Trích đăng

Mặt trăng và pin, trích chương 1 “Chiếc cặp” – Hiromi Kawakami

“Trong dòng chảy văn xuôi yên bình, thấm đẫm vẻ đẹp thiên nhiên nhấn mạnh nỗi cô đơn của cả hai nhân vật, Kawakami đã tinh tế nắm bắt các hình thái của sự cô đơn trong khi cân nhắc định nghĩa về tình yêu.”

Published

on

Chi tiết tác phẩm

[Chương 1] Chiếc cặp

Trích từ: Chiếc cặp – Giải văn học Tanazaki 2001

Tác giả: Hiromi Kawakami

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 3.2019

Mặt trăng và pin

Tên đầy đủ của ông ấy là Harutsuna Matsumoto nhưng tôi thường gọi ông là “Sensei” mà không là “Mr” hay “Sir”, chỉ đơn giản là “Sensei”.

Sensei là giáo viên tiếng Nhật của tôi ở trường trung học. Không phải giáo viên chủ nhiệm và tiếng Nhật cũng chẳng phải môn tôi ưa thích, nên thật sự tôi chẳng có mấy ấn tượng về ông. Từ khi tốt nghiệp, đã lâu rồi chúng tôi chưa gặp lại.

Nhiều năm trước, chúng tôi từng ngồi cạnh nhau trong quán bar đông đúc cạnh nhà ga, rồi sau đó thi thoảng đôi ba lần hội ngộ. Tối hôm đó, ngồi bên quầy, tấm lưng ông thẳng đến mức gần như trũng vào thành hình lòng chảo.

Kiếm cho mình chỗ ngồi tại quầy bar, tôi gọi món “cá ngừ ăn kèm đậu nành lên men, củ sen chiên giòn và hành muối”, trong khi người đàn ông lớn tuổi ngay cạnh tôi gọi hầu như cùng lúc “hành muối, củ sen chiên giòn, cá ngừ ăn kèm đậu nành lên men”. Khi liếc nhìn qua và bắt gặp tức thì ánh nhìn trực diện, tôi bất giác tự nhủ rằng hình như gương mặt này không xa lạ.

Sensei mở lời:

“Xin lỗi, có phải Tsukiko Omachi?”

Do bất ngờ nên tôi chỉ gật đầu đáp lại.

“Tôi đã nhìn thấy em đến đây một vài lần”, Sensei nói.

“Vậy ạ”. Tôi trả lời có phần lơ đãng trong khi vẫn nhìn ông. Mái tóc trắng của Sensei được cẩn thận vuốt ngược ra sau, trên người mặc chiếc sơ-mi trắng phẳng phiu cùng vest xám. Trên mặt quầy trước mặt ông có chai rượu sake, dĩa bày lát mỏng thịt cá voi khô và chén có một ít rong biển mozuku1. Tôi tò mò về người đàn ông có cùng sở thích với mình, và rồi hình ảnh người thầy giáo đứng trên bục giảng lững lờ trôi qua tâm trí tôi.

Sensei luôn vừa cầm giẻ lau trong tay vừa viết lên bảng. Những dòng phấn trắng thoắt hiện ra như câu đầu tiên trong tùy bút Makura no Sōshi của Sei Shōnagon: “Bình minh đẹp nhất là vào mùa xuân”, rồi lại bị xóa mất đi sau chưa đầy năm phút. Ngay cả khi quay xuống giảng bài cho học trò của mình, ông vẫn cầm khư khư miếng giẻ lau như thể nó bị dính chặt vào tay trái vậy.

“Thật không bình thường khi thấy phụ nữ ngồi một mình ở nơi như thế này”, Sensei vừa nói vừa khéo léo rưới nước xốt miso trộn giấm lên lát cá voi khô cuối cùng và thưởng thức.

