề ngoài, chí ít thì Scheherazade chẳng có gì chung với nữ hoàng xinh đẹp trong “Ngàn lẻ một đêm.” Cô đang ở tuổi trung niên và đã bước vào tình trạng nhão cơ, với hàm cằm hơi trễ và những nếp nhăn nơi đuôi mắt. Kiểu tóc, kiểu trang điểm và loại trang phục của cô không hẳn là bừa bãi, nhưng chúng cũng không thích hợp để nhận bất cứ lời khen ngợi nào. Ngoại hình cô không phải không hấp dẫn, nhưng khuôn mặt thiếu điểm nhấn, vì thế ấn tượng cô để lại cứ mờ ảo sao đó. Vậy nên, những ai đi cạnh cô trên phố, hoặc đứng chung thang máy, chắc sẽ để ý đến cô một chút. Mười năm trước, có thể cô đã là một phụ nữ trẻ xinh tươi và hấp dẫn, thậm chí có lẽ một vài cái đầu phải ngoái nhìn. Dù vậy, ở một thời điểm nào đó, tấm màn đã buông xuống phần đời đó của cô và dường như không hứa hẹn sẽ kéo lên lại.

Scheherazade đến gặp Habara hai lần một tuần. Những ngày đó không cố định, nhưng cô không bao giờ đến vào cuối tuần. Hẳn nhiên cô dùng thời gian đó với gia đình mình. Cô luôn gọi điện trước khi đến một giờ. Cô mua hàng ở siêu thị trong vùng và mang chúng cho anh bằng ô tô của mình, một chiếc Mazda màu xanh biển nhỏ đuôi lật. Một mẫu xưa, có một vết móp trên khung cản hậu và bánh xe đen bẩn bụi. Đậu nó vào khoảng trống dành riêng được ấn định trước nhà, cô sẽ mang các túi hàng đến trước cửa và nhấn chuông. Sau khi kiểm tra qua mắt cửa, Habara sẽ mở khóa, tháo móc xích, và để cô vào. Đến bếp, cô sẽ phân loại hàng đã mua và sắp chúng vào tủ lạnh. Rồi cô sẽ ghi một danh sách những thứ cần mua trong lần tới. Cô thực hiện các nhiệm vụ một cách khéo léo, hạn chế tối thiểu cử động thừa, và nói ít suốt trong lúc đó.

Một khi cô xong việc, không nói lời nào hai người sẽ chuyển vào phòng ngủ, như thể chịu tác động bởi một dòng chảy vô hình ở đó. Scheherazade nhanh chóng cởi quần áo và, vẫn im lặng, kết hợp với Habara trong giường. Cô nói vừa đủ trong lúc họ làm tình, và cũng, thực hiện mỗi hành động như thể hoàn thành một trọng trách. Khi cô đang hành kinh, cô sẽ dùng tay để làm tròn kết thúc tương tự. Sự thuần thục, đúng hơn là kiểu đâu ra đấy của cô nhắc Habara rằng cô là một y tá được cấp phép. 

Quan hệ xong, họ nằm trong giường và trò chuyện. Chính xác hơn là, cô nói và anh lắng nghe, đệm thêm một lời thích hợp chỗ này, hỏi một câu thỉnh thoảng chỗ nọ. Khi đồng hồ chỉ bốn giờ ba mươi, cô sẽ ngắt câu chuyện (bởi một lí do nào đó, nó dường như luôn luôn chỉ vừa đúng đến lúc cao trào), nhảy khỏi giường, nhặt quần áo của mình lên, và sẵn sàng rời đi. Cô phải về nhà, cô nói, để sửa soạn bữa tối.

Habara sẽ nhìn cô qua cửa, móc lại chốt xích, và trông qua các bức màn khi chiếc ô tô xanh biển nhỏ đầy bụi xa dần. Sáu giờ, anh làm một bữa tối đơn giản và ăn cùng chính mình.  Anh từng có lần làm việc như một đầu bếp, nên việc thiết kế một bữa ăn không phải là cam go gì lắm. Anh chiêu Perrier [nước trái cây có ga của Pháp–ND] cùng bữa tối (anh không đời nào đụng đến chất cồn) và tiếp theo với một cốc cà phê, mà anh nhấm nháp lúc xem một DVD hay đọc sách. Anh thích những cuốn sách dài, đặc biệt những cuốn phải đọc vài lần mới hiểu. Không có nhiều thứ khác để làm. Anh không có ai để nói chuyện. Không ai để gọi điện. Không có máy tính, anh không có cách gì truy cập internet. Không báo nào được giao tới, và anh không bao giờ xem truyền hình. (Đã có một lí do hay ho về điều đó.) Chuyện đó đã đến mà không hề nói rằng anh không thể ra ngoài. Có thể các chuyến viếng thăm của Scheherazade sẽ tạm dừng bởi một lí do nào đó, anh ắt bị bỏ lại hoàn toàn đơn độc.

Habara không quá băn khoăn với viễn cảnh này. Nếu điều đó xảy ra, anh nghĩ, hẳn sẽ khó khăn, nhưng rồi mình sẽ lê qua được bằng cách này hay cách khác. Mình không bị kẹt trên một hoang đảo. Không, anh nghĩ, mình một hoang đảo.  Anh đã luôn luôn thấy thỏa mái với chính mình. Dù vậy, điều làm anh lo lắng là ý nghĩ về khả năng không còn được nói chuyện trong giường với Scheherazade nữa. Hay, chuẩn xác hơn, bỏ lỡ kì tiếp theo của câu chuyện cô kể. “Em đã là một con cá mút đá* ở một tiền kiếp,” Scheherazade có lần nói, khi họ nằm bên nhau trong giường. Một đánh giá thẳng tuột, đơn giản, tự nhiên như thể cô phát ngôn rằng Bắc Cực nằm xa về phía Bắc. Habara chẳng có manh mối gì về loài sinh vật là cá mút đá, hay loài nào đó trông giống ít nhiều. Nên anh không có ý kiến đặc biệt nào về vấn đề này.    

“Anh có biết một con cá mút đá ăn một con cá hồi ra sao không?” cô hỏi.

Anh không biết. Thực ra, lần đầu tiên anh nghe rằng cá mút đá ăn thịt cá hồi.

“Cá mút đá không có hàm. Đó là cái khiến chúng xếp riêng ra với các loài lươn khác.” 

“Hả? Lươn có hàm ư?”

“Anh chưa từng nhìn một con nào hẳn hòi sao?” cô nói, kinh ngạc. 

“Thỉnh thoảng anh có ăn lươn, nhưng anh chưa khi nào có cơ hội để thấy chúng có hàm hay không.”

“Chà, lúc nào đó anh nên tìm hiểu xem. Đến một công viên thủy sinh hay chỗ nào đó như thế. Thông thường loài lươn có hàm với răng. Nhưng cá mút đá chỉ có các giác mút, mà chúng dùng để bám mình vào đá ở đáy sông hay hồ. Rồi chúng hệt như loài trôi nổi ở đó, uốn lượn tới lui, như các đám rong.”  

Habara mường tượng một bầy cá mút đá đong đưa hệt như các đám rong ở đáy hồ. Cảnh tượng dường như cách biệt với thực tại sao đó, mặc dù thực tại, anh biết, nhiều lúc cũng có thể phi thực kinh khủng.

“Cá mút đá sống như thế, ẩn giữa những đám rong. Nằm chờ. Rồi, khi một con cá hồi băng qua trên đầu, chúng lao tới và ngoạm chặt con cá ấy với các giác mút của chúng. Bên trong các giác mút đó là những thứ giống như lưỡi với răng, tì xát tới lui lên bụng cá hồi đến khi một lỗ mở ra và chúng bắt đầu có thể nhấm nháp thịt cá hồi, từng miếng một.”

“Anh sẽ không thích là một con cá hồi,” Habara nói.

“Về thời La Mã, họ nuôi cá mút đá trong các ao. Những nô lệ cao ngạo bị quăng vào đó và lũ cá mút đá ăn sống họ.”  

Habara nghĩ anh cũng chẳng hề thích thú làm một nô lệ La Mã. 

“Lần đầu em nhìn thấy một con cá mút đá là lúc còn ở trường tiểu học, trong một chuyến tham quan của lớp tới công viên thủy sinh,” Scheherazade nói. “Khoảnh khắc em đọc bản mô tả về việc chúng sống ra sao, em biết rằng mình đã là một con cá mút đá ở một tiền kiếp. Em muốn nói, mình thật sự có thể nhớ được–việc bám chặt vào một hòn đá, đang đong đưa vô hình giữa các đám rong, nhìn con cá hồi béo múp đang bơi bên trên em.”  

“Em có thể nhớ việc ăn thịt chúng chứ?”

“Không, em không thể.”

“Thật nhẹ cả người,” Habara nói. “Nhưng đó là mọi thứ em hồi tưởng được từ kiếp trước của em khi còn là một con cá mút đá–đang đong đưa qua lại ở đáy sông à?”

“Một tiền kiếp không thể được triệu hồi hệt như thế,” cô nói. “Nếu anh may mắn, anh đón được một tia chớp về cái gì tương tự vậy thôi. Giống như việc bắt gặp một cảnh thoáng hiện qua một lỗ nhỏ xíu trên tường. Anh có thể hồi tưởng bất cứ gì về các tiền kiếp của mình không?”  

“Không, không một chút nào,” Haibara nói. Chính thực mà nói, anh chẳng đời nào cảm thấy thúc giục muốn thăm lại một tiền kiếp. Anh đã có trọn vẹn đôi tay với đời sống hiện tại.

“Tĩnh lặng, nó cảm nhận sự nguyên khiết xinh đẹp nơi đáy hồ. Lộn ngược với miệng mình bám chặt vào tảng đá, xem cá bơi trên đầu. Một lần em đã thấy một con rùa thực sự lớn bất thần, quá đỗi, một cái bóng đen khổng lồ lừng lững trôi qua, hệt như chiếc phi thuyền quỉ dị trong phim ‘Star Wars.’ Và những con chim trắng lớn với mỏ sắc, dài; từ bên dưới, chúng trông giống như các đám mây đang lướt qua bầu trời.” 

“Và bây giờ em vẫn có thể thấy tất cả thứ này chăng?”

“Rõ như ban ngày,” Scheherazade nói. “Ánh sáng, lực đẩy của dòng chảy, mọi thứ. Thậm chí đôi lúc em có thể quay lại đó trong tâm trí mình.”

“Với những gì em đang nghĩ lúc đó ư?”

“Đúng rồi.”

“Bọn cá mút đá nghĩ về thứ gì thế?”

“Cá mút đá nghĩ tới các ý tưởng y hệt-cá-mút-đá. Về những chủ đề hệt-cá-mút-đá trong một phạm vi y hệt-cá-mút-đá. Chẳng có từ nào cho các ý tưởng đó. Chúng thuộc về thế giới nước. Hệt như khi chúng ta ở trong tử cung. Chúng ta nghĩ về mọi vật nơi đó, nhưng chúng ta không thể diễn đạt các ý tưởng đó bằng ngôn ngữ chúng ta tận dụng nơi đây. Đúng không?” 

“Gượm một giây nào! Em có thể nhớ những cái hệt như trong tử cung sao?”

“Hẳn rồi,” Scheherazade nói, ngẩng đầu mình nhìn qua ngực anh. “Anh không thể ư?” 

Không, anh đáp. Anh không thể.

“Rồi lúc nào em sẽ kể cho anh nghe. Về đời sống trong tử cung.” 

“Scheherazade, Cá mút đá, Các tiền kiếp” là những từ Habara ghi lại trong nhật kí của mình hôm đó. Anh ngờ rằng bất cứ ai bắt gặp các từ này hẳn sẽ đoán ý nghĩa của chúng là gì.  

Habara gặp Scheherazade lần đầu bốn tháng trước. Anh đã chuyển đến ở nhà này, trong một thành phố tỉnh lẻ phía Bắc Tokyo, và cô được phân công như là “giao liên hỗ trợ” của anh. Bởi vì anh không thể ra ngoài, vai trò của cô là mua thực phẩm và các món khác mà anh yêu cầu và mang chúng tới nhà. Cô cũng lần tìm bất cứ cuốn sách hay tạp chí nào anh ước đọc, và bất kì CD nào anh muốn nghe. Thêm nữa, cô chọn ra một bảng phân loại các DVD–dù anh có một thời kì chật vật để chấp nhận tiêu chí tuyển tập của cô về mặt này.    

Một tuần sau khi anh đến, như thể một bước kế tiếp hiển nhiên, Scheherazade đưa anh vào giường. Có sẵn các bao cao su ở bàn bên đầu giường khi anh đến. Habara đoán rằng tình dục cũng là một trong các trách nhiệm được phân công của cô–hay có lẽ “các hoạt động hỗ trợ” là mục từ họ sử dụng. Mục từ gì đi nữa, và động cơ của cô là gì chăng nữa, anh đã bước vào dòng và chấp thuận đề xuất của cô mà chẳng ngập ngừng.

Chính xác thì tình dục của họ không phải là gượng ép, nhưng cũng không thể nói rằng con tim họ giao kết hoàn toàn. Dường như cô luôn cảnh giác, hầu ngăn họ đến mức quá say đắm–y như một người dạy lái có lẽ không muốn học viên của mình trở nên quá hưng phấn trong việc cầm lái của họ. Tuy nhiên, trong lúc làm tình không có cái gọi là niềm đam mê, cũng không hoàn toàn là công việc. Điều đó có thể đã bắt đầu như một trong các bổn phận của cô (hay, chí ít, như cái gì đó bị thôi thúc mạnh mẽ), nhưng ở một thời điểm nhất định dường như cô đã tìm thấy một kiểu hài lòng trong ấy. Habara có thể kể điều này từ các cách thức vi tế nhất định trong đó cơ thể cô hưởng ứng, một hưởng ứng cũng làm anh khoái thích. Sau hết, anh không phải là một con thú hoang bị nhốt trong chuồng mà là một con người được trang bị với đủ các cung bậc xúc cảm, và tình dục chỉ thuần mục đích giải phóng có tính vật lí thì khó lòng thỏa mãn hết. Tuy nhiên Scheherazade xem quan hệ tình dục của họ như là một bổn phận của cô đến chừng mực nào, và nó thuộc về lĩnh vực đời sống cá nhân của cô đến đâu? Anh không thể nói được.  

Điều này cũng đúng với những chuyện khác nữa. Habara thường thấy các ý hướng và cảm giác của Scheherazade là khó nhận biết. Chẳng hạn, phần lớn thời gian cô mặc những chiếc quần lót vải bông trơn giản dị. Kiểu quần lót anh hình dung các bà nội trợ lứa tuổi ba mươi thường mặc–dù điều này thuần túy là phỏng đoán, bởi vì anh chẳng có trải nghiệm nào với các bà nội trợ tuổi ấy. Tuy vậy, một số hôm, cô quay ra với những chiếc quần lót ren kiểu cách, đủ màu thay nhau. Tại sao cô xoay chuyển giữa hai kiểu đó thì anh không có manh mối nào.

Chuyện khác làm anh bối rối nữa là sự kiện rằng việc làm tình của họ và việc kể chuyện của cô liên kết rất chặt chẽ, khiến khó lòng kể được nơi nào cái này kết thúc và cái kia bắt đầu. Anh chưa bao giờ trải nghiệm bất cứ chuyện gì như thế này trước kia: mặc dù không yêu cô, và chuyện tình dục thì sơ sơ thôi, anh cũng đã chung đụng sít sao với cô về mặt vật lí. Mọi thứ khá là hoang mang. 

“Em còn vị thành niên khi em bắt đầu đột nhập các căn nhà trống,” một hôm cô nói thế khi họ nằm trong giường.

Habara–như lệ thường khi cô kể các câu chuyện–thấy mình chẳng thể mở môi lời nào.

“Anh có bao giờ đột nhập nhà ai đó chưa?” cô hỏi.

“Anh không nghĩ vậy,” anh trả lời bằng giọng ráo hoảnh.

“Thử một lần đi và anh sẽ nghiện cho xem.”

“Nhưng thế là bất hợp pháp.”

“Khỉ thật. Nguy hiểm, nhưng anh vẫn chuồn được mà.” 

Habara im lặng chờ cô tiếp tục.

“Chuyện ớn lạnh nhất về việc hiện diện trong nhà người khác khi không một ai ở đó,” Scheherazade nói, “là nó mới tịch mịch làm sao. Không một âm thanh. Hệt như một chốn im lìm nhất trên thế giới. Gì đi nữa, đó là cách cảm nhận của em. Khi ngồi trên sàn nhà và giữ yên lặng tuyệt đối, kiếp cá mút đá quay lại với em. Em đã bảo anh về chuyện em là một con cá mút đá ở tiền kiếp, đúng không?”

“Ừ, em đã.”

“Nó hệt như thế. Những giác mút của em bám dính một tảng đá dưới nước và cơ thể em uốn lượn tới lui trên đầu, như các đám rong quanh em. Mọi thứ quá im lìm. Dù có thể điều đó là bởi em không có tai. Vào những ngày nắng, ánh sáng chiếu xuống từ bề mặt như một mũi tên. Cá đủ màu và hình dạng lơ lửng bên trên. Và tâm trí em trống rỗng ý tưởng. Tức là, trừ ra các ý tưởng của cá mút đá. Những ý tưởng đó đầy mây nhưng rất thuần khiết. Thật là một nơi tuyệt diệu.”

Lần đầu tiên Scheherazade đột nhập nhà người khác, cô giải thích, cô là học sinh lớp mười một và mê như điếu đổ một cậu bạn cùng lớp. Dù không phải loại bạn có thể gọi là đẹp trai, cậu ấy cao ráo và sáng sủa, một học sinh giỏi chơi trong đội bóng đá, và cô bị cậu ấy thu hút mạnh mẽ. Nhưng hình như cậu ấy thích một bạn gái khác trong lớp và chẳng hề để ý đến Scheherazade. Thực ra, có khả năng là cậu ấy không nhận biết là cô có tồn tại. Tuy nhiên, cô không thể gạt cậu ấy ra khỏi tâm trí. Chỉ vừa thấy cậu đã khiến cô ngạt thở; đôi lúc cô cảm thấy như thể mình đang gần như muốn nôn. Nếu cô không làm gì đó với điều đó, cô nghĩ, mình có thể hóa rồ. Nhưng cô không thể hé răng để thổ lộ tình yêu của mình được.  

Ngày nọ, Scheherazade không tới trường và đến nhà của cậu trai kia. Mất khoảng mười lăm phút đi bộ từ nơi cô ở. Cô đã điều nghiên hoàn cảnh gia đình cậu ấy từ trước. Mẹ cậu dạy tiếng Nhật tại một trường ở thị xã kế cận. Cha cậu, làm việc tại một công ty xi-măng, đã chết trong một tai nạn ô tô ít năm trước. Em gái cậu là học sinh cấp 2. Điều này có nghĩa là ngôi nhà sẽ trống rỗng suốt ngày.

Không ngạc nhiên, cửa trước đã khóa. Scheherazade kiểm tra dưới tấm thảm tìm một chìa khóa. Đúng thế thật, có một chiếc ở đó. Các cộng đồng dân cư yên tĩnh ở các thành phố tỉnh lẻ như họ ít có tội phạm, và một chìa khóa dự phòng thường được để dưới một tấm thảm hay một chậu cây.

Để an toàn, Scheherazade nhấn chuông, chờ để nắm chắc rằng không ai trả lời, quét mắt nhìn đường phố phòng trường hợp cô bị theo dõi, mở cửa, rồi lẻn vào. Cô khóa cửa lại từ bên trong. Tháo giày, cô đặt chúng trong túi xốp và bỏ vào ba lô đeo trên lưng. Rồi cô nhón chân rón rén lên cầu thang đến tầng hai.  

