Trích đăng

Những nhục vinh khi đọc cuốn sách đầu

Tuyển tập Tùy bút – Hồi ký – Giai thoại trên báo xuân Sài Gòn xưa tập hợp gần năm mươi bài viết đặc sắc được tuyển chọn từ các giai phẩm xuân xuất bản tại sài Gòn từ thập niên 1950 đến giữa thập niên 1970.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Trích từ: Tùy bút – Hồi ký – Giai thoại trên báo xuân Sài Gòn xưa

Tác giả: Phạm Công Luận

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Xuất bản: Tháng 1.2020

Giới thiệu sách:

Tuyển tập Tùy bút – Hồi ký – Giai thoại trên báo xuân Sài Gòn xưa tập hợp gần năm mươi bài viết đặc sắc được tuyển chọn từ các giai phẩm xuân xuất bản tại sài Gòn từ thập niên 1950 đến giữa thập niên 1970. Tất cả được viết lại từ những câu chuyện có thực, có thể được thêm chút chi tiết ngẫu hứng tùy theo trí nhớ người kể nhưng không phải là những sáng tác mang tính hư cấu.

Đó là chuyện nhà cách mạng Tôn Văn nghe hát cô đầu tao nhã ở tiệm bà Đốc Sao nổi tiếng Hà Nội. Chuyện hai phụ nữ quý tộc Mỹ lẻn vào sân triều đình Huế để xem lễ mùng Một Tết ở điện Thái Hòa vốn chỉ chấp nhận sự hiện diện của nam giới.

Đó là những câu chuyện của giới báo chí một thời đình đám ở Sài Gòn. Câu chuyện cảm động lỉên quan đến nhà văn, nhà phóng sự yểu mệnh Vũ Trọng Phụng. Hay cảnh Tết trong tù thời chống Pháp hấp dẫn lạ lùng.

Đó còn là chuyện sân khấu thời thạnh trị với lời kể của người trong cuộc như nghệ sĩ Bảy Nhiêu, nghệ sĩ Năm Châu, soạn giả Duy Lân, nghệ sĩ Kim Cương, hoặc nghệ sĩ Phùng Há.

Thưởng thức các bài viết trong tuyển tập, không chỉ giúp độc giả hưỏng lợi như được đọc lại gần bốn mươi tờ báo xuân trải dàỉ qua gần ba mươi cái Tết trên đất Sài Gòn xưa, mà còn có cơ hội chiêu niệm về con người, xă hội, phong tục Việt Nam thời trước.

*

NHỮNG NHỤC VINH KHI ĐỌC CUỐN SÁCH ĐẦU

Hồ Hữu Tường

ÁNH SÁNG xuân Canh Dần 1950

Tôi sớm biết đọc chữ quốc ngữ, không phải nhờ ham học, mà nhờ ham ăn bánh. Ở một gia đình quê mùa, vừa đủ ăn, anh em tôi ít được dịp ăn bánh lạ. Hồi tôi lên năm anh cả tôi lớn hơn tôi chín tuổi được gởi đi học ở chợ, thỉnh thoảng về, đem nhiều thứ bánh ngon về đãi em. Trong trí tôi, đi học chỉ là đến một nơi đầy dẫy bánh ngon, ăn không hết, tha hồ đem cho em ăn nữa. Nên khi má tôi và chị ba tôi đẩy xuồng đưa anh tôi ra chợ học thì tôi khóc lóc đòi “đi học” cho được. Tại sao anh cả tôi lớn rồi không cưng nữa lại được tha hồ đi ăn bánh, còn tôi không được? Cha tôi thấy thằng nhỏ chướng như vậy bảo má tôi cho đi theo đến chợ đãi tôi một bụng bánh thì êm chớ gì!