“Dạ vâng”, tôi cũng rót bia vào ly của mình. Tôi nhận ra ông là giáo viên trung học cũ nhưng không tài nào nhớ nổi tên ông. Vì thế, khi thấy ông lại có thể nhớ rõ tên học trò mình đến vậy, nỗi ngạc nhiên trong tôi còn pha lẫn cả sự bối rối sau ly bia nốc cạn.

“Em không thắt bím tóc như khi còn là nữ sinh trung học à?”

“Dạ vâng.”

“Tôi nhận ra em ngay khi nhìn thấy đấy.”

“Vậy ạ.”

“Năm nay em đã ba mươi tám rồi nhỉ?”

“Ba mươi bảy thôi ạ.”

“Tôi xin lỗi.”

“Không có gì.”

“Tôi đã ghi nhớ các học trò của mình dựa theo sổ sách và kỷ yếu.”

“À…”

“Nhìn em không khác lúc đi học là mấy.”

“Sensei cũng vậy.” Tôi gọi ông là “Sensei” để che giấu việc không nhớ nổi tên thầy và cứ mãi gọi ông như vậy.

Tối hôm đó, chúng tôi uống tổng cộng năm bình rượu sake, tiền do Sensei thanh toán. Lần tiếp theo chúng tôi gặp nhau ở quầy rượu và đến phiên tôi trả tiền. Lần thứ ba và những lần sau đó, chúng tôi chia đều hóa đơn, thật tự nhiên như chính cái sở thích làm khách quen những quán rượu của cả hai. Không chỉ có cùng thú vui ẩm thực, chúng tôi còn đồng điệu về tích cách. Mặc cho khoảng cách hơn ba mươi tuổi, tôi vẫn cảm thấy thân thuộc với ông hơn bạn bè cùng trang lứa.

Tôi đã đến nhà Sensei nhiều lần. Ban đầu, chúng tôi chỉ uống ở quán rượu, nhưng cũng có một vài lần địa điểm đổi trao chén rượu là tại nhà của Sensei.

“Tôi sống ở gần đây, em có muốn ghé qua?” Sensei nói vậy vào lần đầu tiên mời tôi thăm nhà, và tôi cảm thấy đôi chút rụt rè. Tôi nghe nói rằng vợ ông đã mất. Đến nhà một người đàn ông góa vợ có vẻ chẳng hay ho gì, nhưng một khi đã bắt đầu uống rượu thì tiếng nói lý trí không còn đủ mạnh, vì vậy tôi nối bước đi cùng ông.

Căn nhà bừa bộn hơn tôi tưởng tượng. Tôi cứ nghĩ nơi này sẽ chỉn chu hơn là hình ảnh đồ đạc chất đống ở mọi góc tối. Ngay gian lớn trải thảm tĩnh mịch là một chiếc ghế dài cũ kỹ nằm bất động và không có dấu hiệu nào của những quyển sách, xấp giấy trắng phẳng phiu hay vài tờ báo rải rác như ở phòng trải chiếu tatami kề bên.

Sensei bày chiếc bàn thấp ra và lấy một bình rượu sake lớn từ mớ bề bộn ở góc phòng. Ông rót đầy tràn hai cái ly nhỏ có kích cỡ khác nhau.

“Xin mời”, Sensei nói trước khi quay lưng đi vào bếp. Căn phòng trải chiếu tatami nhìn ra một khu vườn. Chỉ có một trong những cánh cửa xếp để mở. Qua cánh cửa kính tôi có thể thấy hình dáng những cành cây ẩn hiện mơ hồ. Kiến thức thực vật học không đủ để giúp tôi nhận biết chúng là cây gì, trừ khi bản thân chúng là giống cây biết trổ hoa.

“Trong vườn có những loài cây gì vậy ạ?” Tôi hỏi Sensei ngay khi ông mang ra một cái khay đựng những miếng cá hồi khô, kaki-no-tane và bánh gạo.

“Chúng đều là cây anh đào đó”, ông đáp.

“Tất cả luôn ư?”

“Đúng rồi, tất cả. Vợ tôi rất thích chúng.”