Phòng cậu ấy đây rồi, như cô đã hình dung. Giường được dọn phẳng phiu. Trên kệ sách có một máy phát  âm thanh nổi (stereo), với một vài đĩa CD. Trên tường, treo một cuốn lịch với một bức ảnh đội bóng Barcelona và, bên cạnh, thứ gì đó trông như một khẩu hiệu của đội, ngoài ra chẳng còn gì khác. Không áp phích, không tranh ảnh. Chỉ là một bức tường màu kem. Một bức màn trắng treo trên cửa sổ. Căn phòng ngăn nắp, mọi thứ nằm đúng chỗ. Không cuốn sách nào bày bừa, không quần áo nào vương vãi trên sàn. Căn phòng chứng tỏ tính cách tỉ mỉ của người ở. Hoặc là của một người mẹ giữ ngôi nhà mình hoàn hảo. Hay cả hai. Nó khiến Scheherazade bồn chồn. Nếu căn phòng bừa bộn hơn, sẽ không ai chú ý đến bất cứ xáo trộn nhỏ nào mà cô có thể gây ra. Tuy nhiên, cùng lúc, sự quá sạch sẽ và đơn sơ của căn phòng, trật tự hoàn hảo của nó, khiến cô vui sướng. Giống hệt cậu ấy.

Scheherazade hạ mình vào ghế bàn học và ngồi đó một lúc. Đây là nơi cậu ấy học mỗi đêm, cô nghĩ, tim đập thình thịch. Từng cái một, cô nhặt các dụng cụ trên bàn lên, xoay chúng giữa các ngón tay, ngửi chúng, giữ chúng trên môi mình. Những cây bút chì, kéo, thước, bấm kim–những đồ vật bình phàm nhất cách nào đó đã trở nên lung linh vì chúng thuộc về cậu. 

Cô mở các ngăn kéo bàn học và cẩn thận kiểm tra các thứ bên trong. Ngăn trên cùng được chia thành nhiều ô, mỗi phần chứa một ô nhỏ với một sự phân tán các đồ vật và quà lưu niệm. Ngăn thứ hai phần lớn bị choán chỗ bởi tập vở của các môn cậu đang học hiện giờ, trong khi ngăn đáy (ngăn dưới cùng) chứa đầy các trang giấy, các cuốn tập và bài kiểm tra cũ được phân loại. Gần như mọi thứ đều liên quan đến trường lớp hay đội bóng. Cô đã hi vọng bắt gặp một cái gì có tính cá nhân–một cuốn nhật kí, có lẽ, hay các bức thư–nhưng cái bàn không giữ thứ gì kiểu vậy. Thậm chí không một bức ảnh. Điều đó đập vào Scheherazade như là có chút không tự nhiên. Chẳng lẽ cậu ấy không có một đời sống nào ngoài trường học và đội bóng sao? Hay cậu đã cẩn thận giấu mọi thứ có tính chất riêng tư vào nơi sẽ không ai bắt gặp được nhỉ?

Tuy vậy, chỉ ngồi yên tại bàn học của cậu và đưa mắt nhìn lên chữ viết của cậu cũng kích thích Scheherazade khôn tả. Để trấn tĩnh mình, cô rời khỏi ghế và ngồi xuống sàn. Cô nhìn lên trần nhà. Sự im lìm quanh cô là tuyệt đối. Bằng cách này, cô quay lại với thế giới cá mút đá.

“Vậy mọi thứ em làm,” Habara hỏi, “là vào phòng, soát kĩ đồ đạc của cậu ấy, và ngồi trên sàn nhà ư?”

“Không,” Scheherazade nói. “Hơn thế. Em muốn cái gì đó của cậu ấy để mang về nhà. Cái gì đó cậu ấy cầm nắm mỗi ngày hay gắn bó với thân thể cậu. Nhưng không thể là bất cứ cái gì quan trọng mà cậu ấy sẽ thấy vắng. Nên em đã lén lấy một trong số các cây bút chì của cậu ấy.”

“Chỉ một cây bút chì sao?”

“Vâng. Một cây cậu ấy đang dùng. Nhưng trộm thôi thì không đủ. Điều đó sẽ khiến việc trở thành một vụ đào ngạch hẳn hòi. Sự kiện rằng em đã làm nó bị mất. Sau rốt, em đã là Kẻ Trộm Tình.”  

“Vậy nên em quyết định lưu lại một cái gì vào chỗ ấy, một kiểu dấu hiệu nào đấy. Như bằng chứng là em đã ở đó. Một tuyên bố rằng đây là một trao đổi, không phải là một vụ trộm đơn giản. Nhưng nên là cái gì đây? Chẳng có gì nảy ra trong đầu em. Em tìm trong ba lô và túi của mình, nhưng chả thấy thứ gì phù hợp. Em tự trách mình đã không có ý tưởng mang theo cái gì đó tương ứng. Cuối cùng, em quyết định để lại một băng vệ sinh. Dĩ nhiên, một cái chưa dùng, còn nguyên trong gói xốp. Kì của em đã dứt, nên em mang theo chỉ để phòng hờ. Em giấu nó rất sâu trong ngăn đáy, nơi hẳn sẽ khó tìm thấy. Điều đó thực sự đã kích động em. Sự kiện rằng một băng vệ sinh của em được cất kĩ trong ngăn bàn cậu ấy. Có thể chính bởi em đã quá kích động nên kì của em gần như bắt đầu ngay sau đó.”  

Một băng vệ sinh đổi một bút chì, Habara nghĩ. Có lẽ đó là thứ anh sẽ viết trong nhật kí hôm ấy: “Kẻ Trộm Tình, Bút chì, Băng vệ sinh.” Anh thật muốn thấy cái gì chúng sẽ gây ra về điều đó!

“Em ở đó trong nhà cậu ấy chỉ mười lăm phút hay gần gần vậy. Em không thể lưu lại lâu hơn thế: đó là trải nghiệm đầu tiên của em về việc thâm nhập một căn nhà, và em sợ rằng ai đó sẽ quay lại trong lúc em ở đó. Em kiểm tra đường phố để chắc chắn là không có gì trở ngại, lách qua cửa, bóp khóa, và để chìa khóa lại dưới tấm thảm. Rồi em đến trường. Mang theo chiếc bút chì quý giá của cậu ấy.” 

Scheherazade chìm vào im lặng. Xem ra, cô đã quay ngược thời gian và đang hình dung nhiều chuyện khác nhau đã xảy ra kế đó, từng thứ một.

“Tuần đó là những ngày hạnh phúc nhất đời em,” cô nói sau một khoảng lặng dài. “Em viết vội nhiều thứ ngẫu hứng vào vở với bút chì của cậu ấy. Em hít hà, hôn, áp vào má, xoay nó giữa các ngón tay mình. Đôi lúc em còn đút vào miệng và mút nó. Dĩ nhiên, em đau khổ vì càng viết nó càng ngắn đi, nhưng em không thể cứu giúp mình. Nếu nó trở nên quá ngắn, em nghĩ, mình luôn có thể quay lại và lấy một cây khác.  Có một bó toàn bút chì đã qua sử dụng trông hộp đựng bút trên bàn cậu ấy. Cậu ấy hẳn sẽ chẳng hay nếu một cái bị thiếu. Và chắc cậu vẫn chưa tìm thấy băng vệ sinh bị cất kĩ trong ngăn bàn mình. ý tưởng đó kích thích em không cùng–cho em một cảm giác chao đảo lạ lùng tận bên dưới. Nó không quấy nhiễu em rằng trong thế giới thực cậu ấy chẳng đời nào để mắt đến hay thậm chí tỏ ra rằng cậu ấy nhận thấy sự tồn tại của em nữa. Bởi vì em đã bí mật sở hữu cái gì đó của cậu ấy–một phần của cậu, như đã vậy.”    

Mười ngày sau, Scheherazade lại bỏ trường và có một chuyến thăm thứ hai đến nhà cậu trai. Khoảng mười một giờ sáng. Như lần trước, cô lần tìm chìa khóa dưới tấm thảm và mở cửa. Như cũ, phòng cậu ở trong trật tự không tì vết. Đầu tiên, cô chọn một cây bút chì còn sử dụng được nhiều và cẩn thận đặt nó vào hộp bút của mình. Rồi cô rón rén nằm xuống giường cậu, hai tay đan lại để trên ngực, và nhìn lên trần nhà. Đây là chiếc giường nơi cậu ấy ngủ mỗi đêm. ý nghĩ này làm trái tim cô đập nhanh hơn, và cô thấy khó khăn để thở được bình thường. Phổi cô không đủ dưỡng khí và cổ họng khô như một khúc xương, khiến mỗi hơi thở đau rát.

Scheherazade rời khỏi giường, vuốt thẳng ga giường, và ngồi xuống sàn, như cô đã làm ở chuyến đầu tiên. Cô nhìn lại lên trần nhà. Mình chưa hoàn toàn sẵn sàng với giường của cậu, cô tự nhủ. Hãy còn quá nhiều thứ để xử lí.

Lần này, Scheherazade trải qua nửa giờ trong ngôi nhà. Cô rút các cuốn tập của cậu ấy từ ngăn kéo và lướt mắt qua chúng. Cô tìm thấy một bài tường thuật sách và đọc nó. Nói về “Kokoro,” một tiểu thuyết của Soseki Natsume, nhiệm vụ đọc của mùa hè đó. Chữ cậu viết đẹp, như người ta có thể mong đợi từ một học sinh hạng A ngay thẳng, không một lỗi hay một thiếu sót ở bất cứ đâu. Đánh giá về nó là Xuất sắc. Còn có thể là gì khác chứ? Bất cứ giáo viên nào đứng trước cách viết hoàn hảo đó hẳn sẽ tự động cho nó một điểm Xuất sắc, dù cho ông có bị phiền phải đọc một tuyến đơn điệu hay không.    

Scheherazade chuyển sang tủ đựng quần áo nhiều ngăn [tủ com-mốt], dò xét các đồ đạc có trật tự trong đó. Quần lót và vớ của cậu. Áo sơ mi và quần tây. Đồng phục đội bóng. Tất cả đều được gấp gọn ghẽ. Không có gì bị ố màu hay mòn xước. Có phải cậu ấy gấp không nhỉ? Hay, đúng hơn, mẹ cậu ấy gấp cho không nhỉ? Cô cảm thấy một cơn đau nhói vì ghen tị với người mẹ, người có thể làm những điều này cho cậu suốt mọi ngày.  

Scheherazade cúi người và hít hà các trang phục trong các ngăn kéo. Tất cả đều mang mùi giặt tươi mát và thơm nắng. Cô lấy ra một chiếc áo phông thuần màu xám, trải ra, và áp nó vào mặt mình. Chẳng lẽ không còn một thoáng hơi mồ hôi nào của cậu dưới nách áo ư? Nhưng không có gì cả. Tuy nhiên, cô vẫn để nó đấy một lúc, hít lấy mùi qua mũi. Cô muốn giữ chiếc áo cho riêng mình. Nhưng thế là quá mạo hiểm. Quần áo của cậu được sắp xếp và bảo quản hết sức chỉn chu. Cậu (hay mẹ cậu) chắc hẳn biết chính xác số áo phông trong ngăn kéo. Nếu một cái biến mất, hẳn sẽ loạn hết cả lên. Scheherazade cẩn thận gấp lại chiếc áo phông và trả nó vào đúng chỗ. Thay cho nó, cô lấy một huy hiệu nhỏ, có hình như một quả bóng, mà cô tìm thấy trong các ngăn kéo bàn học. Dường như nó đánh dấu ngày tháng với một đội bóng từ những năm trung học. Cô e rằng cậu sẽ nhớ nó. Ít nhất, hẳn mất một thời gian trước khi cậu chú ý rằng nó đã mất. Trong lúc ở đó, cô đã kiểm tra băng vệ sinh ở ngăn kéo dưới cùng của bàn học. Nó vẫn còn đó.    

Scheherazade cố mường tượng điều gì sẽ xảy ra nếu mẹ cậu phát hiện ra thứ ấy. Bà sẽ nghĩ gì nhỉ? Liệu bà có yêu cầu cậu giải thích một băng vệ sinh trời ơi đất hỡi làm thứ gì trong bàn của con mình? Hay bà sẽ âm thầm giữ kín phát hiện của mình, trở đi trở lại những nghi ngờ đen tối trong tâm trí mình? Scheherazade chẳng nghĩ được ý nào. Nhưng cô quyết định để băng vệ sinh lại chỗ cũ. Sau hết, nó là dấu hiệu đầu tiên của cô.     

Để kỉ niệm chuyến thăm thứ hai, Scheherazade lưu lại ba sợi tóc của mình. Đêm trước, cô đã nhổ chúng, gói trong giấy kính, và niêm chúng trong một phong bì nhỏ xíu. Bấy giờ cô lấy phong bì này ra từ ba lô và luồn nó vào một trong các cuốn vở toán cũ trong ngăn kéo của cậu. Ba sợi tóc nuột và đen, không quá dài cũng không quá ngắn. Không ai có thể biết chúng là của ai trừ khi có một xét nghiệm DNA, dù rõ ràng chúng là của một cô gái.    

Cô rời nhà của cậu và thẳng một mạch tới trường, đến lớp đúng giờ học đầu tiên buổi chiều. Lần nữa, cô đã thỏa mãn trong khoảng mười ngày. Cô cảm thấy rằng cậu trở nên thuộc về cô nhiều hơn. Nhưng, như có thể đoán được, chuỗi sự kiện này sẽ không kết thúc mà không có sự cố. Bởi, như Scheherazade đã nói, lẻn vào nơi ở của người khác gây nghiện cao. 

Ngang điểm này của câu chuyện Scheherazade liếc nhìn đồng hồ bên cạnh và thấy rằng đã 4:32 chiều. “Đến lúc phải đi rồi,” cô nói, như thể với chính mình. Cô trèo ra khỏi giường và mặc lên chiếc quần lót trắng trơn, luồn chân vào quần jean, và tròng chiếc áo nỉ hiệu Nike xanh thẫm qua đầu. Rồi cô cọ rửa tay trong phòng tắm, chải qua một lượt mái tóc, và lái đi trong chiếc Mazda xanh biển của mình.

Còn một mình mà không có gì đặc biệt để làm, Habara nằm trong giường và nghiền ngẫm câu chuyện cô vừa kể cho anh, nhấm nháp từng chút một, hệt như một chú bò nhai lại. Đâu là đầu mối? anh tự hỏi. Với tất cả câu chuyện cô kể, anh chẳng thể dò ra tí gì. Anh thấy thật khó hình dung Scheherazade khi còn là học sinh trung học. Lúc đó cô có mảnh mai, không bị tình trạng nhão cơ cô đang mang bây giờ chăng? Đồng phục trường, vớ trắng, tóc thắt bím ư?

“Because you’re not naked, and you’re not a cowboy, that’s why!”
“Bởi anh không trần truồng, cũng không phải là một chàng chăn bò, nên bị thế đấy!”

Cũng không thấy đói mấy, nên anh bỏ qua việc chuẩn bị bữa tối và trở lại với cuốn sách đang đọc, chỉ để thấy rằng mình không thể tập trung được. Hình ảnh Scheherazade lẻn vào phòng người bạn cùng lớp và vùi mặt cô vào áo cậu ấy còn quá mới mẻ trong tâm trí anh. Anh thấy thiếu kiên nhẫn để chờ nghe những gì xảy ra tiếp theo.

Chuyến thăm kế tiếp của Scheherazade đến nhà anh là ba hôm sau, khi cuối tuần đã qua. Như thường lệ, cô mang theo các túi giấy chất đầy đồ dự trữ. Cô xem qua thức ăn trong tủ lạnh, thay mọi thứ đã hết hạn dùng, kiểm tra các thực phẩm đóng hộp và đóng chai trong chạn bếp, rà soát lượng sử dụng của các thứ gia vị để xem có gì còn ít, và liệt kê một danh sách mua sắm. Cô đặt một số chai Perrier vào ngăn mát tủ lạnh. Cuối cùng, cô chồng các cuốn sách và đĩa DVD mới cô mang theo mình lên bàn.  

“Anh có cần hay muốn thứ gì nữa không?”

“Không nghĩ ra thứ gì cả,” Habara đáp.

Rồi, như mọi lần, hai người đến giường và giao hợp. Sau một khúc dạo đầu phù hợp, anh mang bao cao su, đi vào cô, và, sau một khoảng thời gian phù hợp, xuất tinh. Sau khi đưa một cái nhìn chuyên nghiệp lên lượng dịch trong bao cao su của anh, Scheherazade bắt đầu phần mới nhất về câu chuyện của mình.

Như lần trước, cô cảm thấy sung sướng và thỏa mãn suốt mười ngày sau lần đột nhập thứ nhì. Cô cất kĩ huy hiệu đội bóng trong hộp bút chì của mình và hết lần này đến lần khác mân mê nó trong lớp. Cô gặm nhấm chiếc bút cô đã lấy và liếm láp đầu bút. Suốt ngày cô nghĩ đến phòng cậu. Cô nghĩ tới bàn cậu học, giường cậu ngủ, tủ cậu đựng quần áo, chiếc quần cộc trắng tươi của cậu, và băng vệ sinh cùng ba sợi tóc giấu trong ngăn bàn cậu của mình. 

Cô mất hết mọi hứng thú với việc học. Ở lớp, cô hoặc vẩn vơ nghịch chiếc huy hiệu và cây bút chì hoặc rơi vào mơ màng. Khi về nhà, cô chẳng có chút tâm trạng nào để xử lí bài tập về nhà của mình.

Điểm số của Scheherazade chẳng bao giờ là một vấn đề. Cô không phải là một học sinh ở tốp đầu, nhưng là một nữ sinh luôn luôn làm các nhiệm vụ của mình. Nên khi cô được giáo viên gọi tên trong lớp và không thể đưa ra một câu trả lời đúng, ông ấy bối rối hơn là tức giận. Rốt cuộc, ông triệu tập cô lên phòng giáo viên trong giờ nghỉ trưa. “Có chuyện gì thế?” ông hỏi cô. “Có bất cứ thứ gì rắc rối với em không?” Cô chỉ có thể lí nhí cái gì đó đại loại là cảm thấy không tốt lắm. Bí mật của cô quá nặng nề và đen tối để tiết lộ cho bất cứ ai–cô phải gánh lấy một mình thôi.

“Em phải tiếp tục đột nhập nhà cậu ấy,” Scrheherazade nói. “Em buộc phải thế. Như anh có thể tưởng tượng đấy, đó là một việc quá liều lĩnh. Thậm chí em cũng thấy thế. Sớm hay muộn, ai đó sẽ tìm thấy em ở đó, và sẽ báo cảnh sát. ý nghĩ đó làm em sợ muốn chết. Nhưng, một khi quả bóng đã lăn, em chẳng có cách gì dừng nó được. Mười ngày sau ‘chuyến thăm’ thứ nhì, em tới đó lần nữa. Em không có lựa chọn nào khác. Em đã cảm thấy rằng nếu không làm thế em hẳn sẽ đi tới kết thúc bi thảm. Nhìn lại, em nghĩ mình thật đã là một gái nhỏ rồ dại.”

“Nó có gây ra các vấn đề ở trường với em không, việc bỏ lớp quá thường như vậy?” Habara hỏi.

“Bố mẹ em có công việc riêng, nên họ quá bận rộn để hướng sự chú ý nhiều đến em. Em chưa bao giờ gây ra bất cứ vấn đề gì cho đến lúc đó, chưa bao giờ thách thức quyền lực của họ. Nên họ tính toán một tiếp cận rảnh-tay là tốt nhất. Giả mạo các ghi chú ở trường là dễ như ăn bánh. Em giải thích cho giáo viên chủ nhiệm rằng mình có một vấn đề y tế yêu cầu em thỉnh thoảng trải qua nửa ngày tại bệnh viện. Bởi vì các giáo viên đang bận vắt óc họ để lo cho các đứa trẻ không đến trường trong lứa tuổi đó, họ không quá quan tâm về việc em đôi lúc biến mất nửa ngày.” 

Scheherazade lia nhanh mắt vào đồng hồ cạnh giường trước khi tiếp tục. 