Chợ Cái Răng lúc ấy còn leo heo, quê mùa lắm. Anh tôi ở nhà một ông thầy thuốc bắc, mà học thêm chữ nho với ông, cùng tập đọc chữ quốc ngữ với bà thầy. Hai vợ chồng không con. Khi thấy má tôi dắt anh tôi đến, lại có một thằng bé tí hon lóc cóc chạy theo, thì bà thương, hỏi chuyện, mới hay có thằng nhỏ ham “đi học” lạ như vậy. Sẵn dịp có người cắc chú gánh cà rem từ Cần Thơ vô bán, bà đãi cho tôi “học” một bữa, vừa ngọt, vừa béo, vừa thơm, mà nhứt là mát miệng. Ngon hơn các món bánh tôi được ăn từ hồi nào đến bây giờ. Rồi bà hỏi:

– “Học” có ngon không? Thôi ở ngoài nầy với thiếm mà “học” nghe!

Lẽ dĩ nhiên tôi ở lại là được bà thầy cưng lắm. Nhà tôi đông mà nghèo, nên tôi ít được chiều chuộng. Có buồn ngủ, thì cứ đi ngủ, chớ tôi đã có em rồi, các chị tôi lo dỗ em tôi, cần gì đến tôi nữa. Đến ở nhà bà thầy, thì tôi đã được dỗ ngủ, mà trưa bà cũng ép nằm trên võng cho bà đưa. Từ xưa đến giờ, tôi chưa biết nhõng nhẽo, nay nhờ dịp nầy mà tỏ ra rằng mình cũng có thể làm được việc ấy. Bà thầy ngồi đâu, thì tôi nhảy ngồi trong lòng, cho bà vuốt ve, nựng nịu. Và khi bà ngồi trên bộ ván mà dạy, cũng vậy nữa.

Học trò toàn là những anh lớn, quá tuổi nên xin vào trường công không được, đến đây học riêng cho biết đọc, biết viết thôi. Ngồi trong lòng bà thầy, nghe mãi thấy mãi cũng quen tai, quen mắt. Không biết má tôi lo làm mà quên tôi, hay là sau có người giữ, thì gởi luôn thể cho khỏi lo rớt ao té vũng. Mãn vụ gặt hái má tôi mới ra rước tôi về. Mấy anh lớn đã biết đọc rồi, mà tôi cũng đọc được.

Biết đọc, đối với tôi là một việc khổ hạnh hết sức. Xóm tôi rất xa trường, trừ một vài con nhà giàu có ra, tất cả đều mù chữ quốc ngữ. Thế mà có một thằng mới vừa năm tuổi lại biết đọc thì bà con quen lớn ai cũng muốn xem. Trong nhà chỉ có một cuốn truyện La Thông Tảo Bắc, tôi không nhớ là cuốn thứ mấy.

Người nào đến cũng bảo tôi lấy ra đọc thử. Mấy trang đầu thuật chuyện La Thông đến thành, ngoài bị vây, trong bị Tô Định Phương đóng cửa để mượn tay giặc giết. Đọc không hết trang thì tôi đã khóc tức tưởi, giận ghét sao có người ác như vậy. Đó là một dịp để cho ai nấy cười vì nước mắt tôi đã chảy nhiều quá, thấy lòa chữ, miệng cà hướt mãi không trôi mà cũng phải đọc cho ai nấy cười chơi. Tôi giận và ghét những người bà con này lắm, thấy mình bị họ hành phạt khổ sở như vầy, thì chẳng khác nào La Thông bị Tô Định Phương giày vò trong truyện.

Vài tháng sau, ông thầy chết, bà thầy dọn về Sài Gòn, tôi lại lóc cóc theo anh tôi, mỗi ngày lớn lần, chạy cả ba bốn cây số mà vào Cái Muồng đi học. Anh tôi lớn, ưa cờ bạc, ngày nào cũng lo lót tôi xu ăn bánh để tôi đừng méc, nên việc đi học với tôi vẫn còn ý nghĩa như cũ và đến trường chỉ là một nghi lễ phải có mà thôi: Và tôi cũng cầu đi như vậy cho êm tấm thân, vì ở nhà, hở ra là cha tôi bắt tôi đọc lớn lên truyện thơ đủ thứ mà cha tôi bắt đầu mua rất nhiều. Truyện nào, thơ nào cũng làm cho tôi khóc sướt mướt.