“Hẳn chúng rất đẹp vào mùa xuân.”

“Giờ đây chúng đang chung sống cùng lũ côn trùng. Vào mùa thu, lá vàng rơi rụng khắp nơi, còn mùa đông những cành cây khô trơ trụi và ảm đạm”, Sensei nói một mạch mà không có bất kỳ thái độ chán ngán nào.

“Mặt trăng tối nay như lặn đi đâu mất.” Nửa mảnh trăng lờ mờ đang treo lơ lửng trên bầu trời.

Sensei lấy một cái bánh gạo và nghiêng chiếc ly nhỏ để đổ sake vào. “Vợ tôi không phải kiểu người suy tính quá nhiều.”

“Dạ vâng.”

“Bà ấy chỉ yêu những gì mình yêu, ghét những gì mình ghét.”

“À.”

“Kaki-no-tane này là từ Niigata, có vị rất cay và ngon miệng.”

Bánh gạo giòn rụm khá hợp với rượu sake. Tôi ngồi nhấm nháp và im lặng hồi lâu, lắng nghe tiếng ríu rít trên ngọn cây bên ngoài của chú chim lạc bầy nào đó, lá cây rung lên xào xạc, rồi không gian lại trở nên yên ắng.

“Có tổ chim nào ngoài vườn không?” Tôi hỏi, nhưng không nhận được hồi đáp. Tôi quay lại, thì ra Sensei đang chăm chú vào một tờ báo. Không phải báo ngày hôm nay mà là tờ báo ông đã lôi ra ngẫu nhiên từ mớ giấy tờ rải rác khắp nơi. Ông ấy đang đọc trang tin tức nước ngoài có ảnh một người phụ nữ trong bộ đồ tắm, và dường như quên mất sự hiện diện của tôi.

“Sensei”, tôi gọi, nhưng ông vẫn không phản ứng, có vẻ như đang hoàn toàn tập trung.

“Sensei,” tiếng gọi của tôi lớn hơn. Sensei ngước nhìn lên.

“Tsukiko muốn đọc báo không?” Ông đột ngột hỏi, rồi không đợi tôi trả lời, Sensei đặt tờ báo để mở trên sàn chiếu tatami, trượt tấm cửa kéo đi vào phòng kế bên. Khi quay lại, ông mang theo vài thứ từ thư phòng, là những miếng gốm nhỏ. Sensei đi qua đi lại giữa các căn phòng.

“Chúng đây rồi.” Khóe mắt Sensei nheo lại, cẩn thận xếp những mảnh gốm lên sàn chiếu tatami. Chúng có quai cầm, cái nắp và một cái vòi. “Nhìn chúng kìa!”

“Em thấy rồi.” Nhưng đó là gì? Tôi nhìn chằm chằm vào chúng, suy nghĩ xem đã từng thấy thứ gì giống vậy trước đây chưa. Là một chiếc ấm trà? Nhưng chúng quá nhỏ.

“Đó là những cái ấm trà trên đường ray”, Sensei nói.

“Ấm trà trên đường ray ư?”

“Từ những chuyến đi của tôi. Tôi đã mua cơm hộp ăn trưa ở nhà ga hoặc trên tàu đi kèm với những chiếc ấm trà này. Bây giờ toàn là ấm nhựa, nhưng họ đã từng sử dụng và bày bán loại ấm bằng gốm như thế này.”

“Tôi từng có hàng dài hơn chục chiếc ấm. Một số có màu hổ phách, còn lại có màu nhạt hơn, và có hình dạng khác nhau. Cái thì có vòi lớn, cái có quai cầm lớn, cái này có nắp bé tẹo, cái kia lại có thân tròn mập mạp”.

“Sensei sưu tầm chúng?” Tôi hỏi, và ông lắc đầu.

“Tôi chỉ mua kèm theo các hộp cơm trưa khi rong ruổi trên những chuyến tàu.”