“Em lấy chìa khóa dưới tấm thảm và vào ngôi nhà lần thứ ba. Vẫn im lìm như trước–không, vì lí do nào đó, thậm chí còn im lìm hơn. Nó khiến em hồi hộp khi tủ lạnh tự bật nguồn–nghe hệt như một tiếng thở dài của một con quái vật khổng lồ. Điện thoại reo khi em ở đó. Tiếng reo lớn và lảnh lói đến mức em nghĩ tim mình muốn ngừng đập. Người em mướt mồ hôi. Không ai bắt máy, dĩ nhiên, và điện thoại ngừng đổ sau khoảng mười lượt reo. Lúc đó, căn nhà càng rơi vào im lìm hơn.

Scheherazade dành một lúc lâu nằm duỗi thẳng người trên giường cậu hôm ấy. Lần này tim cô không đập dữ dội nữa, và cô đã có thể thở bình thường. Cô có thể tưởng tượng thấy cậu đang ngủ bình an bên cạnh, thậm chí cảm thấy như thể cô đang canh giấc cho cậu. Cô cảm thấy rằng, nếu cô vươn tay ra, cô có thể chạm tới cánh tay rắn chắc của cậu. Dĩ nhiên, cậu chẳng có đó bên cô. Chỉ là cô lạc vào một đám mù sương những giấc mộng huyễn.

Cô cảm thấy một thôi thúc áp đảo được ngửi mùi cậu. Dậy khỏi giường, cô dạo qua tủ đựng quần áo của cậu, mở từng ngăn, và kiểm soát các áo phông trong đó. Tất cả được giặt và gấp gọn gàng. Chúng trắng tươi, và không vương chút nào mùi cậu, hệt như trước.   

Rồi một ý tưởng đập vào cô. Cô chạy ra cầu thang xuống tầng trệt. Ở đó, bên bồn tắm trong phòng, cô tìm thấy giỏ đồ chưa giặt và mở nắp. Lẫn vào nhau là quần áo bẩn của ba thành viên trong gia đình–mẹ, con gái và con trai. Một ngày xứng đáng, xét về mặt này. Scheherazade tách lấy một cái đồ nam. Một chiếc áo phông cổ thuyền trắng.  Cô hít một hơi. Thứ mùi không nhầm đâu được của một người nam trẻ trung. Một mùi ngây ngái cô từng ngửi thấy trước đây, khi các bạn trai cùng lớp đứng sát cô. Không phải là một mùi tinh nhã, hẳn rồi. Nhưng sự kiện rằng đây là mùi của cậu ấy mang đến cho Scheherazade nguồn vui vô biên. Khi đặt mũi mình dưới nách áo và hít vào, cô cảm thấy như thể mình đang ở trong vòng tay cậu, đôi tay ấy vững chãi bảo bọc cô.

Áo phông trong tay, Scheherazade trèo lên cầu thang tầng hai và nằm xuống giường cậu lần nữa. Cô vùi mặt mình trong chiếc áo và hít lấy hít để. Giờ cô có thể cảm thấy một cảm giác hoang hoải ở phần dưới cơ thể mình. Đôi núm vú cô cũng trở nên săn cứng. Liệu có phải sắp đến kì của cô? Không, quá sớm. Đây là khao khát tính dục chăng? Nếu vậy, rồi cô có thể làm gì với nó chứ? Cô không có ý tưởng nào. Duy có một điều chắc chắn là,  chẳng làm được gì trong hoàn cảnh này. Không phải ở đây, trong phòng cậu, trên giường cậu.

Kết cuộc, Scheherazade quyết định đem chiếc áo về nhà cùng cô. Mạo hiểm, chắc rồi. Mẹ cậu hiển nhiên sẽ tính ra rằng một chiếc áo đã bị thiếu. Ngay cả nếu không nhận ra là nó bị trộm, hẳn bà vẫn sẽ tự hỏi rằng nó đã biến đâu mất. Bất kì phụ nữ nào giữ nhà mình tuyệt không vết bẩn hẳn gần với một kẻ lập dị gọn gàng bậc nhất. Khi một thứ gì vắng thiếu, bà ấy hẳn sẽ lùng sục ngôi nhà từ trên xuống dưới, hệt như một chú chó cảnh sát, cho đến lúc tìm thấy nó. Không nghi ngờ gì nữa, bà sẽ phát hiện ra các dấu vết của Scheherazade trong phòng cậu quý tử. Nhưng, cả khi Scheherazade đã hiểu điều này, cô vẫn không muốn phân li với chiếc áo. Trí não bất lực khi thuyết phục trái tim cô. 

Thay vào đó, cô bắt đầu nghĩ đến việc sẽ lưu lại cái gì. Quần lót của cô dường như là lựa chọn tốt nhất. Nó thuộc loại bình thường, đơn giản, tương đối mới, và sạch vào sáng hôm ấy. Cô có thể giấu nó sâu trong tủ đồ của cậu. Còn gì có thể thích hợp hơn để lưu lại trong cuộc trao đổi chứ? Nhưng, khi cô cởi nó ra, đáy quần bị ẩm. Mình đoán điều này xuất phát từ khao khát, quá độ, cô nghĩ. Thật khó lưu lại cái gì đã bị nhiễm ô bởi dục vọng của cô trong phòng cậu. Cô sẽ chỉ hạ thấp mình mà thôi. Cô kéo nó lên trở lại và bắt đầu nghĩ xem có cái gì khác để lưu lại không.

Scheherazade ngắt ngang câu chuyện. Một lúc lâu, cô không nói một lời. Cô nằm đó lặng lẽ thở với đôi mắt khép. Bên cạnh cô, Habara cũng làm theo, chờ cô tiếp tục.

Rốt cục, cô mở mắt và nói. “Này, Ngài Habara,” cô nói. Lần đầu tiên cô gọi thẳng bằng tên anh. 

Habara nhìn sang cô.

“Anh nghĩ chúng ta có thể làm thêm lần nữa không?”

“Anh nghĩ anh có thể xử lí được,” anh nói.

Vậy nên họ lại làm tình. Dù vậy, lần này, rất khác với lần trước. Bạo liệt, mê đắm, và rút kiệt. Đỉnh điểm của cô lúc kết thúc là không thể nhầm được. Một loạt các cơn co thắt mạnh mẽ để lại cô trong cơn run rẩy. Thậm chí mặt cô cũng bị biến dạng. Với Habara, điều đó hệt như việc bắt gặp một thoáng hiện gói gọn về Scheherazade thời trẻ: người đàn bà trong vòng tay anh bây giờ là một cô gái mười bảy tuổi rối bời thế nào đó đã trở nên bị mắc kẹt trong thân thể một bà nội trợ ba mươi lăm tuổi. Habara có thể cảm nhận cô ở đó, đôi mắt khép, thân thể lẩy bẩy, ngây thơ hít lấy thứ mùi trong chiếc áo vương mồ hôi của một cậu trai.  

Lần này, Scheherazade không kể chuyện cho anh sau khi quan hệ. Cũng chẳng kiểm tra lượng dịch trong bao cao su. Họ lặng lẽ nằm đó bên nhau. Mắt cô mở rộng, và chăm chăm nhìn lên trần nhà. Hệt như một con cá mút đá nhìn chong chong lên mặt nước tươi sáng. Sẽ thật tuyệt vời biết mấy, Habara nghĩ, nếu anh cũng, có thể sống trong một thời gian hay không gian khác–bỏ lại một con người được xác định rõ, đơn độc mang tên Nobukata Habara và trở thành một con cá mút đá vô danh. Anh hình dung mình và Scheherazade sát bên nhau, giác mút của họ bám chặt vào một phiến đá, thân thể họ uốn lượn theo dòng chảy, nhìn lên mặt nước khi họ chờ một con cá hồi béo múp đầy vẻ tự mãn bơi qua.

“Vậy em đã lưu lại món gì để trao đổi với chiếc áo phông thế?” Habara phá vỡ sự im lặng.  

Cô không đáp ngay tức thì.

“Không gì hết,” cuối cùng cô nói. “Không gì em mang theo có thể suýt soát với chiếc áo đó với mùi của cậu ấy. Nên em chỉ lấy nó và lẻn ra. Đó chính là lúc em trở thành một kẻ trộm, thuần túy và đơn giản.” 

Mười hai ngày sau, khi Scheherazade quay lại nhà cậu trai lần thứ tư, đã có một ổ khóa mới ở cửa trước. Màu vàng của nó lấp lánh trong ánh mặt trời giữa trưa, như thể tự kiêu với sự kiên cố tuyệt vời của mình. Và không có chìa khóa giấu dưới tấm thảm. Rõ ràng, sự nghi ngờ của mẹ cậu đã được khuấy động bởi chiếc áo bị mất. Bà hẳn đã lùng sục mọi xó xỉnh, bắt gặp nhiều dấu hiệu khác kể ra một cái gì lạ lùng đang diễn ra trong nhà mình. Bản năng bà đã không sai lầm, phản ứng bà lẹ làng.

Scheherazade, dĩ nhiên, thất vọng bởi sự tiến triển này, nhưng đồng thời cô cũng cảm thấy nhẹ nhõm. Như thể ai đó đã bước đến sau lưng và gỡ một gánh nặng lớn lao khỏi vai cô. Điều này nghĩa là mình không phải tiếp tục đột nhập nhà cậu ấy nữa, cô nghĩ. Không nghi ngờ gì, nếu ổ khóa không được thay, các cuộc xâm lăng của cô hẳn sẽ diễn tiến vô định. Cũng chẳng hề hoài nghi rằng các hành động của cô hẳn sẽ leo thang với mỗi lần viếng thăm. Rồi đáo cùng, một thành viên trong gia đình sẽ hiện ra lúc cô đang ở tầng hai. Sẽ chẳng có lối thoát nào cả. Không có cách gì biện minh được cho tình huống gay go của cô. Đây là tương lai đang dành sẵn cho cô, sớm muộn thôi, và kết quả hẳn là tàn tệ. Giờ thì cô đã tránh được nó. Có lẽ cô nên cảm ơn mẹ cậu–dù chưa bao giờ cô gặp người đàn bà ấy–vì bà có đôi mắt hệt như một con diều hâu. 

Scheherazade hít mùi trong chiếc áo phông của cậu ấy mỗi đêm trước khi cô vào giường. Cô ngủ với nó bên cạnh mình. Cô sẽ gói bằng giấy và giấu nó trước khi cô đến trường buổi sáng. Rồi, sau giờ cơm tối, cô sẽ mở nó ra để ve vuốt và hít hà. Cô lo rằng mùi hương có thể phai dần khi nhiều ngày trôi qua, nhưng điều đó đã không xảy ra. Mùi mồ hôi của cậu đã thẩm thấu tốt vào chiếc áo.     

Bây giờ các cuộc đột nhập đó là không cần thắc mắc nữa, tâm trạng của Scheherazade dần dần bắt đầu trở lại bình thường. Cô ít mơ màng trong lớp hơn, và lời giảng của giáo viên bắt đầu được ghi lại. Tuy nhiên, tiêu điểm chính của cô không nhắm vào tiếng của giáo viên mà là hành vi của người bạn cùng lớp. Cô kín đáo giữ mắt mình dõi vào cậu, cố dò ra một biến đổi, bất cứ biểu lộ nhỏ nhoi nào về một chuyện gì đấy có thể làm cậu bồn chồn. Nhưng cậu luôn luôn hành động chính xác y hệt nhau. Cậu ngoảnh đầu lại và cười to như chẳng hề bị kích động bao giờ, và trả lời kịp thời khi bị gọi lên. Cậu hét to lúc tập bóng và cũng đổ mồ hôi. Cô không thể thấy bất cứ gì không bình thường–chỉ là một thanh niên nghiêm túc, đang trải qua một hiện diện dường như không bợn mây mờ.  

Tuy vậy, Scheherazade biết có một bóng đổ lơ lửng bên trên cậu. Hay cái gì đó gần như thế. Rất có khả năng, chẳng một ai khác biết. Chỉ có cô (và, nghĩ kĩ ra thì, có thể cả mẹ cậu nữa). Vào lần đột nhập thứ ba, cô đã bắt gặp một số tạp chí khiêu dâm được giấu khéo léo ở các hốc xa nhất trong tủ quần áo của cậu. Chúng đầy rẫy các bức hình phụ nữ trần truồng, giang rộng chân và cung cấp những góc nhìn hào phóng về các bộ phận sinh dục của họ. Một số bức miêu tả hành động tính dục: những người đàn ông đặt các dương vật như những cây gậy vào cơ thể đàn bà trong nhiều tư thế phi tự nhiên nhất. Scheherazade chưa bao giờ lướt mắt qua những bức ảnh như thế trước đây. Cô ngồi nơi bàn học cậu và chậm rãi giở hết các quyển tạp chí, nghiên cứu từng bức ảnh với hứng thú cao độ. Cô đoán rằng cậu đã thủ dâm trong lúc xem chúng. Nhưng ý tưởng này đập vào cô không đặc biệt đáng ghét. Cô chấp nhận thủ dâm như là một hoạt động hoàn toàn bình thường. Tất cả tinh dịch đó phải đi một nơi nào đó, cũng như các cô gái phải có các kì kinh. Nói cách khác, cậu là một người vị thành niên điển hình. Không phải anh hùng cũng chẳng phải thánh. Cô thấy biết thêm gì đó về một sự giải khuây.      

“Khi các cuộc đột nhập dừng lại, sự say mê của em dành cho cậu ấy bắt đầu nguội lạnh. Dần dà, hệt như thủy triều rút đi từ một bãi cát thoải, dài. Bằng cách này hay khác, em thấy mình ngửi chiếc áo của cậu ít thường xuyên hơn và ít dành thời gian hơn cho việc ve vuốt chiếc bút chì và huy hiệu. Cơn sốt đang qua. Những gì em đã nhiễm mắc không phải một cái gì giống như bệnh tật mà là một điều có thật. Hễ nó còn kéo dài, em không thể nghĩ cho thẳng thớm được. Có lẽ mọi người đều đi qua một giai đoạn điên rồ như thế lúc này hay lúc khác. Hoặc có lẽ nó là cái gì đó đã xảy ra chỉ với riêng em. Anh thì sao? Anh từng có một trải nghiệm như thế bao giờ chưa?”  
Habara cố nhớ, nhưng chỉ trống trơn. “Không, chẳng có gì đến mức cực hạn, anh không nghĩ ra,” anh nói.  

Scheherazade xem chừng có phần thất vọng bởi câu trả lời của anh.

“Sao đi nữa, em đã quên mọi thứ về cậu ấy khi em tốt nghiệp. Quá nhanh chóng và dễ dàng, thật kì quái. Điều gì ở cậu ấy đã làm tuổi mười bảy của em rơi vào khó khăn đến vậy? Cố thử mọi hướng có thể, em vẫn không thể nhớ nổi. Đời thật lạ, nhỉ? Anh có thể hoàn toàn bị mê hoặc vì cái gì đó một phút, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để khiến nó là của anh, nhưng rồi một thời gian ngắn trôi qua, hay phối cảnh của anh biến chuyển một chút, và thình lình mọi thứ sáng rực rỡ làm anh choáng váng thế đó bỗng mờ phai. Em đã tìm kiếm gì? chắc anh đang tự hỏi thế. Vậy đó là câu chuyện về giai đoạn ‘bẻ khóa và đột nhập’ của em.   

Cô làm nó nghe như Thời kì Xanh của Picasso**, Habara nghĩ. Nhưng anh hiểu những gì cô đang cố truyền đạt.

Cô liếc nhìn đồng hồ cạnh giường. Gần như đã đến giờ cô phải rời đi.

“Thật lòng mà kể,” cuối cùng cô nói, “câu chuyện không kết thúc ở đó. Một vài năm sau, khi em học năm hai trường y tá, một đòn đánh số phận lạ lùng đã mang chúng tôi lại với nhau lần nữa. Mẹ cậu ấy đóng một vai lớn trong đó; thực ra, có cái gì đó quỷ mị xung quanh mọi chuyện–hệt như một trong các câu chuyện ma xưa kia. Đúng hơn là các sự kiện diễn tiến theo một chiều hướng không thể tin được. Anh có thích nghe về điều đó không?”    

“Anh phải lòng rồi,” Habara nói.

“Tốt hơn là chờ đến chuyến thăm kế tới của em,” Scheherazade nói. “Đang trễ rồi. Em phải về nhà và sửa soạn bữa tối.”

Cô rời giường và mặc quần áo–quần lót, vớ, yếm hai dây, và, cuối cùng, váy rồi áo bờ-lu. Habara tình cờ nhìn động tác của cô từ giường. Điều đó đập vào anh rằng cách phụ nữ mặc quần áo thậm chí có thể còn thu hút hơn cách họ cởi bỏ chúng. 

“Có bất kì cuốn sách nào anh đặc biệt thích em lựa mang tới không?” cô hỏi, trên đường ra cửa. 

“Không, anh chẳng thể nghĩ ra thứ gì hết,” anh đáp. Điều anh thực sự muốn, anh nghĩ, là chờ cô kể cho anh nghe phần còn lại của câu chuyện, nhưng anh không thể diễn tả điều đó thành lời. Làm vậy có thể gây nguy hiểm cho các cơ hội trong việc có bao giờ được nghe nó.”

Habara vào giường sớm tối đó và nghĩ đến Scheherazade. Có lẽ anh sẽ chẳng bao giờ còn gặp lại cô. Điều đó khiến anh lo lắng. Khả năng đó đúng là rất thật. Không một thứ gì có tính chất thiết thân– không thệ nguyện, chẳng hiểu ngầm–níu giữ họ với nhau cả. Những gì họ có là một liên hệ ngẫu nhiên do ai đó khác tạo ra, và có thể chấm dứt dựa trên ý muốn bất chợt của người đó. Nói khác đi, họ được gắn kết bằng một sợi chỉ mỏng mảnh. Có vẻ như–không, chắc chắn–là sợi chỉ ấy đáo cùng sẽ bị đứt và hết thảy những truyện cô đã kể hẳn sẽ khuất dạng với anh. Thắc mắc duy nhất là khi nào mà thôi.  

Có thể rằng, đến một lúc nào đó, anh sẽ bị tước đoạt toàn bộ tự do của mình, trong trường hợp đó không chỉ Scheherazade mà hết thảy phụ nữ hẳn sẽ biến mất khỏi đời anh. Hẳn là anh sẽ chẳng bao giờ lại có thể nhập vào chốn ướt êm ấm áp trong thân thể họ nữa. Hẳn là anh sẽ không khi nào lại cảm thấy họ rẩy run hưởng ứng nữa. Tuy nhiên, có lẽ một viễn cảnh thậm chí còn quặn thốn hơn cả sự dứt nghỉ hoạt động tình dục với Habara, là sự mất mát những khoảnh khắc mật thiết sẻ san. Một mặt, điều mà thời gian trải qua cùng những người phụ nữ đưa đến là cơ hội để được ấp ôm bởi thực tại, trong khi đang phủ nhận nó toàn triệt ở một mặt khác. Đó là một cái gì Scheherazade đã chu cấp một cách phong phú–thực tế, tặng phẩm của cô là vô tận. Viễn cảnh mất mát đó làm anh thấy buồn tiếc hơn hết. 

Habara nhắm mắt và thôi nghĩ về Scheherazade. Thay vì vậy, anh nghĩ về đám cá mút đá. Về bọn cá mút đá không hàm bám chặt vào các tảng đá, giấu mình trong những đám cỏ thủy sinh, đang đong đưa tới lui trong dòng chảy. Anh mường tượng mình là một trong số chúng, đang chờ một con cá hồi béo múp xuất hiện. Nhưng không hề có cá hồi ngang qua, bất kể anh chờ bao lâu. Không phải một con béo, không phải một con gầy, chẳng một mống cá hồi nào cả. Đáo cùng mặt trời chìm, và thế giới của anh bị bao trùm trong bóng tối.

Như Lôi
dịch từ bản tiếng Anh của Ted Goossen

***

Chú thích:

(*) Cá mút đá (lampreys hay lamprey eels) là một bộ cá gồm các họ cá không hàm, sống kí sinh, có thân hình ống dài 15-100cm, còn gọi là “lươn chín mắt” (gồm một mắt to, một lỗ mũi chính giữa, một dãy 7 lỗ mang xếp liên tiếp mỗi bên lườn thân) phân bố chủ yếu ở các vùng ôn đới, được cho là loài gây hại vì sự xâm lấn của chúng, đặc biệt ở vùng Ngũ Đại Hồ ở Bắc Mĩ.  