Nào Lục Vân Tiên đã mù rồi, mà thiên hạ còn bu lại gạt gẫm, bóc lột, hãm hại. Nào Tiết Nhơn Quý có tài và có lòng tốt mà bị yểm, bị hại luôn luôn. Mỗi lần đọc đến chỗ hoạn nạn thì tôi khóc tấm tức, nói nghe không rõ thì cha tôi rầy mắng; bảo cho ăn học uổng quá, đến đọc truyện cũng không nên thân. Vừa đau đớn trong lòng, vừa bị rầy, vừa giận ghét những người bày đặt những chuyện chỉ làm khổ thân tôi mà thôi, bị hành hạ khổ sở xác thịt, lẫn tâm hồn, làm sao tôi yêu văn chương được?

Trường Cái Muồng có hai lớp, học xong lớp nhứt rồi, tôi phải tái lại nữa. Và thấy bài vở cũ, chán quá, tôi ở nhà đi làm ruộng. Nói cho oai vậy, chớ công việc của tôi dễ lắm. Ngày nào cha và anh tôi đi phát, đi cào, thì gần trưa, tôi đem cơm cho cha tôi ăn, vì nơi ấy cách nhà đến gần ba cây số. Tôi lại đem vài đường câu giăng, một cái giỏ và một lon mồi. Trong bữa trưa ấy, thế nào tôi cũng được một giỏ cá, để cho cả nhà ăn bữa mai. Sống với thiên nhiên, lần lần tôi nhớ những vui thú của nhà trường, và bớt ghét truyện sách. Tuy vậy, cả năm tôi không đọc cái gì, bởi cha tôi không thèm bắt tôi đọc nữa, e rằng một chặp đây, tôi cảm động, khóc òa lên mà làm mất thú hứng đi. Nên chỉ có anh tôi đọc.

Rồi đến mùa khô, tôi phải ra ruộng mà coi chòi. Bởi ở xa nhà, nên lúa đập được bao nhiêu, thì đổ đống ngoài đồng, xong rồi chuyển về một thể. Tất nhiên là mỗi người có một cái chòi bên đống lúa để coi chừng. Thật lâu mới có dịp tát đìa. Tôi mới được đi bắt hôi. Thật lâu mới có đi đuổi chim, tôi mới được theo kiếm vài con về nướng ăn chơi. Còn dài đằng đằng, ở giữa ruộng minh mông mà coi chòi, thì buồn chán không thể nói.

Chòi tôi ở khít chòi chủ đất, có bà con xa và tôi gọi bằng cậu. Con trưởng của cậu đã lớn tuổi, nên đến coi sóc công việc làm, và có đem theo truyện sách đọc để giải buồn. Lúc đầu tôi không động đến làm gì. Sau lại tò mò lấy một quyển Tam Quốc đọc thử chơi, xem mình có quên chữ chăng. Đọc luôn một hơi, tôi lấy làm lạ, là sao truyện nầy không cố tình tả những người ác nghiệt hống hách, những kẻ ngay thẳng bị hoạn nạn, làm cho tôi phải khóc như các loại sách kia. Và đọc truyện, tôi thấy tôi sống những cảnh náo nhiệt hồi đó. Nếu không có những “đây nói về”, hoặc những “người đời sau có bài thơ rằng” thỉnh thoảng nhắc chừng, thì có lẽ tôi không biết là tôi đọc truyện, mà chánh tôi là một nhơn vật nào đó của truyện. Đó là lần thứ nhứt mà một thứ sách không làm cho tôi đau khổ lại làm cho tôi sung sướng.

Lúc ấy tôi có được đọc cả bộ và liên tiếp theo thứ tự trước sau đâu. Vừa “Thất cầm Mạch Hoạch”, lại đến “Đương Dương trường bản”, rồi sang “Thiệt chiến quần nho” hay “Quan Công phò nhị tẩu”… Đọc như thế, tức quá, tôi hỏi mượn đủ bộ. Thì mới hay rằng bộ Tam Quốc nầy cậu tôi cưng lắm không cho ai rờ tới.