“Cái này là từ năm tôi bắt đầu học đại học, khi du lịch quanh Shinshu. Còn đây là lúc tôi đến Nara cùng đồng nghiệp trong kỳ nghỉ hè – hai chúng tôi xuống tàu ở điểm dừng để ăn trưa, và đoàn tàu khởi hành ngay khi chúng tôi chuẩn bị quay trở lại! Cái kia thì được mua ở Odawara vào tuần trăng mật của tôi – vợ tôi mang nó suốt cả chuyến đi, gói bằng giấy báo và nhồi trong đống quần áo hành lý để nó không bị vỡ”, Sensei vừa giải thích vừa chỉ vào từng cái ấm xếp hàng cạnh nhau. Tôi chỉ biết gật gù và lí nhí vài câu nói cho mỗi câu chuyện kể.

“Em từng nghe nói một số người có sở thích sưu tầm những thứ thế này.”

“Trong đó có em không?”

“Tất nhiên là không rồi! Em chưa bao giờ nghĩ đến!”.

Khóe mắt nheo lại, Sensei tiếp tục câu chuyện của mình, “Tôi chỉ đơn giản cho em xem những thứ tôi lưu giữ trong suốt thời gian rất dài.”

“Tôi dường như không thể vứt bỏ bất cứ thứ gì”, Sensei nói, đi vào phòng bên cạnh và lần này mang theo vài túi nhựa nhỏ.

“Xem này…”, ông mở nút thắt một chiếc túi nhựa, lấy ra một đống pin cũ bên trong. Trên thân chúng còn in dấu của những nhãn hiệu. Ông cầm một trong số đó trên tay.

“Pin này là từ năm xảy ra cơn bão vịnh Ise. Cơn bão đã tấn công Tokyo khủng khiếp hơn mọi dự báo và tưởng tượng, và mùa hè đó tôi đã tận dụng hết lượng pin dự trữ cho đèn pin.”

“Máy cassette có chức năng ghi âm đầu tiên tôi mua yêu cầu tám cục pin loại C. Tôi dùng chúng để nghe những bản giao hưởng của Beethoven nhiều lần, và số lượng pin dùng hết chỉ trong vài ngày! Tất nhiên khó lưu trữ cả bộ tám cục pin, vì vậy tôi quyết định chỉ nhắm mắt giữ lại một”.

“Tôi thấy thương đống pin bị tận dụng triệt để nhằm phục vụ lợi ích của mình nên chẳng đành lòng vứt chúng đi. Cảm thấy thật tủi hổ khi ném chúng vào sọt rác ngay khi chúng đã hoạt động hết công suất, sau khi chúng chiếu sáng đèn cho tôi, ngân vang thứ âm nhạc tôi ưa thích.”

“Em không nghĩ vậy sao, Tsukiko?” Sensei nhìn tôi chằm chằm khi đưa ra câu hỏi.

Tôi tự hỏi trả lời thế nào đây, khi tôi vẫn đang theo quán tính lẩm ba lẩm bẩm lại những câu tẻ nhạt của mình. Ngón tay tôi chạm vào một cục pin đã gỉ sét và ẩm ướt hiệu Casio trong số hàng tá pin đủ mọi kích cỡ.

“Mặt trăng đã xuống thấp thật rồi”, Sensei nhỏ giọng. Mặt trăng đã sáng rõ trở lại từ đám mây.

“Hương vị trà đựng trong những chiếc ấm này chắc là ngon lắm”, giọng nói của tôi cũng trở nên nhẹ nhàng hơn.

“Vậy dùng trà nhé?” Sensei gợi ý và vươn cánh tay lục tìm xung quanh vị trí của bình rượu sake lớn, cuối cùng lôi ra được một hộp trà. Ông đặt một ít lá trà vào chiếc ấm màu hổ phách, sau đó rót nước nóng vào từ một chiếc bình giữ nhiệt cũ cạnh bàn.