(**) Thời kì Xanh (Picasso’s Blue Period): giai đoạn sáng tác từ năm 1901-1904 của Picasso, với các bức tranh đượm sầu gần như đơn sắc với nhiều cấp độ của màu xanh với chủ đề về gái mại dâm, những người say rượu và ăn xin, vẽ từ sau ám ảnh với cái chết của Carlos Casagemas (1881-1901). 

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Sáng tác

Truyện ngắn | Đành Tâm Chối Bỏ – Dazai Osamu

Published

on

Lời người dịch:

Dazai Osamu (1909-1948) là một đại văn hào Nhật Bản, thành viên chủ chốt của nhóm văn học “Vô lại phái” (Buraiha 無頼派), một nhóm nhà văn có khuynh hướng nổi loạn và tự hủy sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ông rất thành công với thể loại “tiểu thuyết tự thuật” (shi shosetsu 私小説 – tư tiểu thuyết). Những tác phẩm quan trọng của ông như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Nữ sinh” hay những truyện ngắn đặc sắc khác đều có liên hệ đến cuộc đời bi thảm của ông. Dazai trầm mình tự sát cùng với người tình Tomie vào năm 1948 ở tuổi ba mươi chín, sau bốn lần nỗ lực trước đó không thành.

Nhân dịp kỷ niệm 77 năm ngày mất của văn hào Dazai, chúng tôi xin được gửi đến quý độc giả hai truyện ngắn mang tính tự thuật nhất của Dazai, lần đầu tiên được dịch ra Việt ngữ là “Hải âu” và “Đành tâm chối bỏ”.

Truyện ngắn “Hải âu” là bản tuyên ngôn tư tưởng của Dazai Osamu về văn học cũng như về niềm tin yêu gửi gắm vào thế hệ trẻ tuổi. Nhiều quan điểm riêng của ông về niềm tin yêu cái đẹp, sự cố gắng sống và viết thành thật, vai trò của sự hối hận, phản tỉnh trong văn chương…đều được miêu tả đậm nét, không dấu giếm. Có thể xem đây là một truyện mang tính tự thuật nhất của văn hào Dazai về nghề văn. Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “Kamome” (鷗) trong tập “Tiếng dế nỉ non” (きりぎりす), nhà xuất bản Shinchosha tái bản lần thứ 73 năm 2018 , từ trang 123 đến 145.

Còn truyện ngắn đặc sắc “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute) viết về chuyến tự sát đôi không thành với H, một người phụ nữ trong đời Dazai, đã phản bội Dazai đi theo một người họa sĩ. Ở ranh giới sinh tử, nhân vật Kashichi (là hình bóng Dazai) đã lấy lại sức mạnh để thẳng thắn chia tay và sống tiếp tục cuộc đời mình. Trong tác phẩm chúng ta cũng nhận thấy rõ nỗi dằn vặt day dứt về thế gian, cuộc sống và tình yêu của Dazai.

Chính Dazai trong một truyện ngắn tự thuật khác “Tám cảnh sắc Tokyo” đã viết về truyện ngắn này như sau:

“Vào mùa hè năm ba mươi tuổi, lần đầu tiên tôi mới nghiêm túc quyết ý đi theo con đường văn chương. Nghĩ lại thì đó là một ý nguyện muộn màng. Tôi đã ráng hết sức viết văn trong căn phòng bốn chiếu rưỡi không có lấy một đồ đạc gì cho ra hồn. Cơm tối của nhà trọ tôi để lại một phần trong hộp cơm, lén nắm lại thành cơm nắm để lót dạ khi làm việc khuya. Lần này tôi không viết di thư di chúc gì cả. Mà là viết để sống. Có một vị tiền bối đã khích lệ tôi. Cho dù thế gian khinh ghét cười nhạo tôi thì chỉ có vị tác gia tiền bối đó trước sau vẫn đối xử với tôi thân thiết. Tôi phải báo đáp lại sự tin tưởng đáng quý ấy. Cuối cùng tôi cũng viết xong tác phẩm “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute). Truyện này tôi viết lại thành thực việc tôi và H dự tính tự sát tại suối nước nóng Minakami…” (*)

(*) Dazai Osamu, “Tám cảnh sắc Tokyo” trích trong tập “Thất lạc cõi người”, Hoàng Long dịch, Nxb Hội Nhà Văn và Phương Nam ấn hành, tái bản lần thứ 12, trang 218.

Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “姥捨て” trên trang mạng kho sách ngoài trời Aozora: https://www.aozora.gr.jp/cards/000035/files/2256_19985.html.

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả như một nén tâm hương tưởng nhớ một đời văn tài hoa “nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”. Mong rằng chúng ta luôn giữ cho mình một tấm lòng thành thực “nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” (一片冰心在玉壺 (một mảnh lòng trong sáng như băng trong bình ngọc, thơ Vương Xương Linh) cùng với văn chương.

Hoàng Long

./.

ĐÀNH TÂM CHỐI BỎ

Dazai Osamu

Khi đó, hai người đã bàn bạc với nhau.

“Được rồi. Chúng ta sẽ hoàn thành chuyện này nào. Ngay từ đầu em đã quyết ý rồi. Thật đấy anh ạ”, Kazue thì thầm bằng giọng khác lạ.

“Không thể được. Chuyện em quyết ý thì anh hiểu. Anh không phải là định chết một mình mà nghĩ đến chuyện là tự buông xuôi một mình bản thân anh thôi. Em còn có cả cha mẹ và em trai nữa. Anh biết là em còn để tâm đến chuyện đó nên không thể chấp nhận được đâu”, vừa phân trần những lý lẽ thiệt hơn như thế, Kashichi vừa quyết ý chết.

“Nếu anh định chết thì chúng ta sẽ cùng chết. Chắc thần linh sẽ tha thứ cho chúng ta thôi”.

Rồi hai người bắt đầu nghiêm túc chuẩn bị.

Một người vợ yêu tha thiết một con người sai trái với một người chồng hủy hoại cuộc sống hàng ngày của mình đến mức đẩy người vợ mình vào hành động như thế cả hai đều gắn kết với nhau trong ý định tìm đến cái chết. Đó là một ngày chớm xuân. Tiền sinh hoạt phí tháng này còn khoảng mười bốn, mười lăm yên. Hai người lén mang đi theo. Ngoài ra, tất cả những bộ quần áo mặc đắp đổi của hai người chỉ là một manh áo dotera của Kashichi, một bộ awase của Kazue, hai cái đai lưng. Tất chỉ còn có thế. Kazue gói tất cả vào chiếc khăn kuroshiki, cắp nách mang rồi hai vợ chồng cùng sánh vai nhau đi ra ngoài, một điều thật hiếm thấy. Người chồng không có áo măng tô. Thay vào đó, anh mặc một chiếc kimono vải vùng Kurume, đội chiếc mũ lưỡi trai, quàng chiếc khăn lụa màu xanh nước biển tồi tàn, chỉ có đôi guốc gỗ geta là còn trắng tinh như mới. Người vợ cũng không có áo khoác. Cả áo choàng haori và kimono đều dệt bằng vải meisen hoa văn mũi tên, chiếc khăn choàng đỏ nhạt hàng ngoại quốc khoác phía nửa nửa thân người trên không cân xứng. Hai người tạm chia tay nhau ngay gần chỗ tiệm cầm đồ.

Vào buổi trưa nơi nhà ga Ogikubo, dòng người ra vào tấp nập. Kashichi lặng lẽ đứng đợi trước nhà ga, châm một điếu thuốc. Kazue đảo mắt tìm kiếm anh và khi nhận ra hình dáng của Kashichi, nàng chạy bổ đến như thể gần như vấp ngã.

“Thành công, thành công lớn rồi”, nàng nói như reo lên. “Người ta cho em mượn đến mười lăm yên đấy, ngu ngốc quá nhỉ”.

Người đàn bà này không thể chết được. Mình không thể để cho nàng chết. Nàng có bị đời vùi dập tàn nhẫn như mình đâu chứ. Nàng vẫn còn sức để mà sống còn cơ mà. Đây đâu phải là một người chết. Chỉ việc lên kế hoạch tự sát chắc chắn đã là lời tạ lỗi dành đến thế gian rồi. Chỉ vậy thôi là đủ. Chắc chắn nàng sẽ được tha thứ thôi. Vậy là đủ rồi. Còn mình sẽ chết một mình.

“Em khéo xoay xở thật đấy”, Kashichi mỉm cười khen ngợi. Anh muốn vỗ nhẹ lên vai nàng.

“Vậy tất cả là mình có chừng ba mươi yên. Mình có thể đi du lịch đây đó một chút đấy anh”.

Hai người mua vé tàu đến Shinjuku. Xuống ga Shinjuku, hai người đi đến hiệu thuốc. Họ mua một hộp thuốc ngủ loại lớn rồi lại đi đến một tiệm khác mua thêm một hộp nữa. Vì Kazue đứng đợi bên ngoài, chỉ có mình Kashichi bước vào mỉm cười hỏi mua nên người bán thuốc không nghi ngờ gì cả. Cuối cùng hai người vào cửa hàng Mitsukoshi, đến quầy dược phẩm. Vì khách hàng qua lại đông đúc nên hai người có chút can đảm mà mua thêm hai hộp thuốc ngủ nữa. Nữ nhân viên thu ngân khuôn mặt nhỏ thó đầy nghiêm túc, liếc đôi mắt đen nhìn anh có vẻ hồ nghi, nếp nhăn hiện rõ nơi ấn đường. Khuôn mặt của cô ta tỏ vẻ khó chịu. Kashichi cũng cảm thấy hoảng loạn. Anh không thể nặn ra được một nụ cười mỉm gượng gạo nào. Hộp thuốc lạnh lùng được giao ra. Phía sau chúng ta người ta đang kiễng chân lên mà nhìn đấy. Kashichi biết vậy nên cố tình nép sát vào Kazue, đi xuyên qua dòng người. Mặc dù hai người điềm tĩnh bước đi nhưng người ngoài nhìn vào sẽ thấy một vẻ gì đó dị dạng. Kashichi cảm thấy buồn bã vô cùng. Sau đó, cũng tại Mitsukoshi, Kazue mua một đôi tất trắng, Kashiochi cũng mua thêm một gói thuốc lá ngoại thượng hạng rồi mới rời đi. Hai người đón taxi đi đến Asakusa. Hai người vào rạp chiếu phim, xem bộ phim “Trăng mọc trên hoang thành” đang công chiếu. Mở đầu phim là hình ảnh hàng rào và mái trường tiểu học ở một vùng quê và tiếng ngân nga của trẻ nhỏ. Điều đó làm Kashichi rơi nước mắt.

“Nghe nói các đôi tình nhân”, Kashichi nói với vợ mình trong bóng tối rạp chiếu. “Họ vừa xem phim vừa nắm tay nhau như thế này đấy”. Nói rồi Kashichi ngại ngùng dùng cánh tay phải của mình giấu dưới cái mũ lưỡi trai tìm đến tay trái của Kazue, thử nắm chặt lấy bàn tay nhỏ bé xem sao nhưng giữa hai vợ chồng đang ở trong tình thế khổ sở nên Kashichi cảm thấy mình chẳng sạch sẽ gì và sợ hãi nữa nên lặng lẽ buông tay ra. Kazue cười khúc khích. Nhưng không phải nàng cười vì trò đùa vụng về của Kashichi mà cười vì một động tác gây hài chán ngắt trên bộ phim đó.

Đây đúng là người phụ nữ tuyệt vời, hiền thục mà chỉ việc xem phim cũng khiến nàng trở nên hạnh phúc. Mình không thể giết một người như thế này được. Thật sai lầm khi để cho nàng phải chết.

“Mình sẽ chết đấy. Em thấy vậy được không?”

“Được mà anh”, Kazue vừa chăm chú xem phim vừa trả lời anh.

“Bởi vì anh muốn chết một mình thôi mà”.

Kashichi chợt cảm thấy cơ thể người phụ nữ thật là kỳ diệu. Khi hai người rời khỏi rạp chiếu phim thì trời đã tối. Kazue nói nàng muốn ăn sushi. Kashichi không thích sushi lắm vì có mùi tanh. Hơn nữa đêm nay anh muốn ăn thứ gì đó cao cấp hơn chút.

“Thôi anh không thích sushi đâu”.

“Nhưng em muốn ăn mà”.

Chính Kashichi đã dạy cho Kazue cái tính ích kỷ như thế, đã minh họa cho nàng cái cách uy hiếp giả vờ bằng khuôn mặt ngoan hiền nhu thuận đó.

Tất cả hành vi rồi sẽ quay trở lại mình thôi.

Tại tiệm sushi, hai người có uống chút rượu. Kashichi gọi món hàu chiên. Anh tự nhủ thầm với mình rằng đây là bữa ăn cuối cùng ở Tokyo rồi mỉm cười gượng gạo. Kazue ăn sushi cá ngừ.

“Có ngon không em?”

“Dở lắm anh”, nàng còn phồng má lên mà nhấn mạnh “dở thật đấy”.

Cả hai người không nói chuyện gì nhiều.

Rời khỏi quán sushi, hai người đến rạp biểu diễn hài kịch manzai. Rạp đông không có chỗ ngồi. Ngay cửa rạp người đứng lố nhố nhưng hai người vẫn cố gắng chen vào đứng xem, thỉnh thoảng lại còn phá ra cười nữa. Khán giả quá đông chen chúc nên Kazue dần bị kéo xa khỏi Kashichi đến gần mười mét. Kazue dáng người thấp bé nên nàng phải cố rướn người nhìn lên sân khấu qua vai người khác trông khổ sở vô cùng. Nhìn nàng như một thiếu nữ nhà quê vậy. Giữa vòng vây khán giả, Kashichi chốc chốc lại rướn người lên dõi theo bóng dáng của Kazue. Anh dõi nhìn nàng còn nhiều hơn nhìn lên sân khấu. Kazue ôm chặt cái túi được bọc bằng khăn furoshiki màu đen trước ngực, trong đó có cất mấy hộp thuốc ngủ nhưng vẫn xoay đầu bên này bên kia để nhìn lên sân khấu xem nghệ sĩ biểu diễn. Thỉnh thoảng nàng quay lại tìm bóng dáng của Kashichi. Thỉnh thoảng hai mắt chạm nhau nhưng hai người đều không cười. Kashichi làm ra vẻ mặt bình thản nhưng trong lòng anh lại rất yên tâm.

Nàng chăm sóc mình biết bao nhiêu. Không được quên điều đó. Tất cả trách nhiệm mình sẽ gánh vác. Nếu thế gian chỉ trích nàng, mình phải ra sức bảo vệ bằng mọi giá. Nàng là một người tốt. Điều đó thì mình biết. Và mình tin.

Chuyện sắp tới thì sao? Không được, không thể được. Mình đâu thể mỉm cười cho qua. Chỉ riêng chuyện này là mình không thể bình tĩnh nổi. Không thể nào chịu nổi nữa.

Hãy tha thứ cho tôi. Đây là chủ nghĩa vị kỷ cuối cùng của tôi đấy. Lý luận tôi có thể chịu đựng được. Thế nhưng cảm giác thì không thể nào chịu đựng nổi. Tôi không thể gắng gượng thêm được nữa rồi.

Làn sóng cười đùa lan rộng trong rạp hài kịch. Kashichi nháy mắt với Kazue rồi hai người cùng bước ra ngoài.

“Mình đi Minakami em nhé?”

Trước đó, vào mùa hè năm ngoái hai người đã cùng đi nghỉ ở một lữ quán suối nước nóng tên là Tanigawa Onsen sâu trong núi, cách ga Minakami khoảng một giờ đi bộ.

Tuy là một mùa hè khổ sở thật đấy nhưng mà cũng vì quá khổ sở mà giờ đây nó lại trở thành một kỷ niệm đẹp đẽ ngọt ngào như tấm bưu thiếp đậm đà màu sắc. Núi sông trong cơn mưa rào trắng xóa thật là buồn đến chết người.

Nghe đến Minakami, tinh thần Kazue chợt phấn chấn hẳn lên.

“Nếu vậy em phải mua hạt dẻ ngào đường mới được, bà chủ cứ nói thèm ăn mãi thôi”.

Kazue cũng hay làm nũng với bà chủ lữ quán và bà chủ cũng có vẻ mến nàng nữa. Lữ quán như một dãy trọ nghiệp dư, chỉ có mỗi ba phòng, không có bồn tắm riêng trong nhà. Hai người phải đi đến cái lữ quán lớn bên cạnh còn không thì phải ngâm mình nơi bãi tắm lộ thiên nhỏ ven bờ sông xa mãi tít phía dưới Tanigawa mà ngày mưa thì phải mang dù còn đêm thì phải mang theo đèn lồng hay nến thắp nữa. Hai vợ chồng già chủ lữ quán hình như không có con cái gì và tuy chỉ có ba phòng cho thuê nhưng đôi khi khách cũng đến đông. Những lúc như thế vợ chồng chủ quán tất bật và Kazue có xuống giúp đỡ việc bếp núc hay gây phiền hà gì cho họ nữa không biết. Món ăn thì có thêm đậu nành lên men natto cá hồi nữa, nhà trọ bình thường làm gì có món này. Kashichi cảm thấy vô cùng thoải mái khi ở đây. Bà chủ lữ quán bị những cơn đau răng hành hạ, Kashichi nhìn thấy vậy không nỡ mới tặng bà vài viên aspirin. Phương pháp này hiệu quả vô cùng, bà chủ uống xong cứ thế mà lăn ra ngủ khiến ông chủ vốn hay cưng chiều bà vợ cứ đi loanh quanh với vẻ mặt lo lắng. Kazue thấy cảnh đó thì phá lên cười. Một lần Kashichi đang gục đầu đi dạo nơi bãi cỏ gần đó bất chợt nhìn qua chỗ hành lang lữ quán thì thấy vị phu nhân già đó đang ngồi lặng lẽ nơi góc tối dưới cầu thang hành lang nhìn anh thẫn thờ. Điều đó đã trở thành bí mật quý giá của Kashichi. Tuy nói là bà chủ quán nhưng bà cũng chỉ tầm bốn mươi bốn, bốn mươi lăm tuổi, có khuôn mặt phúc hậu quý phái, tính tình điềm đạm dịu dàng. Ông chủ thì cứ như đứa con nuôi của bà chủ vậy. Kazue tìm mua hạt dẻ ngào đường. Kashichi nói nàng mua nhiều nhiều một chút.

Khi đến ga Ueno, hai người đã bắt đầu ngửi thấy mùi quê hương xa cách. Kashichi lúc nào cũng lo sợ không biết có người nào cùng quê nhìn thấy mình không? Đặc biệt tối hôm đó những người bán hàng và nữ phục vụ dáng vẻ hớn hở cứ như đang lang thang trong ngày nghỉ vậy khiến anh càng phải để ý hơn. Tại cửa hàng, Kazue đã mua một ấn bản đặc biệt của truyện trinh thám hiện đại Nhật Bản còn Kashichi thì mua một chai whisky nhỏ. Hai người lên chuyến tàu lửa khởi hành đi Niigata lúc mười giờ rưỡi.

Sau khi an định chỗ ngồi đối diện nhau, hai người mới khẽ mỉm cười.

“Anh này, anh thấy điệu bộ em như vậy bà chủ sẽ lấy làm lạ hay không?”

“Không sao cả đâu. Em cứ nói là chúng ta đến Asakusa xem phim rồi trên đường về chồng tôi say túy lúy cứ nằng nặc đòi đến thăm bà chủ lữ quán ở Minakami nên bất đắc dĩ tôi cứ thế đưa anh ấy đây vậy. Em chỉ cần nói thế là ổn thỏa thôi”.

“Đúng vậy nhỉ”, Kazute đồng tình. Rồi nàng lại nói tiếp.

“Bà chủ mà thấy mình đến chắc sẽ ngạc nhiên lắm đây”, dáng vẻ của nàng đúng là tàu lửa chưa khởi hành thì không sao yên tâm được.