Hồi trước anh hai (con cậu tôi) đã đọc rồi, nay muốn đọc lại, mới lén ăn cắp của cậu, đem ra chơi, rút được cuốn nào hay cuốn nấy, và mau mau trả lại để mất dấu, thế có tức không? Từ ấy tôi lập tâm làm sao mượn cho được bộ truyện xem chơi cho thỏa.

Nhưng đây không phải là chuyện dễ. Cậu tôi là một nhà giàu có, làm chức hội đồng oai nghi lắm. Đến mợ tôi cũng sợ không dám lên nhà trên thường. Còn hạng tá điền thì không dám đến gần, con nít lại sợ hãi. Chỉ chừa đứa cháu nội, nhỏ hơn tôi một tuổi và tôi thôi.

Tôi được cái may ấy, bởi vì tôi liều đến gần, để chờ dịp mượn truyện. Thế mà tôi không dám hở môi, mặc dầu ngày ngày đều đến đón cơ hội, lại mon men lên nhà trên thường, nơi chỗ chỉ mở rộng để tiếp khách sang, trong những hồi long trọng, mà ngày thường vợ con cũng ít dám léo tới. Cậu tôi thấy cử chỉ tôi lạ lạ, hơi nghi tôi muốn ăn cắp món gì quý báu, nên giả đò làm lơ, để bắt quả tang. Nhưng tôi chẳng ăn cắp món gì, chỉ thỉnh thoảng liếc vào tủ kiếng là nơi chứa đầy truyện sách…

Một hôm, cậu lấy làm lạ, kêu hỏi ngay. Tôi thú thật. Cậu cười nói:

– Truyện sách tao, tao không cho ai mượn hết. Mầy là con nít, đọc sao hiểu nổi. Nhưng tao để cho mầy đọc hết bộ Tam Quốc, tao hỏi một câu, trả lời thông minh thì cả tủ đó, tao cho phép mầy đọc hết.

Tôi nhận ngay. Liên tiếp mấy ngày tôi đọc từ đầu đến cuối.

Xong rồi cậu hỏi:

– Trong cả bộ truyện, mầy muốn làm người nào?

Tôi đáp:

– Tôi không muốn làm người nào hết.

– Sao vậy?

– Mấy người đáng khen chỉ được có một phần mà tôi muốn thôi, chưa đủ.

Cậu tôi trố mắt nhìn, nói:

– Mày nói sao chớ? Đâu mầy cắt nghĩa tao nghe.

Tôi mới nói:

– Triệu Tử Long được trung, Trương Phi được thành, Quan Công được dõng, Lưu Bị được nghĩa, Khổng Minh được trí, Tư Mã Đức Tháo được hiền. Nhưng có ai gồm đủ cả những cái ấy đâu mà muốn?

– Thằng nầy nói phách dữ he? Đâu mầy lại đây tao đo thử coi.

Rồi bắt tôi giăng tay, chàng hảng, đo bề cao, đo ngón tay, đo bàn chân, đủ thứ… Từ đó, cậu giữ lời hứa, cho tôi tự do đọc tủ sách… Cả nhà tôi có hay nào. Lúc trước, tôi ưa đi câu, mò mương bắt cá, hay làm ống thổi chim thì nay cũng tưởng tôi như vậy nữa, trong những lúc vắng mặt. Có dè đâu từ đó tôi đã bắt đầu mê đọc sách, đến cả làng đều biết tiếng.

Rồi sau, đi học trở lại, tôi đã không có dịp đọc truyện, đọc thơ, lại mê mải khoa học, rồi triết học, chánh trị, hãm mình vào những khuôn khổ hẳn hoi. Đón năm 1945, mãn tù về, lại gặp dịp muốn nghỉ làm chánh trị, cho tư tưởng được phóng túng một hồi. Thì tôi nhớ ngay lại mối tình ban đầu, muốn tự tay dịch lại bộ Tam Quốc và bình luận lấy. Rủi gặp lúc không nhà xuất bản nào cộng tác, thành bỏ dở.