“Một người học trò đã tặng tôi bình giữ nhiệt này, xuất xứ từ Mỹ. Nước đã nấu từ hôm qua mà giờ vẫn còn ấm được thế này, ngạc nhiên làm sao.”

Sensei rót trà vào hai cái ly nhỏ mà chúng tôi uống rượu sake trước đó và xoa xoa chiếc bình giữ nhiệt như bảo vật. Chắc chắn còn dính chút rượu trong ly của tôi, bởi vì trà có một hương vị lạ lùng. Men rượu cộng hưởng thêm trà, tôi bỗng muốn nhìn rõ hơn khung cảnh xung quanh mình.

“Sensei, em có thể tham quan nơi này không?” Và không đợi trả lời, tôi bắt đầu khám phá những thứ bừa bộn trong căn phòng trải chiếu tatami. Có giấy vụn. Một bật lửa Zippo cũ. Gương bỏ túi. Có ba chiếc cặp da màu đen lớn, mỗi cặp đều được gấp lại. Chúng đều giống nhau. Có những cánh hoa. Một cái bàn giấy. Và thứ gì đó bằng nhựa màu đen có hình dạng chiếc hộp, trên đó còn có một cây kim.

“Cái này là gì?” Tôi hỏi, nhấc chiếc hộp màu đen lên.

“Để tôi xem… À, đó là vật thử nghiệm.”

“Vật thử nghiệm?” Tôi lặp lại, khi Sensei nhẹ nhàng cầm lấy chiếc hộp đen từ tay tôi và lục tìm bên trong. Có một sợi dây màu đen và một sợi dây màu đỏ, ông gắn chúng vào vật thử nghiệm đó. Cả hai sợi đều còn một đầu dây nối nữa.

“Như thế này”, Sensei nói, nối đầu còn lại của sợi dây màu đỏ và sợi dây màu đen với cục pin có dòng chữ Electric Shaver.

“Thấy không, Tsukiko, nhìn vào đây!” Vì cả hai tay đều bận, Sensei vừa ra hiệu bằng cằm vừa chỉnh lại vật thử nghiệm này. Cây kim trên đó rung lên. Ông dịch chuyển mối dây ra khỏi cục pin và cây kim vẫn chuyển động, kết nối tiếp tục và nó lại rung lên.

“Vẫn còn một chút năng lượng sót lại phải không?” Sensei nhẹ nhàng nói. “Không đủ sức để vận hành một động cơ, nhưng trong đó vẫn tồn tại một ít sự sống.”

Sensei đo từng loại pin với máy thử đó. Hầu hết chúng không khiến cây kim chuyển động, một số lại cho kết quả khả quan. Mỗi lần như vậy, ông ấy lại thốt lên vui vẻ.

“Dấu hiệu bé nhỏ nhất của cuộc sống,” tôi kết luận, và Sensei gật đầu trong vô thức.

“Nhưng cuối cùng chúng cũng tê liệt cả thôi”, giọng ông đầy vẻ mỏi mệt như vọng lại từ nơi nào xa lắm.

“Chúng sẽ trải qua cuộc đời này bên trong tủ quần áo.”

“Đúng như vậy.”

Cả hai chúng tôi ngồi yên một lúc, lặng lẽ thưởng lãm mặt trăng ở trên cao, cho đến khi Sensei cắt đứt bầu không khí này bằng câu nói đầy hứng khởi, “Chúng ta sẽ uống thêm ly nữa chứ?”, và nhanh chóng rót rượu sake.

“Ối, vẫn còn một ít trà trong ly.”

“Sake pha với trà?”

“Nhưng rượu sake không cần phải pha với bất kỳ hương vị gì trên đời cả.”

“Không sao đâu, Sensei.”

Tôi vừa nói vừa dốc cạn ly rượu sake chỉ trong một ngụm, trong khi Sensei vẫn đang nhấm nháp. Trên kia, mặt trăng chiếu rực rỡ thứ ánh sáng của đêm.