“Chắc bà ấy sẽ vui lắm đấy”, tàu bắt đầu chạy. Kazue làm vẻ mặt điềm nhiên liếc nhìn chỗ sân ga đợi tàu như thể mọi chuyện đã xong xuôi. Với tâm thế đã sẵn sàng mọi chuyện, nàng mở cái gói hành lý quấn bằng khăn furoshiki trên đầu gối, lấy ra tạp chí truyện trinh thám và bắt đầu lật trang. Kashichi cảm thấy đôi chân mỏi nhừ, nhưng ngực thì cứ phập phồng không yên. Anh chậm rãi nhấp whisky với tâm trạng như thể mình đang uống thuốc vậy.

Nếu mình có tiền thì đâu phải để cho Kazue chết chứ. Nếu như người đàn ông của nàng mà tính tình dứt khoát hơn một chút thì mọi chuyện đã khác rồi. Anh không nỡ lòng nào mà nhìn. Sự tự sát của nàng đúng là vô nghĩa.

“Này em có nghĩ anh là một người tốt không?”, Kashichi đột nhiên hỏi. “Anh nghĩ chắc chỉ có mình anh là cố gắng trở thành một người tốt thôi nhỉ?”

Anh bất chợt nói lớn làm Kazue kinh ngạc hoảng sợ sau đó nàng cau mày tức giận. Kashichi lại mỉm cười yếu ớt.

“Nhưng mà”, anh cố tình hạ thấp giọng. “Em vẫn chưa đến mức bất hạnh như vậy. Căn bản em là một người phụ nữ bình thường không xấu cũng chẳng tốt. Bản chất của em vốn là một người phụ nữ bình thường mà. Nhưng anh thì khác. Anh vốn là một kẻ tệ hại lắm, còn dưới mức bình thường nữa kia?”

Con tàu đi qua Akabane, qua Omiya và cứ thế chạy miệt mài trong bóng tối. Có thể vì say rượu whisky và bị tốc độ của đoàn tàu thúc đẩy nên bất giác Kashichi trở nên hoạt bát hùng hồn.

“Bị đàn bà ghét bỏ nhưng không sao thoát khỏi họ, suốt ngày cứ lẽo đẽo quẩn quanh mãi, anh biết đó tệ hại lắm. Ngu ngốc nữa. Nhưng mà anh đâu phải là đứa trẻ ngoan. Anh ghét phải trở thành một đứa trẻ ngoan ngoãn lắm. Anh là người tốt, bị đàn bà lừa gạt nhưng không sao rũ bỏ được người ta còn bắt người ta chết chung nữa. Bạn bè văn nghệ của anh sẽ nói thật là thuần khiết, thế gian sẽ cười chê là một con người yếu đuối bạc nhược. Người ta chắc sẽ nói những lời đồng cảm tùy tiện như thế đấy. Nhưng anh thì thua cuộc trước nỗi đau khổ của mình nên phải chết. Chứ đâu phải chết vì em chút nào đâu. Chỗ tệ hại của anh nhiều không kể xiết. Anh quá dựa dẫm vào người khác, quá tin tưởng vào sức lực con người. Chuyện đó và nhiều thất bại đáng xấu hổ khác của anh, anh biết cả chứ. Dù gì đi nữa anh cũng muốn sống một cuộc đời bình thường như con người ta, và đã không ngừng cố gắng cho đến bây giờ đấy. Em có hiểu không? Đó là cọng rơm duy nhất anh cố bám víu vào. Anh luôn cố gắng hết sức như thể thêm một chút sức nặng nữa cọng rơm sẽ đứt gãy vậy. Em hiểu chứ? Anh không phải là kẻ yếu đuối bạc nhược. Chỉ là phải gánh vác nỗi sầu khổ quá nặng nề mà thôi. Đó là sự ngu si và lòng căm hận. Thế nhưng nếu nói điều đó ra mà không nói một cách rõ ràng thì người ta sẽ căm ghét. Ngay cả em người quá tin tưởng vào sự mạnh mẽ của cái mặt dày trơ trẽn này của anh cũng sẽ xem thường mà nói “người đàn ông này luôn miệng nói là khổ sở nhưng chỉ là làm bộ làm tịch, kiểu cách mà thôi”.

Kazue lầm bầm điều gì đó.

“Nhưng mà, không sao hết. Không phải là anh chỉ trích hay phê phán gì em cả. Em là người tốt, lúc nào cũng ngoan hiền. Em là người mà người ta nói sao thì tin vậy. Anh không hoàn toàn có ý chỉ trích gì đâu. Ngay cả đám bạn cũ của anh, có học vấn hơn em gấp nhiều lần mà còn chẳng hiểu được nỗi đau khổ của anh nữa. Họ còn chẳng tin vào tình yêu của anh nữa. Mà cũng đâu phải là vô lý. Tại anh tệ hại quá mà”.

Khi anh nói vậy và mỉm cười, trong thoáng chốc Kazue trở bên tự đắc.

“Em hiểu mà. Nhưng đủ rồi đó. Người ta nghe được thì kỳ cục lắm anh”.

“Chắc em không hiểu chút gì đâu. Có lẽ với em anh là kẻ vô cùng ngu ngốc. Có lẽ bây giờ trong góc nào đó khuất kín của tim anh, ý định cố gắng làm một người tốt vẫn còn ẩn nấp đâu đó. Chính vì thế mà anh mới khổ sở đây này. Anh đã sống chung với em sáu, bảy năm rồi nhưng em vẫn chưa một lần nào ghét bỏ cả. Không, anh không có ý chỉ trích gì em hết cả đâu. Điều này là đương nhiên thôi. Có phải là trách nhiệm của em đâu mà”.

Kazue không nghe gì hết. Nàng im lặng đọc tạp chí. Kashichi làm vẻ mặt nghiêm trọng, nhìn ra phía cửa sổ toa tàu tối đen, lẩm bẩm một mình như độc thoại.

“Không phải đùa đâu. Tại sao anh lại là người tốt như thế này chứ? Mọi người cứ chê bai anh đủ thứ, nào là nói dối, lười biếng, kiêu ngạo, xa xỉ, kẻ dụ dỗ đàn bà và nhiều tên gọi xấu xa đáng sợ nữa. Thế nhưng anh chỉ im lặng mà thôi. Không biện giải một lời nào cả. Anh cũng có niềm tin riêng của mình chứ. Có điều anh không thể nào nói ra được cả. Nếu vậy thì còn ra thể thống gì nữa chứ. Không, anh nghĩ đó chính là sứ mệnh lịch sử. Anh không thể sống với hạnh phúc của riêng mình thôi. Mình sẽ đóng một vai phản diện trong lịch sử. Tội ác của Giuda càng ghê gớm thế nào thì ánh sáng nhân từ của chúa Giêsu càng lớn lao chừng đó. Anh nghĩ mình là một loại người tự hủy diệt chính mình. Đó là thế giới quan của anh. Anh thử thực hiện một phản đề mạnh mẽ. Càng nhấn mạnh đến cái xấu của việc tự hủy thì cái bàn đạp của nguồn ánh sáng khỏe mạnh sinh ra từ đó càng bật trở lại dữ đội hơn. Anh tin như vậy và nguyện cầu cho điều đó. Còn bản thân anh thì sao cũng được cả. Anh nghĩ nếu vai trò của mình là phản lập pháp mà có thể đóng góp chút gì đó cho sự tươi sáng ngày mai thì anh chết đi cũng được. Thực sự chuyện này sẽ không ai cười chê đâu. Anh nghĩ vậy đấy. Anh ngu ngốc thật. Có lẽ anh đã sai ở chỗ nào rồi đây. Có lẽ anh có chút tự phụ ở chỗ nào đó đây. Có lẽ chính điều đó là một giấc mơ ngọt ngào. Cuộc sống đâu phải là một vở kịch chứ. Dù sao anh đã thua cuộc và gần chết rồi nên những lời nói riêng với em là hãy cố gắng lên thì đúng là sai lầm thật đấy. Ngay cả chó cũng còn không thèm ăn bữa tiệc từ mùi xú uế của xác anh khi vứt bỏ mạng sống của mình nữa. Có lẽ nó còn gây phiền hà cho người được cho nữa. Vì nếu không giúp ích gì cho sự phồn vinh của họ, thì điều đó có nghĩa gì đâu…”

Cửa sổ toa tàu chỉ im lặng, chắc chắn không có câu trả lời.

Kashichi đứng dậy, lảo đảo đi tìm nhà vệ sinh. Sau khi vào nhà vệ sinh, đóng cửa lại đàng hoàng, Kashichi do dự một chút rồi tập trung chắp hai tay lại. Dáng vẻ nguyện cầu. Không có chút làm bộ làm tịch nào cả.

Khi tàu đến ga Minakami thì đã là bốn giờ sáng. Trời vẫn còn tối. Lớp tuyết dày đáng lo ngại gần như đã tan hết, chỉ hai người còn lại trong bóng tối nhạt mờ nơi sân ga. Mặc dù nghĩ rằng với tình hình này mình có thể đi bộ đến suối nước nóng Tanigawa trong núi nhưng Kashichi vẫn thận trọng đánh thức người tài xế taxi đang ngủ phía trước nhà ga.

Chiếc xe lượn vòng theo hình dích zắc, chậm chạp bò lên trên núi. Tuyết bao phủ núi đồi ngập tràn đến mức nhuộm sáng cả bầu trời u tối.

“Trời lạnh thật đấy nhỉ. Tôi không ngờ lại lạnh như thế này. Ở Tokyo giờ này vẫn còn có người mặc áo vải serge mà đi dạo đấy chứ?”

Anh giải thích với người tài xế lúc chỉnh trang lại y phục của mình. “A, rẽ phải ngay chỗ đó nhé”.

Khi đến gần lữ quán, Kazue chợt trở nên hoạt bát. “Chắc giờ hai ông bà vẫn còn đang ngủ đấy chứ?”, rồi nàng nói tiếp với người tài xế. “Vâng, lên trước một chút nữa ạ”.

“Được rồi, dừng lại”, Kashichi nói. “Còn lại chúng ta đi bộ thôi”. Phía trước là con đường chật hẹp.

Rời khỏi xe taxi, Kashichi và Kazue cởi tất chân và cùng nhau đi bộ khoảng năm mươi mét đến chỗ lữ quán. Tuyết trên đường đang tan bám một lớp mỏng ướt át nguy hiểm vào đôi guốc hai người đang mang. Khi Kashichi định gõ cửa lữ quán, thì Kazue đang đi chậm phía sau anh một chút vội vàng chạy lên mà nói.

“Để em gõ cửa cho. Chính em đánh thức bà chủ dậy mới được”.

Vẻ mặt của nàng thật đúng như đứa trẻ đang muốn tranh công vậy.

Vợ chồng chủ lữ quán vô cùng kinh ngạc. Nói đúng hơn là họ hoảng hốt một cách thầm lặng.

Kashichi một mình xăm xăm lên tầng hai, vào căn phòng mà anh từng nghỉ lại mùa hè năm trước, với tay bật công tắc đèn. Anh nghe tiếng Kazue vọng đến.

“Tại vì chồng con cứ nhất quyết phải đến chỗ bà bằng được đấy mà. Nghệ sĩ đúng là trẻ con bà nhỉ?”

Kazue vui vẻ cười đùa như thể không để tâm đến lời nói đối đó. Nàng tiếp tục nói về chuyện ở Tokyo người ta đang mặc áo serge mà đi dạo ngoài đường.

Bà chủ lặng lẽ lên tầng hai, chậm chạp mở cánh cửa chớp rồi nói.

“Lâu rồi cậu mới đến nhỉ?”

Bên ngoài, trời đã sáng hơn mấy phần. Dãy núi trắng tinh gần như hiện ra ngay trước mắt. Khi Kashichi thử nhìn xuống thung lũng, anh có thể thấy lờ mờ một dòng sông đen đang chảy dưới lớp sương mù buổi sáng.

“Lạnh kinh người”, anh nói dối dù trời không lạnh đến mức như vậy. “Muốn uống rượu ghê”

“Cậu vẫn ổn cả chứ?”

“À, ổn lắm. Tôi mập ra đây này”.

Kazue tự mình mang lên một cái bàn sưởi kotatsu lớn.

“A nặng quá. Này bà ơi, con mượn cái bàn sưởi này của ông một chút nhé. Ông cũng nói con có thể mượn đấy. Lạnh ghê nơi”

Không nhìn về phía Kashichi, nàng cứ thế mà nói đùa chơi một mình theo cách rất kỳ khôi.

Nhưng khi chỉ còn lại hai người, nàng ngay lập tức trở nên nghiêm túc.

“Em mệt rồi. Giờ mình đi tắm rồi ngủ một giấc thôi anh”.

“Có lẽ mình xuống chỗ tắm lộ thiên phía dưới được đấy nhỉ?”

“Có lẽ được đấy anh. Ông chủ cũng nói ông xuống đó ngâm mình mỗi ngày mà”.

Ông chủ mang một đôi giày rơm lớn, tiếp tục giẫm lên lớp tuyết mới rơi hôm qua đã bị giẫm cứng tạo thành đường đi chỉ dẫn cho Kashichi và Kazue. Hai người theo sau xuống đến dòng sông dưới thung lũng trong ánh rạng đông. Hai người cởi kimono để trên tấm chiếu rơm do ông chủ mang đến rồi ngâm mình trong làn nước ấm. Thân hình Kazue thật đầy đặn tròn trịa. Thật không sao nghĩ được là tối hôm nay cơ thể đó sẽ trở thành vật chết.

Chờ cho ông chủ đi khỏi, Kashichi mới nói.

“Khu vực đó đấy nhỉ?”

Nói xong Kashichi hất cằm về phía dãy núi trắng với sương mù buổi sáng đang chậm chạp phủ vây.

“Nhưng tuyết dày quá. Không biết mình có leo lên được không anh?”

“Vậy thì mình đi xuống phía hạ lưu một chút. Phía ga Minakami tuyết không dày lắm đâu”.

Hai người cùng nhau thảo luận về nơi sẽ chết.

Khi trở về lữ quán, hai người đã thấy chăn mền trải sẵn. Ngay lập tức Kazue trườn vào và bắt đầu đọc tạp chí. Phía dưới chân nàng là một lò lửa lớn, có vẻ ấm áp vô cùng. Còn Kashichi cuộn tấm chăn của mình lại, ngồi khoanh chân trước bàn, sát với lò than và uống rượu. Mồi nhắm là cua đóng hộp và nấm đông cô sấy khô. Còn có cả táo nữa.

“Này, em có muốn ở thêm một đêm nữa không?”

“Vâng”, Kazue vừa đọc tạp chí vừa trả lời. “Em thì sao cũng được. Nhưng có vẻ mình không còn đủ tiền đấy anh”.

“Vậy mình còn khoảng bao nhiêu?”, Kashichi vừa hỏi vừa cảm thấy xấu hổ đỏ bừng mặt mũi.

Vẫn còn do dự. Đáng căm ghét. Điều cẩu thả nhất trên đời. Mình thật vô dụng. Mình vẫn còn chưa quyết ý như vậy phải chăng là vì vẫn còn quyến luyến ham muốn thân hình của người phụ nữ này chăng?

Kashichi khổ sở.

Mình còn ý muốn sống tiếp với người phụ nữ này nữa sao? Nhưng còn nợ nần, số tiền vay mượn bất chấp đạo lý thì sao? Thanh danh nhơ nhuốc, tiếng xấu nửa dại nửa điên thì phải làm sao đây? Nỗi khổ sở bệnh tật mà ai cũng mỉa mai không chịu tin thì phải làm sao chứ? Rồi còn gia đình họ hàng nữa chứ.

“Này, có vẻ như em phải chịu thua trước gia đình của anh rồi nhỉ. Có vẻ là vậy rồi”.

Kazue mắt vẫn nhìn vào quyển tạp chí, trả lời ngay lập tức.

“Đúng vậy. Dù sao em cũng là người con dâu mà không ai ưa nổi cả”.

“Không, không thể nói hoàn toàn như vậy được. Nhưng em cũng có một phần thiếu cố gắng nữa”.

“Đủ rồi đấy”, Kazue nói và ném quyển tạp chí đi. “Anh chỉ suốt ngày nói lý lẽ. Vì thế mà em rất ghét đấy”.

“A, ra vậy? Thì ra em căm ghét anh à? Thật là thất lễ quá đi”, Kashichi nói giọng say sưa lè nhè.

Tại sao mình không ghen tức nhỉ? Phải chăng mình quá tự phụ kiêu ngạo chăng? Chắc chắn là mình không căm ghét chính mình rồi? Mình có thể tin điều đó đấy. Mình cũng không thèm nổi giận nữa. Một người như vậy có phải là quá đỗi yếu đuối bạc nhược hay không? Có lẽ chính cái cách cảm nhận của mình như vậy mới là ngạo mạn không biết chừng? Nếu như vậy thì tất cả những suy nghĩ của mình đều là tệ hại hết cả. Cách sống của mình từ xưa đến giờ cũng đều là hư hỏng hết. Đó cũng chẳng phải là điều vô lý hay bí ẩn gì mà tại sao mình không thể đơn giản là cảm thấy căm ghét được chứ? Chẳng phải lòng ghen tuông như thế mới đơn thuần và đẹp đẽ hay sao? Chính cơn nổi giận lôi đình muốn trừng phạt kẻ ngoại tình mới là sự trung thực cao nhất chứ? Chính cái tư thế uất ức muốn chết đi vì bị đả kích do bị vợ mình phản bội mới là nỗi buồn thanh thuần chứ nhỉ? Nhưng mà mình là gì chứ? Mình là người do dự không dứt khoát, là người tốt, nào là đạo đức, tôn nghiêm, tiền vay mượn, trách nhiệm, sự nhờ vả, phản đề, nghĩa vụ lịch sử, gia đình họ hàng… A, không thể nào được.

Kashichi nghĩ mình muốn vung gậy loạn xạ để đập vỡ đầu mình.

“Ngủ một giấc rồi xuất phát. Quyết định vậy đi”.

Kashichi với tay lấy đại tấm nệm futon của mình rồi vùi người vào đó.

Có vẻ đã khá say nên Kashichi có thể ngủ được. Khi anh mơ màng thức dậy thì đã quá trưa. Kashichi không thể nào chịu nổi sự cô đơn hiu quạnh. Anh bật ngay dậy vừa nói lạnh quá lạnh quá rồi gọi người ở nhà dưới mang rượu lên.

“Này, dậy đi em. Mình xuất phát nào”.

Kazue ngủ với cái miệng he hé mở ra. Nàng mở mắt dậy thảng thốt.

“A, mình ngủ đến giờ này luôn à?”

“Không, chỉ mới quá trưa một chút thôi. Nhưng anh không chịu nổi nữa rồi”.

Mình không muốn nghĩ ngợi thêm gì nữa. Mình chỉ muốn chết thật nhanh thôi.

Rồi sau đó mọi chuyện diễn biến nhanh chóng. Kashichi để Kazue nói với ông bà chủ là hai người muốn đi tham quan suối nước nóng gần đây rồi rời lữ quán. Bầu trời xanh thoáng đãng, vì hai người vừa xuống núi vừa muốn ngắm quang cảnh trên đường đi nên không gọi xe taxi. Đi đến một quãng xa ngoái nhìn lại thì thấy bà chủ lữ quán đang chạy đuổi theo sau.

“Này bà chủ đang đến đấy”, Kashichi nói với vẻ bất an.

“Này, cầm lấy”, bà chủ lữ quán đỏ mặt đưa cho Kashichi một gói giấy.

“Vải sồi đấy. Tôi tự se sợi làm thành đấy. Không có gì đâu”.

“Cám ơn bà nhé”, Kashichi nói.

“Bà lo lắng cho chúng cháu quá”, Kazue nói. Rồi hai người cảm thấy nhẹ nhõm làm sao.

Khi Kashichi hăm hở bước đi thì nghe bà chủ nói.

“Đi cẩn thận nhé”.

“Chà bà chủ cũng giỏi giang ghê nơi”.

Phía sau hai người, bà chủ vẫn còn đứng chào. Kashichi đột nhiên quay người lại và nói.