Tuy vậy, ảnh hưởng của truyện ấy vẫn còn nặng nề. Tôi rất thích lối viết truyện mà ái tình bị gạt bỏ ra ngoài, có lẽ bởi chịu ảnh hưởng của Tam Quốc. Sau nầy, viết mấy bộ tiểu thuyết, tôi đặt tình yêu giữa trai gái ra ngoài lề. Hơn nữa, trong bộ Gái nước Nam làm gì, tôi phác một mẩu truyện dài mấy chục quyển, nhơn vật hằng trăm, phần đông là đàn bà, có lẽ cũng biết yêu, nhưng chê như thế là sai sự thật, là hỏng. Nhưng mà làm sao bây giờ? Vì ấn tượng của Tam Quốc đã in sâu trong tiềm thức của tôi. Người ta có thể viết một thiên kiệt tác, mà không cần nói đến những việc khóc lóc của hai trái tim tỉ tê, hay là không cần đưa ra một việc nhu cầu của sanh lý mà thật ra, có đôi trai gái nào dám đem ra biểu diễn trước công chúng bao giờ? Nếu như thế, tại sao ta mang cái bịnh là tô điểm mãi việc mà ai ai cũng cho là “đáng thẹn”?

Xin nói lại. Quan niệm văn chương nầy có lẽ sẽ bị cho là lầm. Nhưng mà tôi làm sao bây giờ? Bởi vì nó đã ăn sâu vào tiềm thức của tôi, do một áng văn có tài làm cho tôi sung sướng trước nhứt khác hẳn với những tác phẩm khác chỉ làm cho tôi khóc. Cho hay những nhục vinh hồi thuở bé tạo con người của mình mãn đời.

Paris 8-11-49

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC

Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.

Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.

Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.

Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.

Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.

Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.

Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.

Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.

Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.

Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.

Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.

Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.

Đọc bài viết

Trích đăng

Lancaster và York: Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

GIỚI THIỆU

Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.

Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.

Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.

Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.

Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.

Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.

Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.

Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?

Alison Weir

Surrey

tháng Hai 1995

Đọc bài viết

Trích đăng

Vào bếp nấu chè trôi nước ngũ sắc đưa ông Táo về trời – Trích “Thơm thảo xôi chè”

Published

on

Vào ngày 23 tháng Chạp hằng năm, ông Công ông Táo sẽ cưỡi cá chép lên Trời để báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng đế tất cả những điều tai nghe mắt thấy ở trần gian cả việc tốt lẫn việc xấu và những gì chưa làm được. Từ đó, Thiên đình sẽ đưa ra thưởng phạt rõ ràng cho từng gia đình. Xuất phát từ tín ngưỡng đó, lễ đưa ông Công ông Táo về trời (hoặc gọi ngắn gọn là đưa ông Táo về trời) luôn được tiến hành trọng thể.

Trong ngày này, các gia đình thường làm lễ tiễn ông Táo về trời bằng cách thả cá chép. Ngoài ra, mọi người cũng làm mâm cỗ cúng để bày tỏ lòng thành kính với Táo Quân. Trong Thơm Thảo Xôi Chè, nghệ nhân bánh dân gian Trần Thị Hiền Minh đã khéo léo chia sẻ công thức nấu chè trôi nước ngũ sắc, một món ăn vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng và rất thích hợp để bày mâm cỗ cúng ông Táo. Cùng Phương Nam Book tìm hiểu cách làm món này nhé!