Đột nhiên, bằng chất giọng rõ ràng, truyền cảm, Sensei ngâm nga:

Ánh sáng bàng bạc trên sông

Xuyên qua hàng liễu Từ Ono trên những bãi ngầm.

“Cái gì vậy, một bài kệ ư?” Tôi hỏi.

Sensei thoáng tức giận. “Tsukiko à, em chưa bao giờ chú ý trong lớp Ngữ văn Nhật Bản đúng không?”

“Sensei đâu dạy tụi em bài đó đâu!”

“Đó là thơ của Seihaku Irako”, Sensei giảng giải.

“Em chưa bao giờ nghe về Seihaku Irako”, tôi lẩm bẩm và tự rót sake vào ly của mình.

“Thật không bình thường khi phụ nữ tự rót rượu cho mình”, Sensei xét nét.

“Ồ, Sensei đúng là người của thế hệ trước thật rồi!” Tôi cãi lại.

“Thì đúng vậy mà!” Ông càm ràm và cũng rót đầy ly rượu của mình.

Rồi tiếp tục bài thơ dang dở:

Từ Ono trên những bãi ngầm

Một cây sáo xuyên màn sương

Chạm vào trái tim lữ khách.

Mắt ông nhắm nghiền, như thể chính ông cũng đang chìm đắm vào âm điệu ngâm nga. Tôi nhìn chăm chú vào đám pin trên sàn. Chúng bất động trong thứ ánh sáng nhợt nhạt đang bao phủ. Mặt trăng lại một lần nữa khuất dạng trong mây mù.

-Còn tiếp-

Chú thích:

  1. Rong biển mozuku: loại rong biển màu nâu đậm, được thu hoạch vào mùa xuân nhiều nhất ở Okinawa (ND).

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC

Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.

Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.

Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.

Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.

Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.

Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.

Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.

Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.

Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.

Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.

Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.

Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.

Đọc bài viết

Trích đăng

Lancaster và York: Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

GIỚI THIỆU

Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.

Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.

Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.

Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.

Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.

Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.

Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.

Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?

Alison Weir

Surrey

tháng Hai 1995

Đọc bài viết

Trích đăng

Vào bếp nấu chè trôi nước ngũ sắc đưa ông Táo về trời – Trích “Thơm thảo xôi chè”

Published

on

Vào ngày 23 tháng Chạp hằng năm, ông Công ông Táo sẽ cưỡi cá chép lên Trời để báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng đế tất cả những điều tai nghe mắt thấy ở trần gian cả việc tốt lẫn việc xấu và những gì chưa làm được. Từ đó, Thiên đình sẽ đưa ra thưởng phạt rõ ràng cho từng gia đình. Xuất phát từ tín ngưỡng đó, lễ đưa ông Công ông Táo về trời (hoặc gọi ngắn gọn là đưa ông Táo về trời) luôn được tiến hành trọng thể.

Trong ngày này, các gia đình thường làm lễ tiễn ông Táo về trời bằng cách thả cá chép. Ngoài ra, mọi người cũng làm mâm cỗ cúng để bày tỏ lòng thành kính với Táo Quân. Trong Thơm Thảo Xôi Chè, nghệ nhân bánh dân gian Trần Thị Hiền Minh đã khéo léo chia sẻ công thức nấu chè trôi nước ngũ sắc, một món ăn vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng và rất thích hợp để bày mâm cỗ cúng ông Táo. Cùng Phương Nam Book tìm hiểu cách làm món này nhé!