“Bà chủ, bắt tay cái nào”.

Bị nắm tay thật chặt, vẻ mặt bà chủ trở nên ngượng ngùng và có phần sợ hãi nữa.

“Anh ấy say rượu đó mà”, Kazue đứng bên cạnh giải thích.

Thì ra say rượu à? Hai người chia tay bà chủ tươi cười rồi chậm chạp xuống núi. Tuyết đã mỏng dần. Kashichi bắt đầu thì thầm bàn bạc với Kazue là chỗ này nhỉ hay là chỗ kia thì được. Kazue nói thôi để gần phía ga Minakami hơn một chút để bớt cảm thấy cô đơn. Và rồi khu phố Minakami bắt đầu hiện ra dưới tầm mắt.

“Không còn do dự gì nữa hết nhỉ?”, Kashichi làm ra vẻ vui vẻ mà nói.

“Vâng”, Kazue nghiêm túc gật đầu.

Kashichi cố ý đi vào khu rừng sam phía bên trái con đường. Kazue lầm lũi theo sau. Tuyết gần như đã tan hết. Lá rụng chất chồng dày đặc ẩm ướt. Không sao cả, cứ tiến lên thôi. Chỗ dốc thì lần mò leo lên. Ngay cả cái chết cũng phải cần nỗ lực. Cuối cùng cũng tìm được bãi cỏ rộng đủ chỗ cho hai người ngồi. Chỗ này cũng có ít nắng rọi vào và cả một con suối nhỏ nữa.

“Chỗ này đi nhé”, hai người đã thấm mệt.

Kazue lấy cái khăn tay trải ra ngồi xuống và bị Kashichi cười chế nhạo. Kazue gần như im lặng. Kashichi lấy từng hộp thuốc ra và xé bao bì. Anh lấy thuốc ra và nói.

“Loại thuốc này anh rành lắm. Em chỉ cần uống chừng này là đủ thôi”.

“Sao ít vậy? Chùng này có đủ chết không anh?”

“Người mới sử dụng lần đầu chỉ cần như vậy thôi là đủ chết rồi đấy. Còn anh uống tùy tiện đã quen nên phải gấp mười lần em mới được. Nếu còn sống thì anh thật không thể nào nhìn em mà chịu nổi đâu”. Nếu còn sống thì đúng là ngục tù đấy.

Tuy vậy, chẳng phải việc mình để cho Kazue sống sót chính là cách trả thù ti tiện đó hay sao? Không lẽ lại giống tiểu thuyết thông tục viết để chiều lòng người đến thế? Kashichi thậm chí còn cảm thấy phát cáu lên, đổ hết thuốc đầy cả lòng bàn tay, rồi dùng nước suối mà uống cạn. Kazue thấy thế cũng vụng về lấy thuốc uống cùng.

Hai người hôn nhau rồi cùng ngả người nằm xuống.

“Chà, thôi vĩnh quyết từ đây. Người nào còn sống sót thì phải sống cho mạnh mẽ lên nhé”.

Kashichi biết rằng chỉ với số thuốc ngủ này thì mình vẫn chưa thể chết được. Anh lặng lẽ di chuyển thân mình ra đến rìa vách đá, tháo dây đai lưng áo, buộc ngang cổ, một đầu buộc vào thân cây gì giống như cây dâu để đến khi anh vừa thiếp ngủ thì người cũng trượt ra ngoài vách đá rồi bị siết cổ đến chết. Anh đã lên kế hoạch trước. Vì thế mà Kashichi mới cố ý chọn bãi cỏ trên vách đá này. Anh thiếp đi và lơ mơ nhận thấy mình bị trượt ngã.

Lạnh quá. Anh mở mắt ra. Trời đất tối đen. Ánh trăng lênh láng. Đây là nơi đâu?

Hốt nhiên anh nhận ra mình còn sống.

Kashichi đưa tay lên cổ. Dây đai lưng vẫn quấn chặt. Lưng anh lạnh ngắt. Anh đã trượt xuống vũng nước. Và bất chợt hiểu ra. Anh đã không rơi thẳng theo vách đá mà cơ thể anh nghiêng qua trượt xuống vũng nước trên mỏm đá thôi. Nước rỉ ra từ con suối đọng thành vũng lạnh đến nỗi anh muốn đông cứng lại từ đầu đến chân. Mình vẫn sống. Chưa thể chết được. Đây là một sự thực nghiêm túc. Nhưng trên tất cả, không được để cho Kazue chết. A, còn phải ráng sống, ráng mà sống thôi.

Tứ chi bải hoải, đứng dậy cũng chẳng phải dễ dàng gì. Dùng toàn bộ sức lực, Kashichi ráng ngồi dậy, tháo chiếc đai lưng một đầu đang buộc vào thân cây ra khỏi cổ, khoanh chân ngồi trong vũng nước, nhìn quanh quẩn. Không thấy bóng dáng của Kazue đâu cả.

Kashichi bò xung quanh tìm kiếm Kazue. Dưới vách đá có một vật thể màu đen. Nhìn giống như một con chó nhỏ. Khi anh lần mò bò xuống vách đá để nhìn cho kỹ hơn thì đúng là Kazue. Kashichi thử nắm lấy chân nàng xem thử thì thấy lạnh toát. Không lẽ chết rồi sao? Anh dùng lòng bàn tay đặt nhẹ lên miệng của Kazue để kiểm tra hơi thở. Không có. Ngu ngốc thật. Chết luôn rồi à? Sao ích kỷ như thế chứ? Tự nhiên anh cảm thấy tức giận một cách kỳ lạ. Kashichi thô bạo nắm lấy cổ tay Kazue để xem mạch đập. Mạch đập yếu ớt như tơ. Còn sống. Vẫn còn sống. Anh đưa tay lên ngực nàng thử xem. Vẫn còn ấm. Gì đây chứ. Thật là ngu ngốc mà. Mình ghét phải sống. Cũng ghê gớm, ghê gớm đấy. Anh thấy tội nghiệp quá đỗi. Chỉ với chừng đó thuốc làm sao có thể chết được cơ chứ. Cảm thấy chút gì đó như niềm hạnh phúc, Kashichi nằm xuống cạnh Kazue và sau đó anh cũng chẳng biết trời trăng mây gió gì nữa.

Khi Kashichi thức dậy lần thứ hai, anh thấy Kazue bên cạnh đang ngáy rền. Kashichi nghe thấy mà cảm thấy xấu hổ. Đúng là một người phụ nữ khỏe mạnh thật.

“Này, Kazue, tỉnh dậy đi em. Mình còn sống. Hai đứa mình vẫn còn sống cả đấy”. Kashichi vừa mỉm cười khổ sở vừa lay bờ vai của Kazue.

Kazue nằm ngủ rất yên bình. Những cây sam núi cao vút đứng lặng lẽ trong đêm khuya, nửa vầng trăng lạnh lẽo treo trên đầu ngọn cây hình mũi kim sắc nhọn. Không hiểu sao Kashichi trào nước mắt. Rồi anh bật khóc thổn thức. Mình vẫn còn là một đứa trẻ. Tại sao một đứa trẻ lại phải chịu đớn đau khổ sở như thế này?

Đột nhiên Kazue nằm bên cạnh anh hét lên.

“Đau quá bà ơi. Ngực con đau quá”, giọng nàng nghe như tiếng sáo.

Kashichi kinh ngạc. Giọng nàng lớn đến mức nếu có người đi qua nơi con đường dưới núi mà nghe thấy thì chắc chịu không nổi.

“Kazue à. Đây không phải là lữ quán đâu. Bà chủ không có ở đây đâu mà”.

Chắc chắn Kazue không hiểu. nàng cứ kêu gào đau lắm đau lắm rồi lăn lộn khổ sở nhào xuống phía dưới. Kashichi nghĩ không khéo con dốc thoai thoải này sẽ đưa thân hình Kazue xuống đến tận con đường phía dưới núi nên vội vàng ráng sức lăn người đuổi theo theo sau. Bị một cây sam lớn ngáng đường, Kazue bám chặt vào đó rồi gào lớn.

“Lạnh quá, bà ơi. Mang cho con cái lò sưởi kotatsu đi”.

Khi Kashichi tiến lại gần và nhìn khuôn mặt Kazue phản chiếu dưới ánh trăng thì thấy hình dáng nàng gần như không phải là con người nữa. Mái tóc sổ tung ra bám dính đầy lá mục, rối tung rối mù như thể tóc của nhân vật bị sư tử nhập trong kịch Kabuki, như tóc của Sơn mụ trong truyền thuyết.

Mình phải mạnh mẽ lên, chỉ còn lại một mình cũng phải mạnh mẽ lên. Kashichi lảo đảo đứng dậy, ôm lấy thân hình Kazue, cố sức đưa nàng về lại phía khu rừng sam. Ngã quỵ, bò lên, trượt xuống, bám vào thân cây, cấu cào mặt đất, từng chút từng chút, Kashichi đưa Kazue về phía khu rừng. Nỗ lực miệt mài suốt mấy tiếng đồng hồ liên tục.

A, thôi đủ rồi. Người đàn bà này quá nặng nề với mình. Nàng là người tốt nhưng quá thừa với mình. Mình là kẻ yếu ớt vô lực. Mình phải khổ sở vì con người này cho đến hết đời sao? Không được, chán rồi. Chia tay đi thôi. Mình đã cố gắng tận cùng sức lực. Đó là lúc Kashichi quyết tâm dứt khoát. Người đàn bà này không được. Chỉ có mình cứ bám víu mãi. Thôi người đời nói gì cũng mặc kệ. Mình sẽ chia tay với người đàn bà này thôi.

Bình minh đến gần, bầu trời chuyển sang màu trắng. Kazue cũng dần dần trở nên ngoan hiền trở lại. Sương sớm phủ khắp khu rừng.

Cứ đơn giản thẳng thắn thôi. Thẳng thắn đơn giản vào. Đừng cười sự đơn giản của từ “nam tính”. Con người không có cách sống nào khác hơn sống đơn giản đâu.

Kashichi cẩn thận dùng tay gỡ từng chiếc lá sam bám trên đầu Kazue đang nằm ngủ bên cạnh mình.

Mình yêu người đàn bà này. Mình yêu nàng mà không hiểu tại sao. Chính nàng là nguồn cơn của nỗi khổ đau của mình. Nhưng mà thôi đủ rồi. Mình đã có được sự mạnh mẽ để vừa yêu vừa cách xa. Để sống sót thì ngay cả tình yêu cũng phải hy sinh. Điều này chẳng phải là đương nhiên hay sao chứ? Con người trên thế gian này đều sống như vậy cả mà. Sống đương nhiên như thế. Đâu còn cách sống nào khác đâu. Mình không phải thiên tài cũng chẳng phải kẻ điên khùng gì.

Kazue cứ ngủ ngon lành cho đến quá trưa. Trong khoảng thời gian đó, Kashichi cứ vừa loạng choạng mà làm đủ việc như cởi bộ quần áo kimono sũng nước của mình phơi khô rồi đi quanh quẩn tìm đôi guốc của Kazue, chôn những hộp thuốc rỗng xuống đất, dùng khăn tay lau những vết bùn đất trên quần áo của Kazue.

Khi Kazue thức dậy và nghe Kashichi kể về chuyện đêm hôm qua, nàng liền vội cúi đầu.

“Xin lỗi anh”. Kashichi mỉm cười.

Kashichi giờ có thể đi bộ nhưng Kazue thì vẫn chưa. Hai người cứ ngồi yên một lúc lâu, bàn bạc chuyện hôm nay và về sau. Tiền bạc thì còn khoảng gần mười yên. Kashichi thì có ý muốn hai người cùng quay trở về Tokyo nhưng Kazue thì nói là bộ quần áo kimono của mình quá bẩn thỉu không thể cứ thế mà lên tàu được đâu. Cuối cùng hai người thống nhất phương án là Kazue sẽ đón xe taxi, quay trở lại lữ quán Tanigawa, nói dối với bà chủ là mình đi tản bộ đến chỗ suối nước nóng kia rồi bị té ngã mà lấm lem hết quần áo, rồi ở lại đó nghỉ ngơi tĩnh dưỡng còn Kashichi thì lên tàu về Tokyo trước mang theo tiền bạc và quần áo quay trở lại đón sau. Vì quần áo của Kashichi đã khô nên anh một mình rời khỏi khu rừng sam, xuống đến phố Minakami mua bánh gạo, kẹo caramal và nước chanh rồi quay về cùng ăn với Kazue. Kazue nhấp một ngụm nước chanh và nôn ra.

Hai người ở bên nhau cho đến khi trời tối. Cuối cùng Kazue cũng có thể nhúc nhắc đi lại được. Hai người cùng nhau lẻn ra khỏi khu rừng. Sau khi đón taxi cho Kazue quay về lữ quán suối nước nóng, Kashichi một mình trở về Tokyo bằng tàu lửa.

Sau đó Kashichi bộc bạch mọi chuyện với chú của Kazue và nhờ vả mọi chuyện còn lại. Người chú vốn kiệm lời, nghe thế thì nói.

“Thật là đáng tiếc quá”.

Vẻ mặt chú thể hiện sự tiếc nuối thật sự.

Người chú đi đón Kazue trở về cho nàng tá túc ở nhà mình.

“Con bé Kazue này cứ như con gái của ông bà chủ lữ quán vậy. Đêm đến nó cứ trải nệm futon giữa hai ông bà mà ngủ ngon lành. Đúng là kỳ lạ thật”. Người chú nói và lắc đầu cười. Ngoài ra không còn nói thêm bất cứ điều gì nữa.

Người chú này rất tốt. Cho dù là Kashichi đã chia tay hẳn hoi với Kazue mà vẫn không giữ kẽ gì, thỉnh thoảng vẫn cứ cùng Kashichi đi chơi bời uống rượu. Nhưng có đôi lúc, người chú như nhớ ra điều gì và bất chợt nói.

“Kazue cũng tội nghiệp thật đấy chứ”.

Mỗi lần như vậy, Kashichi lại cảm thấy yếu đuối và khó xử vô cùng.

Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ

Đọc bài viết

Sáng tác

Truyện ngắn | Hải Âu – Dazai Osamu

Published

on

Lời người dịch:

Dazai Osamu (1909-1948) là một đại văn hào Nhật Bản, thành viên chủ chốt của nhóm văn học “Vô lại phái” (Buraiha 無頼派), một nhóm nhà văn có khuynh hướng nổi loạn và tự hủy sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ông rất thành công với thể loại “tiểu thuyết tự thuật” (shi shosetsu 私小説 – tư tiểu thuyết). Những tác phẩm quan trọng của ông như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Nữ sinh” hay những truyện ngắn đặc sắc khác đều có liên hệ đến cuộc đời bi thảm của ông. Dazai trầm mình tự sát cùng với người tình Tomie vào năm 1948 ở tuổi ba mươi chín, sau bốn lần nỗ lực trước đó không thành.

Nhân dịp kỷ niệm 77 năm ngày mất của văn hào Dazai, chúng tôi xin được gửi đến quý độc giả hai truyện ngắn mang tính tự thuật nhất của Dazai, lần đầu tiên được dịch ra Việt ngữ là “Hải âu” và “Đành tâm chối bỏ”.

Truyện ngắn “Hải âu” là bản tuyên ngôn tư tưởng của Dazai Osamu về văn học cũng như về niềm tin yêu gửi gắm vào thế hệ trẻ tuổi. Nhiều quan điểm riêng của ông về niềm tin yêu cái đẹp, sự cố gắng sống và viết thành thật, vai trò của sự hối hận, phản tỉnh trong văn chương…đều được miêu tả đậm nét, không dấu giếm. Có thể xem đây là một truyện mang tính tự thuật nhất của văn hào Dazai về nghề văn. Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “Kamome” (鷗) trong tập “Tiếng dế nỉ non” (きりぎりす), nhà xuất bản Shinchosha tái bản lần thứ 73 năm 2018 , từ trang 123 đến 145.

Còn truyện ngắn đặc sắc “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute) viết về chuyến tự sát đôi không thành với H, một người phụ nữ trong đời Dazai, đã phản bội Dazai đi theo một người họa sĩ. Ở ranh giới sinh tử, nhân vật Kashichi (là hình bóng Dazai) đã lấy lại sức mạnh để thẳng thắn chia tay và sống tiếp tục cuộc đời mình. Trong tác phẩm chúng ta cũng nhận thấy rõ nỗi dằn vặt day dứt về thế gian, cuộc sống và tình yêu của Dazai.

Chính Dazai trong một truyện ngắn tự thuật khác “Tám cảnh sắc Tokyo” đã viết về truyện ngắn này như sau:

“Vào mùa hè năm ba mươi tuổi, lần đầu tiên tôi mới nghiêm túc quyết ý đi theo con đường văn chương. Nghĩ lại thì đó là một ý nguyện muộn màng. Tôi đã ráng hết sức viết văn trong căn phòng bốn chiếu rưỡi không có lấy một đồ đạc gì cho ra hồn. Cơm tối của nhà trọ tôi để lại một phần trong hộp cơm, lén nắm lại thành cơm nắm để lót dạ khi làm việc khuya. Lần này tôi không viết di thư di chúc gì cả. Mà là viết để sống. Có một vị tiền bối đã khích lệ tôi. Cho dù thế gian khinh ghét cười nhạo tôi thì chỉ có vị tác gia tiền bối đó trước sau vẫn đối xử với tôi thân thiết. Tôi phải báo đáp lại sự tin tưởng đáng quý ấy. Cuối cùng tôi cũng viết xong tác phẩm “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute). Truyện này tôi viết lại thành thực việc tôi và H dự tính tự sát tại suối nước nóng Minakami…” (*)

(*) Dazai Osamu, “Tám cảnh sắc Tokyo” trích trong tập “Thất lạc cõi người”, Hoàng Long dịch, Nxb Hội Nhà Văn và Phương Nam ấn hành, tái bản lần thứ 12, trang 218.

Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “姥捨て” trên trang mạng kho sách ngoài trời Aozora: https://www.aozora.gr.jp/cards/000035/files/2256_19985.html.

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả như một nén tâm hương tưởng nhớ một đời văn tài hoa “nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”. Mong rằng chúng ta luôn giữ cho mình một tấm lòng thành thực “nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” (一片冰心在玉壺 (một mảnh lòng trong sáng như băng trong bình ngọc, thơ Vương Xương Linh) cùng với văn chương.

Hoàng Long

./.

HẢI ÂU

Dazai Osamu

ひそひそ聞える。なんだか聞える。

Hãy nghe lời thì thầm. Người có nghe gì không?

“Tôi cười tôi khóc bâng quơ, người nghe người khóc có ngờ chi không?”

 (Bùi Giáng)

Hải âu là loài chim câm. Nghe như vậy hầu hết mọi người đều thản nhiên thừa nhận mà nói rằng à, ra vậy, có lẽ vậy nhỉ. Nhưng tôi nghe thế thì vô cùng hoảng hốt buồn thương mà thú nhận cảm xúc thất thường của mình là “Trời, sao tội vậy? Thật ư? Bị câm thì thật là buồn”. Đôi khi tôi cảm thấy mình như loài chim hải âu câm lặng đó.

Đã đủ tuổi chín chắn rồi vậy mà ban ngày vì buồn bã chán chường ra ngoài đi dạo, lấy chân đá vào viên sỏi nhỏ trên đường cho nó lăn lăn rồi đi một lúc lại lén lấy chân đá tiếp đến khi định thần thì thấy mình đã chạy đuổi mà đá cùng một viên sỏi đến hai ba quãng đường. Tôi lại đuổi theo đá tiếp. Cứ hai tay đút túi, đá viên sỏi rồi đi như một kẻ ngớ ngẩn ngu si. Quả thật mình là một kẻ bệnh tật quá nhỉ? Mình đã sống sai cách rồi. Có lẽ mình đã hiểu nhầm về việc viết tiểu thuyết. “Được rồi”, tôi thử cất lên một tiếng thì thầm với mình rồi lấy đà nhảy qua vũng nước giữa đường. Vũng nước phản chiếu trời thu trong xanh với mây trắng lững lờ. Vũng nước sao mà đẹp quá, tôi nghĩ thầm. Hốt nhiên, gánh nặng trên vai được tháo xuống, tôi muốn mỉm cười. Chừng nào vũng nước nhỏ này còn tồn tại thì nghệ thuật của tôi sẽ có nền tảng mà dựa vào. Tôi quyết định mình sẽ không bao giờ lãng quên vũng nước đó.