CHUẨN BỊ NGUYÊN LIỆU
500g bột nếp
100g khoai lang tím
150g bí đỏ
300g khoai lang trắng
Nước cốt lá dứa, nước lá cẩm
400g đậu xanh bóc vỏ
150g đường cát
10g muối
100ml nước cốt dừa
Phần nước cốt dừa:
300ml nước cốt dừa
700ml nước dão dừa
20g bột gạo
20g bột bắp
5g hành lá
800g đường cát (nấu chè)
150g đường cát (nấu nước cốt dừa)
100g mè trắng
3g muối
100g gừng sẻ

THỰC HIỆN

Sơ chế:
• Mè rửa sạch, rang hoặc nướng trong lò nướng nhiệt 150 độ C đến khi vàng thơm.
• Gừng gọt vỏ, rửa sạch, xắt khoanh mỏng.
• Khoai lang, bí đỏ luộc chín, giã nhuyễn, để riêng từng phần. Chia bột thành 5 phần bằng nhau. Mỗi phần nhồi khoai lang và màu tương ứng cho hòa quyện.
• Dùng nước ấm nhồi với bột nếp đã trộn kỹ theo từng màu, nhồi nhanh tay để bột dẻo. Khi bột gần mịn đều, thêm nước từ từ tránh làm nhão bột, rồi để bột nghỉ 30 phút.
• Đậu xanh vo sạch, ngâm nở 2 giờ, vo lại cho hết nước chua rồi nấu chín, giã nhuyễn. Xào đậu xanh với 100ml nước cốt dừa và 100g đường trên lửa vừa, thêm 10g muối vào cho đậu béo bùi, đậm vị hơn. Khi đậu xanh không dính tay thì tắt bếp, cho hành lá cắt nhuyễn vào trộn đều. Vo viên đậu bằng cỡ trái chanh nhỏ.

Gói viên chè:
• Chia đều bột nếp, mỗi viên khoảng 30g, gói nhân đã chuẩn bị sẵn.
• Bắc nồi nước sôi luộc các viên chè. Khi chín viên chè sẽ nổi lên mặt nước, nấu thêm 2 phút cho viên chè chín kỹ rồi vớt ra ngâm vào nước lạnh.

Nấu chè:
• Cho 2 lít nước vào nồi cùng với 600g đường và vài lát gừng, bắc lên bếp nấu sôi.
• Cho các viên chè vào nồi nấu sôi chừng 5 phút để viên chè thấm đường và vị gừng, nhắc xuống.

Nấu nước cốt dừa:
• Cho nước dão dừa, đường cát, bột gạo, bột bắp, muối và vài cọng lá dứa vào nồi khuấy đều rồi mở bếp ở mức lửa nhỏ, nấu đến khi sôi, khuấy đều tay.
• Tiếp theo chế thêm nước cốt dừa, để hỗn hợp sôi lại, tắt bếp liền.

YÊU CẦU THÀNH PHẨM
• Nước đường trong, ngọt thanh, thơm dịu mùi lá dứa.
• Các viên chè dẻo mềm, không bị nứt hay nhão bề mặt.

Khi ăn, múc chè ra chén, chan nước cốt dừa vào, rắc thêm ít mè rang.

Chè trôi nước ngũ sắc không chỉ đẹp mắt mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự đầy đủ, may mắn và sự hòa hợp của năm mới. Khi thưởng thức, bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt thanh của đường, vị béo của nước cốt dừa và độ dẻo dai của vỏ bánh trôi kết hợp hài hòa với nhân đậu xanh thơm ngon.

Thơm Thảo Xôi Chè là món quà dễ thương dành tặng những ai đam mê nấu nướng bởi nó không chỉ đẹp về hình thức mà còn hấp dẫn về nội dung. Ngoài việc hướng dẫn tỉ mỉ các công thức nấu, tác giả còn khéo léo thuật lại cuộc phiêu lưu ẩm thực qua hành trình tìm kiếm các sản vật quý địa phương. Cuốn sách dù đơn sơ, mộc mạc nhưng đã phần nào truyền tải thành công tình yêu nghề của người đầu bếp và trên tất cả là sự tinh tế của nền ẩm thực nước nhà.

Mời bạn tìm mua sách tại đây. Nếu có làm theo các công thức trong sách thì bạn nhớ chia sẻ cho Bookish biết với nha!

Chúc bạn một mùa Tết bình an và sung túc bên gia đình.

Đọc bài viết

Cafe sáng