CHUẨN BỊ NGUYÊN LIỆU
500g bột nếp
100g khoai lang tím
150g bí đỏ
300g khoai lang trắng
Nước cốt lá dứa, nước lá cẩm
400g đậu xanh bóc vỏ
150g đường cát
10g muối
100ml nước cốt dừa
Phần nước cốt dừa:
300ml nước cốt dừa
700ml nước dão dừa
20g bột gạo
20g bột bắp
5g hành lá
800g đường cát (nấu chè)
150g đường cát (nấu nước cốt dừa)
100g mè trắng
3g muối
100g gừng sẻ

THỰC HIỆN

Sơ chế:
• Mè rửa sạch, rang hoặc nướng trong lò nướng nhiệt 150 độ C đến khi vàng thơm.
• Gừng gọt vỏ, rửa sạch, xắt khoanh mỏng.
• Khoai lang, bí đỏ luộc chín, giã nhuyễn, để riêng từng phần. Chia bột thành 5 phần bằng nhau. Mỗi phần nhồi khoai lang và màu tương ứng cho hòa quyện.
• Dùng nước ấm nhồi với bột nếp đã trộn kỹ theo từng màu, nhồi nhanh tay để bột dẻo. Khi bột gần mịn đều, thêm nước từ từ tránh làm nhão bột, rồi để bột nghỉ 30 phút.
• Đậu xanh vo sạch, ngâm nở 2 giờ, vo lại cho hết nước chua rồi nấu chín, giã nhuyễn. Xào đậu xanh với 100ml nước cốt dừa và 100g đường trên lửa vừa, thêm 10g muối vào cho đậu béo bùi, đậm vị hơn. Khi đậu xanh không dính tay thì tắt bếp, cho hành lá cắt nhuyễn vào trộn đều. Vo viên đậu bằng cỡ trái chanh nhỏ.

Gói viên chè:
• Chia đều bột nếp, mỗi viên khoảng 30g, gói nhân đã chuẩn bị sẵn.
• Bắc nồi nước sôi luộc các viên chè. Khi chín viên chè sẽ nổi lên mặt nước, nấu thêm 2 phút cho viên chè chín kỹ rồi vớt ra ngâm vào nước lạnh.

Nấu chè:
• Cho 2 lít nước vào nồi cùng với 600g đường và vài lát gừng, bắc lên bếp nấu sôi.
• Cho các viên chè vào nồi nấu sôi chừng 5 phút để viên chè thấm đường và vị gừng, nhắc xuống.

Nấu nước cốt dừa:
• Cho nước dão dừa, đường cát, bột gạo, bột bắp, muối và vài cọng lá dứa vào nồi khuấy đều rồi mở bếp ở mức lửa nhỏ, nấu đến khi sôi, khuấy đều tay.
• Tiếp theo chế thêm nước cốt dừa, để hỗn hợp sôi lại, tắt bếp liền.

YÊU CẦU THÀNH PHẨM
• Nước đường trong, ngọt thanh, thơm dịu mùi lá dứa.
• Các viên chè dẻo mềm, không bị nứt hay nhão bề mặt.

Khi ăn, múc chè ra chén, chan nước cốt dừa vào, rắc thêm ít mè rang.

Chè trôi nước ngũ sắc không chỉ đẹp mắt mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự đầy đủ, may mắn và sự hòa hợp của năm mới. Khi thưởng thức, bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt thanh của đường, vị béo của nước cốt dừa và độ dẻo dai của vỏ bánh trôi kết hợp hài hòa với nhân đậu xanh thơm ngon.

Thơm Thảo Xôi Chè là món quà dễ thương dành tặng những ai đam mê nấu nướng bởi nó không chỉ đẹp về hình thức mà còn hấp dẫn về nội dung. Ngoài việc hướng dẫn tỉ mỉ các công thức nấu, tác giả còn khéo léo thuật lại cuộc phiêu lưu ẩm thực qua hành trình tìm kiếm các sản vật quý địa phương. Cuốn sách dù đơn sơ, mộc mạc nhưng đã phần nào truyền tải thành công tình yêu nghề của người đầu bếp và trên tất cả là sự tinh tế của nền ẩm thực nước nhà.

Mời bạn tìm mua sách tại đây. Nếu có làm theo các công thức trong sách thì bạn nhớ chia sẻ cho Bookish biết với nha!

Chúc bạn một mùa Tết bình an và sung túc bên gia đình.

Đọc bài viết

Cafe sáng