Mình là một gã đáng hổ thẹn. Sống không có phương hướng gì hết. Có lẽ mình chỉ là một người trong số “đám đông” trôi dạt vô định ngả nghiêng phải trái theo từng con sóng đời đưa đẩy thôi chăng? Bây giờ mình lại lên chuyến tàu lửa tốc hành với tốc độ kinh người này để làm gì cơ chứ? Chuyến tàu này đi về đâu mình còn chẳng biết nữa mà. Mà cũng chẳng có ai chỉ cho mình biết. Tàu cứ thế mà chạy với những tiếng rền vang ầm ĩ. Bây giờ là qua núi, bây giờ là bãi biển, bây giờ là cầu sắt, vừa qua cầu thì đến một đường hầm tối tăm, và rồi cánh đồng trải rộng. Tàu đi mải miết, cảnh sắc cứ trôi miệt mài… Tôi bâng quơ thờ thẫn nhìn phong cảnh lướt qua cửa sổ toa tàu. Tôi dùng ngón tay vẽ vời dáng vẻ khuôn mặt nhìn nghiêng trên cửa kính rồi lại xóa đi. Ngày dần tàn, ngọn đèn điện trong toa tàu sáng lên hiu hắt. Tôi lần giở hộp cơm nghèo nàn mang theo ăn trong lặng lẽ. Món cá khô sao mà cô đơn vô hạn, tôi ăn không sót một hạt cơm nào, rồi hút điếu thuốc Bat giá chín xu. Đêm khuya rồi, mình phải ngủ thôi. Thế là tôi ngủ. Dưới gối, tiếng tàu nghiến trên đường ray rền rĩ. Dù vậy thì mình cũng phải ngủ thôi. Tôi nhắm mắt lại. Bây giờ tàu đang qua núi, bây giờ tàu qua vịnh biển…Giọng cô trinh nữ tội nghiệp hát bài ca đó như vang vọng từ dưới đáy thịnh nộ của tiếng tàu rền vang.

Có người nào mà không nhiệt tình ái quốc chứ? Nhưng tôi không thể nói ra điều đó. Tôi không thể trâng tráo nói lớn giọng về điều đó được. Từ trong đám đông, có lần tôi đã lén nhìn những người lính ra trận rồi khóc thút thít. Mình sức khỏe hạng ba. Bẩm sinh cơ thể đã yếu đuối bạc nhược. Ngay cả khi hít xà đơn, tôi cũng cứ thế treo người mà không thể làm nổi một động tác nào. Còn tập thể dục theo đài radio thì còn không tập hết bài luôn. Thân thể đã yếu ớt như thế mà tinh thần lại còn bạc nhược nữa. Đúng là hết thuốc chữa. Mình không có lấy một chút lực nào mà đi chỉ dẫn người ta. Ngay cả lòng ái quốc lặng thầm đây mình nào có thua ai mà không không thể nói ra được. Tôi cảm thấy như những lời tuyên ngôn ái quốc dâng trào đến tận cổ họng mà sao mình vẫn không thế nói được. Không phải là mình biết mà không nói. Lời sắp sửa trào ra khỏi họng luôn mà sao lại không thốt ra được. Tôi cảm giác đó là những lời rất đẹp đẽ và mình bây giờ đang nắm chặt lấy những ngôn từ kia rồi mà càng vội vàng thì nó càng chạy bay chạy biến đi mất. Chỉ còn tôi đỏ mặt tía tai, như kẻ ngu ngốc vô năng mà cứ thế đứng thẫn thờ. Mình không thể viết được một đoạn thơ về lòng ái quốc. Mình chẳng viết được điều gì cả. Có ngày những lời nói ấp ủ của tôi được trút ra với điệu bộ khổ sở thì chỉ là câu “chết đi, vạn tuế” mà thôi. Vốn chẳng biết phương pháp nào diễn tả sự trung thành ngoài cái sự chết ra thì tôi đúng là một gã quê mùa ngu ngốc quá.

Mình chỉ là một thị dân yếu đuối và nhỏ bé. Làm được một túi quà úy lạo nghèo nàn, liền đưa cho vợ bảo ra bưu điện gửi đi. Rồi từ chiến trường có thông báo biên nhận trang trọng gửi về. Tôi đọc những dòng chữ đó mà mặt mũi phừng phừng như lửa cháy. Thật xấu hổ làm sao. Nói cho đúng từ thì là sợ hãi đến mức co rúm cả người lại. Tôi chẳng làm được tích sự gì cả. Tôi chẳng thốt ra được lời nào kiên quyết mãnh liệt. Những câu yêu nước trâng tráo tôi không thể nào nói ra. Tôi chỉ có thể viết được những bức thư yếu đuối xun xoe gửi cho những người bạn ở chiến trường. (Nhưng bây giờ tôi đang viết thành thật về mọi thứ). Bức thư ủy lạo của tôi thật là tệ hại, chỉ toàn những lời dối trá mà thôi. Những lời giả dối nịnh bợ trâng tráo đến mức tôi cũng phải nghiến răng kinh ngạc. Tại sao như thế chứ? Tại sao mình lại trở nên ti tiện đối với những người lính đang ngoài chiến trường như vậy? Không phải là mình đã nỗ lực cả sinh mệnh để làm ra một thứ nghệ thuật tuyệt diệu sao? Ngay cả một niềm kiêu hãnh nhỏ nhoi duy nhất đó mà mình cũng đang tâm vứt bỏ à? Người bạn từ chiến trường cũng gửi về bản thảo truyện ngắn, nhờ tôi giới thiệu cho tòa soạn báo. Bản thảo đó viết đầy trên xấp giấy phương Tây, với những nét chữ nhàu nhĩ chen chúc bé như hạt gạo mà có truyện cũng khá dài, kín hết hai trang giấy. Tôi đọc nghiêm túc chăm chú. Không hay chút nào. Cảnh sắc nơi chiến trường được viết trong truyện chẳng có chút khác biệt gì với cảnh sắc tôi tưởng tượng ra khi chống cằm suy tư nơi cái bàn viết ở nhà mình cả. Không có một chút cảm động mới mẻ nào hết. Mặc dù bản thảo viết “tôi vô cùng cảm kích” thế nhưng cái nỗi cảm kích đó được nhồi nhét bởi thứ văn học phổ thông ra vẻ công phu cảm kích theo kiểu tiểu thuyết mà nói ngắn gọn lại thì đầy rẫy những tính chất nông cạn, hời hợt với những dòng tâm đắc tùy tiện mà thôi. Tôi chỉ cần nghĩ đến nỗi vất vả của những binh sĩ máu mồ hôi trộn với bùn lầy là đã thân thể đã dâng trào cảm xúc, kính ngưỡng đến mức không thể nói nên lời rồi. Nhưng bản thân cái từ “kính ngưỡng” nghe trắng trợn quá. Không thể nói được. Không tìm được từ gì để diễn tả. Tôi chỉ ngồi xổm xuống, dùng tay viết lên trên cát rồi lại xóa đi. Cứ miệt mài như vậy. Không thể nói được, không thể viết được gì.

Tuy nhiên trong nghệ thuật thì khác. Mọi người có thể cất tiếng cười trước một nghệ sĩ đường phố già, răng móm mém, lưng còng hơi thở khò khè mà ngay cả mình cũng không nỡ nhìn đang ra sức kéo đàn violon nơi góc đường nhỏ tối tăm kia không? Tôi thấy mình cũng giống như thế. Ngay từ đầu tôi đã là kẻ thảm bại trong xã hội này rồi. Thế nhưng tôi vẫn còn nghệ thuật. Nói đến chủ đề này thật ra tôi cảm thấy vô cùng lúng túng và cũng chẳng đủ năng lực để bàn đến nhưng tôi định chuyên tâm tìm hiểu cho thật rốt ráo rõ ràng. Tôi nghĩ vậy cũng đủ cho sự nghiệp cả một đời nam nhi chi chí. Ngay cả nghệ sĩ đường phố thì cũng có vương quốc của riêng mình. Tôi đọc mấy truyện ngắn mà những người lính kia viết đều cảm thấy không đạt. Có lẽ vì tôi đã kỳ vọng vào xấp bản thảo kia quá nhiều. Thế nhưng tôi nghĩ những truyện ngắn đó đáng ra phải có một tư tưởng hay mối cảm động hoàn toàn tươi mới mà đối với người xếp hạng ba vì sức khỏe kém không thể ra tiền tuyến như mình không thể nào cảm nhận hay nghĩ ra được mới phải chứ. Phải có điều gì đó rộng lớn mênh mang cùng khắp mới phải. Tác phẩm phải tràn đầy sự cảm động và nỗi kinh hoàng vĩnh viễn như thể nhìn thấy thần linh trước mặt mình chứ. Tôi muốn được biết những điều như vậy. Không cần phải làm cử chỉ điệu bộ gì gớm ghê. Một chút thôi cũng được mà. Chỉ cần viết ra một chút cảm kích và lời nguyện cầu chân thật với mình gửi vào một đóa hoa cũng tốt thôi. Chắc chắn là phải có chứ. Tất cả những sự tươi mới đều nằm nơi đó cả. Nói nghe có vẻ kệch cỡm khoa trương nhưng tôi hiểu được điều đó vì có chút trực giác của người làm nghệ thuật. Tuy nhiên tôi không thể nói cụ thể ra được. Vì tôi không biết gì về cảnh chiến trường mà. Tôi cũng không phải là loại người huênh hoang viết tùy tiện những cảm xúc đời thường mà mình chưa từng trải như thể đúng rồi đâu. Mà, không phải, có lẽ là vì tôi bất tài. Nhưng tôi tuyệt đối không thể viết ra được điều gì mà mình chưa từng đích thân trải nghiệm. Ngoài việc nắm chắc lấy cái thế giới nhỏ bé mà mình tin tưởng thì tôi chẳng thể làm gì khác. Tôi biết thân biết phận của mình. Chuyện nơi chiến trường thì đành phải nhờ tất cả vào những người lính nơi chiến trường mà thôi.

Tôi đọc kỹ những bản thảo của những người lính. Tiếc là không hay. Tác phẩm không nói ra được những điều mình tận mắt chứng kiến mà lại kể chuyện chiến tranh bằng những từ ngữ của thứ văn học xấu xa mình được đọc. Người không biết gì chiến tranh lại đi kể chuyện chiến tranh rồi nhận được những lời tán tụng tung hô ngu ngốc từ những người nơi bản quốc thế rồi kiểu cách đó được sao chép đến cả những người lính vốn tường tận về chiến tranh. Đã không biết về chiến tranh thì đừng viết chứ. Đừng làm những chuyện dư thừa không đâu như vậy nữa. Chẳng phải điều đó ngược lại càng gây thêm phiền phức hay sao? Tôi đọc tiểu thuyết của những người lính, cảm thấy căm ghét những “kẻ viết về chiến tranh bằng cách nhìn chiến tranh qua kính viễn vọng” đến mức không tài nào chịu nổi. Chính thứ văn chương hay ho của các người đã phá tan đi “cặp mắt nhìn sự vật” của những người lính thuần khiết đấy. Đó chỉ là ngôn từ của những kẻ làm văn học nơi xứ Nhật Bản này nói ra thôi chứ đối với những người lính trải nghiệm trực tiếp sinh tử nơi chiến trường, những lời đó chẳng nói lên được gì cả. Chẳng phải họ gắng sức viết dưới ngọn nến khi đã có chút thư thả lúc mệt mỏi rã rời hay sao? Chỉ cần nghĩ như thế là thấy rõ rằng đâu có chỗ nào để mà triển khai mỹ học của mình hay suy ngẫm về nghệ thuật đâu. Bức thư đính kèm xấp bản thảo còn ghi thêm rằng ngày mai sinh mệnh tôi thế nào còn không biết nên nhờ cả vào anh cả đấy nữa chứ. Thực tình đối với xấp bản thảo này tôi đã có chút công phu sắp xếp lại (thực ra thì tôi đâu có tư cách gì mà nói vậy). Tôi nói với vợ mình viết lại xấp bản thảo với những con chữ trên xấp giấy nhàu nhĩ sang giấy bản thảo chuyên dụng Nhật Bản bốn trăm chữ một tờ. Thành ra có truyện dài nhất chiếm đến ba mươi mấy tờ bản thảo. Rồi tôi gửi đi những nhà xuất bản tạp chí khác nhau. Tôi viết thêm vài dòng gửi gắm là “Tuy đây là những ngôn từ bộc trực nhưng có vẻ đây là một tác phẩm hay nên có gì nhờ anh giúp đỡ. Một kẻ bất tài vô đức như tôi lại mang bản thảo của những người lính đến gửi chỗ ông thì có vẻ đường đột nhưng tôi thấy những tình cảm chân thành của con người là một điều khác biệt với bản thân tôi. Đối với tôi…”. Khi viết như vậy tôi thấy khựng lại, không xong rồi. Gì mà “Đối với tôi…” cơ chứ? Dối trá cũng vừa phải thôi. Mày bây giờ là thứ rác rưởi của loài người đấy. Có biết không hả?

Tôi biết điều đó chứ. Biết đến mức chán chường. Thế nên tôi mới khựng lại giữa chừng đấy thôi. Năm năm trước tôi đã có thời gian bị loạn thần kinh. Đến khi khỏi bệnh được xuất viện, tôi đứng một mình thờ thẫn trên cánh đồng bị thiêu cháy. Chẳng còn lại một chút gì. Đúng nghĩa là chỉ còn một manh áo mặc trên ngưởi thôi. Còn lại toàn đồ đi vay mượn không trả. Hoa mướp nở bên căn nhà bị thiêu cháy trong cơn sấm chớp. Tôi hiểu nỗi đau đớn trong câu thơ của người xưa kia đến mức thiêu đốt cả lồng ngực. Tôi đã bị tước đoạt cả tư cách làm người.

Bây giờ tôi không thể viết thổi phồng sự thật nữa. Tôi nghĩ vì tôi lưu ý cẩn thận điều này nên độc giả mới tin tưởng tôi. Cái lối khoa trương kênh kiệu tự mãn là điều tôi căm ghét nhất trên đời. Người ta hoàn toàn chẳng xem tôi ra gì cả. Cho dù tôi nói gì đi nữa, người ta cũng chỉ nhìn tôi với ánh mắt kỳ lạ, hay lén nhìn mặt tôi rồi bỏ đi. Những điều thêu dệt hay những bức tranh biếm họa về tôi giống như những nụ cười chế giễu tinh quái về tôi lan truyền không ngừng nghỉ vậy mà tôi chẳng biết chút gì, cứ đi ngáo ngơ ngoài phố. Trong khoảng một hai năm sau, dần dần thằng tôi ngu độn cũng đã từ từ hiểu được chân tướng. Theo như đồn đại của người đời thì tôi đã hoàn toàn là một kẻ cuồng. Hơn nữa còn là cuồng trí từ lúc mới sinh ra. Từ sau khi biết được điều đó, tôi trở nên câm lặng. Không muốn gặp ai cũng không thiết nói gì nữa. Cho dù bị người ta nói gì đi nữa, tôi cũng chỉ mỉm cười cho qua.

Tôi đã trở nên dịu dàng và bao dung hơn.

Từ đó đến giờ đã năm năm trôi qua. Dường như người ta vẫn còn nghĩ tôi là kẻ bán cuồng, dở hơi thì phải. Có những người dù chưa từng gặp tôi lần nào cả nhưng chỉ cần nghe thấy tên tôi hay những đồn đại liên quan đến tôi thôi mà lỡ chạm mặt tôi ở nơi nào đó là như thể nhìn thấy thứ gì gớm ghiếc khó chịu lắm, rồi đảo mắt nhìn tôi với ánh mắt vô lễ đến mức không thể tả thành lời. Tôi biết rõ hết. Có lần tôi đứng trong nhà vệ sinh còn nghe ngay sau mình một giọng nói lớn vọng đến tai tôi  “Chẳng phải cái thằng cha đó là Dazai điên khùng hay sao?” nữa. Mỗi lần như thế tôi lại có một cảm giác vô cùng kỳ lạ. Các người không nhận ra là tôi đã chết lâu rồi à? Chỉ có chút linh hồn là còn sống theo cách nào đó thôi.

Tôi bây giờ không còn là con người nữa. Nghệ thuật gia đúng là một loại sinh vật kỳ quái. Luôn nghĩ mình mang vác cái xác thân đã chết này đến sáu mươi tuổi thì sẽ trở thành một đại tác gia. Tìm kiếm bí mật trong những trang văn mà xác chết đó viết chỉ là vô ích. Cho dù cố gắng bắt chước văn chương của một vong hồn đã chết thì cũng vô vọng mà thôi. Nên bỏ đi là hơn. Dường như có người bạn đang thì thầm vào thằng tôi đang mỉm cười này là “Dazai ngu độn ơi” vậy. Chỉ có thể nói ra từ ngu độn mà thôi sau đó không còn nói gì được nữa. Chỉ cần tin điều này thôi. “Tôi sẽ không phản bội cậu đâu mà”.

Tôi đã đánh mất đi tự ngã của mình. Rồi sau đó thì không còn muốn nói gì nữa. À, còn có thể nói thêm một điều nữa. Kẻ nào không tin tôi là thằng ngu.

Lại nói về chuyện bản thảo của những người lính. Tôi kìm nén sự xấu hổ mà mang gửi gắm cho biên tập viên tạp chí. Thỉnh thoảng có truyện cũng được đăng. Rồi khi nhìn thấy mục giới thiệu quảng cáo tạp chí đó trên một tờ báo lớn, tên của người lính đó đứng ngang hàng với những tiểu thuyết gia nổi tiếng, tôi vui mừng gấp đôi so với khi mẩu truyện nhỏ của tôi được đăng trên tạp chí văn nghệ sáu năm về trước. Thật tạ ơn đời. Tôi vội vàng chạy đến cảm tạ biên tập viên không ngớt lời rồi cắt bài quảng cáo đó gửi ra chiến trường. Thấy mình thật có ích. Đây là sự cống hiến hết mình cho đất nước của tôi rồi. Tôi cũng nhận được bức thư vui mừng cảm tạ từ chiến trường gửi về nữa. Một thời gian sau tôi còn nhận được thêm bức thư cảm tạ của người vợ nơi quê nhà của người lính kia gửi đến. Đúng là một cống hiến nơi hậu phương còn gì nữa. Thế nào? Tôi vẫn là gã suy đồi à? Tôi vẫn còn là gã xấu xa sao?

Tuy nhiên tôi không nói cho ai biết chuyện này cả. Đây là chuyện đàn bà con trẻ nên làm chẳng đáng gì để mà khoe khoang. Tôi chỉ là một kẻ ngốc, viết thứ tiểu thuyết vui chơi, hững hờ bên dòng thời cuộc. Tôi biết thân biết phận mình. Tôi chỉ là một gã thị dân bé nhỏ. Chẳng thể nào đưa ra hiệu lệnh cho thời cuộc gì được cả đâu. Cho nên thỉnh thoảng chỉ rời khỏi nhà, lang thang trong cô độc, đá qua đá lại mấy viên đá trên đường thôi. Có lẽ tôi bệnh thật rồi? Có lẽ tôi đã hiểu sai về tiểu thuyết rồi cũng nên. Cho dù tôi thử phủ định điều đó đi nữa thì lại cũng chẳng có chút tự tin nào. Không tìm ra lời nào xác đáng cả. Cho dù cảm thấy lời sắp trào ra khỏi cổ họng rồi mà sao vẫn không hiểu. Tôi là một kẻ phiêu giạt, cứ mặc cho con sóng đẩy đưa và luôn luôn cô độc. Được rồi, tôi ráng sức nhảy qua vũng nước và cảm thấy nhẹ nhõm. Vũng nước phản chiếu trời thu trong xanh và mây trắng lững lờ trôi. Không hiểu sao tôi lại cảm thấy nhẹn nhõm một cách u sầu. Tôi lần bước trở về nhà.

Khi tôi về đến nhà thì thấy người của tạp chí đang chờ đợi. Dạo gần đây thỉnh thoảng cũng có nhân viên tòa soạn báo hay tạp chí ghé thăm hỏi han tình hình. Căn nhà tồi tàn của tôi nằm sâu khuất nẻo ở Mikata, giữa vùng vườn tược thế mà cậu ta bỏ gần cả ngày trời đi quanh tìm kiếm mà ghé thăm, vừa lau mồ hôi mồ kê chảy ròng ròng vừa nói trời, nhà anh ở xa thật đấy nhỉ. Vì tôi chỉ là một tác giả vô danh, không ăn khách gì cả nên mỗi lần như thế tôi đều sợ hãi khó xử.

“Bệnh tình của anh đã đỡ rồi chứ?”. Thế nào tôi cũng được hỏi như thế ngay câu đầu tiên. Vì đã quen nên tôi cứ thuận miệng trả lời.

“Tốt rồi, còn khỏe hơn cả người thường nữa đấy chứ”.

“Hiện giờ tình trạng của anh ra sao?”

“Chuyện của năm năm trước đấy mà”, tôi trả lời cho qua. Tôi không muốn nói là mình đã bị điên khùng.

“Theo như lời đồn đại” thì, anh bắt đầu nói thẳng “có vẻ tình hình của anh rất tệ đấy”.

“Tôi cứ uống rượu là bệnh tự khỏi thôi”.

“Thế thì thật kỳ lạ nhỉ?”

“Tại sao lại thế nhỉ?”, cả chủ và khách đều lấy làm lạ lùng. “Có lẽ là bệnh không khỏi nhưng tôi quyết định là nó đã khỏi rồi. Chuyện này vốn dĩ không có kết thúc mà”.

“Anh uống rượu nhiều lắm à?”

“Thì cũng uống như người ta thôi mà”.

Chỉ đối đáp đến như thế thì còn ổn thỏa được nhưng càng về sau thì càng lạc lối. Câu chuyện dần trở nên không đầu không đuôi và vô cùng lộn xộn.

“Anh nghĩ như thế nào về mấy truyện ngắn của người đó?”. Khi nghe hỏi vậy thì tôi hoàn toàn mất phương hướng và hoang mang. Tôi không tìm ra từ nào để nói ra cho thật rõ ràng.

“À, thực ra tôi vẫn chưa đọc kỹ nhưng chắc cũng có điểm hay chứ nhỉ? Nếu mà đọc được thì cũng thấy khá là cảm động. Thậm chí tôi còn cảm thấy ngạc nhiên khi thấy mọi người ai cũng có thể viết văn trơn tru được như thế nữa. Hoàn toàn không có ý gì mỉa mai ở đây đâu. Tại vì có có một sức khỏe thể chất sung sức mà. Thực sự thì họ đều viết rành mạch không vấp váp gì cả”.

“Thế anh đã đọc mấy truyện ngắn của anh A chưa?”

“À, vì có thấy đăng trên tạp chí nên tôi cũng có đọc”.

“Anh thấy có tệ lắm không?”

“À, bản thân tôi thì thấy thú vị. Chẳng phải còn có nhiều tác phẩm khác tệ hơn nữa hay sao chứ? Tôi không cố ý phê phán chỉ trích gì đâu. Như thế nào à? Tại vì tôi không biết rõ mà?”. Câu trả lời của tôi không phải kiểu mập mờ nước đôi của kẻ giảo hoạt mà đúng ra thì đó là sự mập mờ xuất phát từ một tâm hồn thấp kém. Tôi cảm thấy ai cũng giỏi giang hơn tôi hết cả. Khi hiểu ra được là ai cũng đang cố gắng hết sức tận tâm tận lực để sống còn khiến tôi không còn có thể nói gì hết.

“Anh có biết ông B không?”

“À, có biết”.

“Lần này tôi định thúc giục ông ấy viết một quyển tiểu thuyết mới”.

“A, điều đó nghe hay đấy. Ông B là một người rất tốt. Chắc chắn ông ta sẽ viết cho mà xem. Tôi nghĩ chắc chắn ông sẽ viết ra một tác phẩm tuyệt diệu. Ông B trước đây cũng đã từng giúp đỡ tôi nhiều mà”. Tôi có lần đã mượn tiền ông ta.

“Thế còn anh thì sao? Có viết được gì không?”

“Tôi thì không được rồi. Hoàn toàn bế tắc. Toàn viết ra những điều tệ hại. Có lần viết thử truyện yêu đương mà thành ra giọng điệu diễn thuyết đến nỗi tôi phát chát và tự cười mình luôn”.

“Làm gì có chuyện đó chứ? Cho đến bây giờ chẳng phải anh là ngọn cờ đầu của thế hệ trẻ hay sao?”

“Đừng đùa như vậy chứ. Dạo này tôi như tiến sĩ Faust vậy. Giờ đây tôi đã hiểu rõ những lời lẩm bẩm trong thư phòng của ông tiến sĩ già đó rồi. Mình đã quá đỗi già nua. Nghe nói Napoleon mới ngoài ba mươi tuổi đã than thở “mảnh đời tàn” của ta mà. Biết được điều đó khiến tôi thấy quá đỗi thú vị”.

“Không lẽ anh cảm thấy mình đang sống mảnh đời tàn dư sinh hay sao?”

“Tôi đâu phải là Napoleon, quả thực tôi quá khác biệt với ông ta. Nhưng đôi lúc bất chợt tôi cảm thấy mình đang sống những năm tháng còn lại của đời tàn tạ. Tôi cũng chẳng đọc vạn quyển sách như tiến sĩ Faust dù đôi lúc tôi cũng cảm giác trống rỗng hư vô giống như ông ta vậy”. Chà, mình lại nói năng loạn xạ hết cả rồi.

“Thực ra cảm thấy chuyện đó cũng đành phải chịu thôi. Xin thất lễ chứ anh năm nay bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?”

“Ba mươi mốt rồi”.

“Vậy anh còn trẻ hơn anh C một tuổi. Mà anh C lúc nào tôi gặp cũng thấy khỏe lắm. Bình luận văn học nói năng rành mạch lưu loát ghê. Quả nhiên anh ta có cặp mắt rất tinh đời”.

“Đúng vậy, anh C vốn là tiền bối ở trường cấp ba ngày xưa tôi học. Cặp mắt anh ấy lúc nào cũng sáng ngời nhiệt tình. Từ bây giờ chắc anh ta sẽ dồn hết tâm huyết cho văn chương đấy. Tôi rất thích anh ta”. Năm năm trước đây, tôi đã gây cho anh C phiền phức không biết bao nhiêu mà kể.

“Còn với riêng anh”, người khách có vẻ tức giận vì những lời đối đáp mập mờ của tôi liền đổi giọng điệu mà hỏi. “Thường người ta viết tiểu thuyết vì một tín điều nào đó. Ví dụ như chủ nghĩa nhân văn, tình yêu, hay chính nghĩa công bằng xã hội, cái đẹp…đại khái là thế, Còn anh từ khi xuất hiện trên văn đàn đến nay và từ bây giờ trở đi nữa, anh có một tín điều nào hay không?”

“Có chứ, đó là sự hối hận”. Lần này giống như nhịp điệu hô ứng tương đồng, tôi có thể cất giọng trả lời ngay lập tức. “Văn học mà không có sự hối hận thì chẳng là gì cả. Hối hận, tự thú và phản tỉnh đó là những thứ chắc chắn được sinh ra từ nền văn học cận đại, không từ tinh thần cận đại đấy. Vì thế cho nên…”, tự nhiên tôi lại ngắc ngứ.

“Quả nhiên là vậy”, vị khách cũng liền hưởng ứng. “Đúng là văn đàn đang thiếu trào lưu này. Vậy chắc là anh thích những tác giả như Kajii Motojirou lắm nhỉ?”

“Dạo này không hiểu sao tôi càng lúc càng trở nên hoài niệm. Có lẽ tôi trở nên thủ cựu, cũ kỹ mất rồi. Chẳng thấy có thứ gì có thể khích lệ động viên tâm hồn mình cả. Mà đừng nói là động viên, nó còn làm tôi xấu hổ vì cảm thấy mình nhơ nhớp nữa. Tôi không hiểu rõ ý nghĩa của từ “nghiệp báo” cho lắm nhưng tôi cảm thấy điều đó gần đúng với bản thân mình. Đứa con tội lỗi rồi thì mục sư, không biết nói thế nào cho phải. Tôi đã làm nhiều điều ác đức, tôi ý thức mình là một tên dơ bẩn. Vì không thể nào làm tiêu tan cái ý thức đó nên tôi lúc nào cũng đê tiện. Dù tôi lúc nào cũng im lặng khổ sở nhưng mà…”. Tôi định nói tiếp nhưng lại ngắc ngứ nữa. Tôi định nói về Kinh Thánh. Tôi định nói Kinh Thánh đã cứu vớt tôi nhưng vì xấu hổ quá nên không thể nói. Sự sống chẳng phải quý trọng hơn đồ ăn sao, thân thể chẳng quý trọng hơn quần áo sao? Hãy nhìn chim bay trên trời, chẳng có gieo gặp cũng chẳng thâu trữ vào kho tàng. Hãy xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào. Chẳng làm khó nhọc cũng không kéo chỉ. Nhưng dẫu vua Salomon sang trọng đến đâu cũng không được mặc áo tốt như hoa nào trong giống đó. Loài cỏ ngoài đồng nay còn sống, mai bỏ vào lò mà Đức Chúa Trời còn cho nó mặc đẹp đẽ thay huống chi là các người. Các ngươi chẳng phải quý trọng hơn loài chim sao…Những lời khích lệ của Thánh Kinh đã có lần cho tôi thêm nghị lực sống. Tuy nhiên bây giờ tôi ngại ngùng xấu hổ quá nên không thể nói ra được. Cái gọi là niềm tin mà mình giữ trong im lặng thực sự tôi có không nhỉ. Ngay cả từ “niềm tin” tôi cũng thấy mình khó có thể nói ra được rõ ràng.

Sau đó chúng tôi lan man sang nhiều chuyện khác nhưng chắc vị khách có vẻ thất vọng vô cùng vì cách nói mơ mơ hồ hồ của tôi nên sửa soạn ra về. Tôi cảm thấy vô cùng tội nghiệp cho anh ta. Vì không nói được điều gì rành mạch rõ ràng cả nên cứ lan man chuyện này chuyện kia cuối cùng chẳng nắm bắt được gì hết cả. Tôi cứ thờ thẫn ngu độn mà nghệch mặt ra. Chắc chắn anh ta nghĩ rằng từ giờ trở đi tôi sẽ có thể phát huy tài năng nên đến xem thử tình hình ra sao đây mà. Tôi hiểu rõ sự tử tế của anh ta nhưng chính vì vậy mà tôi càng khổ sở không cùng. Sau khi vị khách về rồi, tôi cứ ngồi thẫn thờ trước bàn làm việc, nhìn cánh đồng Musashino ngả bóng chiều loang. Thế nhưng tâm tư không khởi một niềm cảm khái mới mẻ nào mà chỉ cảm thấy nỗi sầu cô đơn vô hạn.

Khi con đi trên đường với kẻ tố cáo mình, hãy nhanh chóng hòa giải với người ấy; nếu không, người ấy sẽ nộp con trước quan tòa, quan tòa giao cho cai ngục và con sẽ bị bỏ tù. Thật, ta bảo con, con sẽ không bao giờ ra khỏi tù được cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng. Tôi bất chợt nghĩ có lẽ nào địa ngục lại một lần nữa đến tìm mình chăng? Cảm giác bất an như nghe thấy tiếng ầm ầm rung chuyển từ đáy sâu đáng sợ vọng đến. Có lẽ chỉ có mình tôi như vậy chăng?

“Này, đưa anh chút tiền đi em. Nhà mình còn bao nhiêu thế?”

“À, còn khoảng bốn năm yên gì đó”.

“Anh xài có được không?”

“Được nhưng nhớ để lại cho em chút chút”.

“Anh hiểu rồi. Khoảng chín giờ tối anh về nhé”.

Tôi cầm cái ví vợ đưa cho rồi rời khỏi nhà. Trời đã hoàng hôn. Sương mù lẩn khuất giăng mờ lối đi.

Tôi đến quán sushi gần nhà ga Mitaka. Mang rượu ra đây. Giọng nói sao mà sa đọa ghê gớm. Mang rượu ra đây. Một cung cách cũ mèm. Không biết tôi đã lặp lại câu này mấy trăm mấy ngàn lần rồi nhỉ? Những lời bẩn thỉu ngu ngốc. Nếu bây giờ có gã thanh niên nào than vãn khổ sở vì thời thế, làm ra vẻ nghiêm túc đắc ý uống rượu say quên đời, chắc chắn tôi sẽ đấm cho gã một phát. Đấm không chần chừ do dự. Nhưng tôi bây giờ có khác gì gã thanh niên đó đâu? Chẳng phải như nhau ư? Chỉ khác biệt về tuổi tác mà điều đó lại càng làm mình bẩn thỉu hơn thôi. Cứ vênh váo đắc ý mãi vậy.

Tôi uống rượu với vẻ mặt vô cùng nghiêm túc. Cho đến giờ tôi đã uống mấy ngàn mấy vạn thăng rồi nhỉ. Tôi vừa cảm thấy căm ghét vừa tiếp tục uống. Tôi chưa từng nghĩ rượu ngon lành chỗ nào. Thứ đắng nghét đó tôi không hề muốn uống. Tôi muốn từ bỏ. Tôi nghĩ uống rượu là một loại tội lỗi. Chắc chắn là tội lỗi. Thế nhưng rượu đã cứu vớt đời tôi. Tôi không bao giờ quên điều đó. Có vẻ vì tôi là một khối tội lỗi nên thích hợp uống rượu để dùng độc trị độc chăng? Rượu giúp tôi khỏi phát điên, giúp tôi tránh khỏi việc tự sát. Tôi là một người yếu đuối ti tiện đến mức nếu không uống rượu để lừa gạt cảm xúc của mình thì không thể nói chuyện với bạn bè đàng hoàng được.

Tôi đã chếnh choáng say. Cô phục vụ ở quán sushi năm nay hai mươi bảy tuổi. Nghe nói cô đã lập gia đình nhưng ly hôn rồi đến làm việc ở đây.

“Mình à”, cô nói và ghé sát chỗ bàn tôi ngồi. Vẻ mặt vô cùng nghiêm túc. “Chuyện này nghe hơi kỳ lạ một chút nhưng mà”, cô xoay người nhìn về chỗ quầy tính tiền rồi hạ giọng thì thầm. “Không biết trong số bạn bè quen biết của mình có thể lấy một người như em không nhỉ?”

Tôi nhìn chăm chú vào mặt cô ta. Đúng là cô phục vụ rất nghiêm túc, không cười một chút nào. Ngay từ đầu cô đã là người đàng hoàng nghiêm túc nên chắc không có vẻ gì là bỡn cợt đùa giỡn tôi đâu.

“Chà, chuyện này”, tôi cũng không thể không nghiêm túc. “Không phải là không có đâu nhưng sao lại nhờ tôi chuyện này cơ chứ?”

“À, em định sẽ nhờ hết những người khách dễ tính đến quán này giúp em luôn”.

“Kỳ lạ thế nhỉ?”, tôi khẽ mỉm cười.

Cô phục vụ cũng nhếch một bên má mà cười.

“Càng ngày em càng có tuổi. Mà lại truân chuyên một lần đò rồi nên người già chút cũng không sao hết. Em cũng chẳng mong cầu được chỗ tốt đẹp như người ta đâu”.

“Chà ba chuyện này thì tôi cũng không biết gì”.

“Cũng không vội vàng gì đâu mà. Mình cứ lưu tâm giúp em là được. À, mà em cũng có danh thiếp đây”. Cô ta nói rồi vội vàng lấy ra cái danh thiếp nhỏ giấu trong ống tay áo. “Mặt sau danh thiếp em có ghi địa chỉ chỗ này cho nên nếu tìm được người thích hợp mình vui lòng gửi danh thiếp hay gì đến đây báo em biết trước nhé. Rất xin lỗi đã làm phiền mình nhiều. Cho dù người ta có mấy đứa con riêng em cũng không phiền hà gì đâu”.

Tôi im lặng cầm lấy tấm danh thiếp, nhét vào tay áo.

“Để tôi tìm thử xem nhưng tôi không thể hứa trước gì đâu. Phiền cô tính tiền giùm nhé”.

Tôi rời quán sushi, trên đường quay về nhà cứ cảm thấy vô cùng kỳ lạ. Tôi nghĩ mình đã nhìn thấy một phần của xu hướng, trào lưu hiện đại. Một thế kỷ nghiêm túc đến mức trắng trợn. Chúng ta không thể tác động vào được chút gì. Về đến nhà tôi lại trở nên câm nín. Tôi im lặng đưa cái ví đã vơi bớt mấy phần cho vợ mình, định nói điều gì đó nhưng lại thôi. Tôi ăn món cơm trà rồi đọc báo buổi chiều. Tàu vẫn tiếp tục chạy. Bây giờ qua núi, bây giờ qua vịnh, qua chiếc cầu sắt bắt ngang… Bài ca của người thiếu nữ sao mà buồn thảm.

“Này than còn đủ dùng không em. Anh nghe nói là thiếu hụt ghê lắm”.

“Không sao đâu anh. Báo đài làm quá lên thôi. Đến lúc đó thì tùy hình mà xoay xở vậy”.

“Đúng nhỉ. Em trải mền ra giùm anh đi. Tối nay anh ngừng viết một đêm để nghỉ ngơi”.

Hơi rượu đã tan. Mỗi khi tỉnh rượu tôi lại trằn trọc khó ngủ. Giả vờ ngủ ngáy lớn tiếng một chút rồi tôi dậy đọc tờ báo phát hành buổi chiều. Tự nhiên tôi thấy tờ báo hiện đầy những khuôn mặt cười giả lả đê tiện rồi thoáng chốc lại biến mất đi. Tôi nghĩ thầm tất cả đều đê tiện thật. Tất cả đều không có chút tự tin nào. Tôi ném tờ báo đi, dùng hai lòng tay áp lên tròng mắt một lúc lâu. Tôi tin rằng làm như vậy mình sẽ nhanh chóng buồn ngủ. Tôi nhớ lại vũng nước sáng nay. Chừng nào vũng nước kia còn thì mình cũng tiếp tục… tôi nghĩ. Tôi cố gắng bắt mình phải nghĩ như thế. Quả nhiên tôi là một nghệ sĩ đường phố. Cho dù khổ sở đến mấy thì tôi cũng chỉ còn cách tiếp tục chơi chiếc đàn violon của riêng mà thôi. Đường hướng của con tàu đi cứ giao cho những nhà chí sĩ vậy. Hai từ “chờ đợi” chợt hiện ra sáng ngời trên trán của tôi. Chờ đợi điều gì tôi cũng chẳng biết nữa. Nhưng đó là một từ cao quý. Loài chim hải âu câm nín kia cứ lang thang quanh quẩn ngoài khơi nghĩ như thế nhưng vẫn tiếp tục im lặng mà luẩn quẩn loanh quanh.

Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ

Đọc bài viết

Sáng tác

Thơ: Lau nước mắt và lại đi… (Lavender So Blue)

Published

on

Em có biết không?
Tự do từ đâu mà có
Câu chuyện từ đâu mà được kể
Những bài báo vui buồn từ đâu mà viết ra
Em có biết không?
Niềm tin từ đâu mà có
Mảnh đất này còn bao sự diệu kỳ
Đâu phải chỉ có những xót xa
Lấy trời làm nhà
Đất làm chăn ấm
Gió gội mái đầu xanh và biển bạc tắm ướt đẫm da vàng
Chốn thị phi
Người cô độc than khóc
Kẻ lỡ làng đi tìm tri kỷ
Còn ta chỉ là người hay khóc
Lau nước mắt và lại đi…

Lavender So Blue

Đọc bài viết

Cafe sáng