Trà chiều

The Lobster – Cô đơn hay không cô đơn?

Published

on

The Lobster thuộc dòng phim dystopian pha trộn với black comedy. Trình bày một thế giới giả tưởng với nhiều qui luật riêng, The Lobster thoạt tiên khiến người xem dễ có chút choáng ngợp và bỡ ngỡ ở những bước đầu làm quen với nó. Trong thế giới chủ lưu của The Lobster, không ai được phép cô đơn, không ai có quyền cô đơn, việc tìm người phối ngẫu trở thành nhiệm vụ xã hội mà nếu như ai đó cố tình vi phạm hay phớt lờ sẽ bị trừng phạt. Những người cô đơn sẽ được đưa đến khách sạn. Tại đây, trong vòng 45 ngày, họ phải tìm cho mình một người bạn đời, nếu không, họ sẽ bị biến thành loài vật mà họ đã chọn. Những sự kiện đầu tiên tuần tự diễn ra với rất ít điểm nhấn cảm xúc dành cho nhân vật tựa như lối kể chuyện chỉ có những đoạn tường thuật khách quan mà không có những đoạn miêu tả nội tâm chi tiết. Lối kể chuyện ấy phần nào gợi nhớ đến cách kể chuyện cổ tích với những nhân vật được miêu tả chung chung, có thể có tên hoặc không có tên, tập trung vào tình tiết hơn là nhân vật. Phân nửa đầu tiên của The Lobster – tức là khi David còn ở trong khách sạn đã chọn lối kể chuyện gần giống như vậy với rất nhiều nhân vật không được đặt tên nhằm tạo ra sự biểu trưng hay cảm giác về sự đại diện tập thể, sự không chú trọng vào cá thể đạt mức cao nhất. Điều này cũng thích hợp với không khí ngột ngạt trong môi trường toàn trị, độc tài ở khách sạn.

The Lobster có thể được chia thành ba hồi với: hồi một là màn làm quen thế giới khách sạn cho đến khi David bỏ đi, hồi hai là màn làm quen thế giới trong rừng cho đến khi David lại muốn bỏ đi lần nữa nhưng lần này là với người con gái anh yêu, hồi ba tập trung vào giải quyết vấn đề ở cuối hồi hai. Tuy nhiên, tôi vẫn thích liệt The Lobster vào phim cấu trúc hai hồi chung với một phim kinh điển của loại cấu trúc này mà tôi đã từng xem là Muholland Drive. Nếu như Muholland Drive là sự phản chiếu hai mặt của thế giới tưởng tượng và thế giới thực, xoay quanh giữa cái đã-có-thể-là và cái đã-thực-sự-là thì The Lobster là sự phản chiếu giữa hai thế giới đều thực như nhau và đều phi lí như nhau, xoay quanh giữa cái phải-là và cái không-thể-là. Thế giới ở khách sạn và thế giới ở rừng dường như đối nghịch nhau một cách triệt để: một nơi hầu như bị bó buộc trong không gian nội thất với những căn phòng, những dãy hành lang và một nơi với không gian mở rộng là những cánh rừng, con sông; một nơi cấm người ta độc thân và một nơi cấm người ta yêu. David đã đến với thế giới ở rừng như một sự cứu rỗi nhưng rồi anh cũng sớm nhận ra nơi ấy chẳng khác gì ở khách sạn, nó chỉ là dạng thức khác của khách sạn. Cả hai nơi đều tồn tại dựa trên một điều cấm lớn nhất mà thoạt tiên, người ta tưởng mình sẽ nhận được quyền lợi từ điều được phép của cái ngược lại với điều cấm. Trong những buổi họp mặt, theo chỉ thị của người quản lí, các nhân viên khách sạn nhấn mạnh đến ích lợi của một mối quan hệ, của hôn nhân, của việc luôn có một người bên cạnh, họ đưa ra những tình huống cho thấy rằng ở một mình rất bất lợi. Tuy nhiên, khi tình trạng độc thân trở thành điều gần như tội lỗi thì điều ngược lại với nó – tình trạng hôn nhân cũng không thể khiến người ta thực sự vui vẻ, bình yên như nó vốn là nữa. Ngược lại, thế giới ở rừng cũng đi theo hướng tương tự như thế. Có thể nói, thế giới trong The Lobster được vận hành theo thuyết nhị nguyên mà ở đó, con người bị buộc phải chọn một người bạn hay một nhóm, một tập thể để đứng ở phía cực họ tin là đúng và cùng nhau chống lại phía cực họ tin là sai. Đó là thế giới không cổ vũ cho sự đơn lẻ cá nhân dù tập thể có phi lí đến đâu chăng nữa. Wai Chee Dimock viết trên tờ Los Angeles Review of Books đã có ý so sánh The Lobster với những tác phẩm của Samuel Beckett. Tuy nhiên, khi xem The Lobster, tôi lại nhớ đến không khí phi lí kiểu Kafka. Cụ thể là, phim khiến tôi nhớ đến The Castle.

Như bất kì tác phẩm điện ảnh nào có khuynh hướng văn học, The Lobster sử dụng voice over ở mật độ dày đặc để kể chuyện. Phim không tiết lộ thân phận người kể chuyện ngay từ đầu khiến hồi một của phim (theo cách chia hai hồi của tôi) chìm trong tính trần thuật và không khí hư cấu rõ rệt. Ta có cảm giác những sự kiện trên phim nằm ở thì quá khứ rất xa và David là nhân vật từ sản phẩm tưởng tượng của một cô gái nào đó. Chính cảm giác này đã phần nào khiến tôi bồi hồi khi biết được cô gái kể chuyện từ đầu phim chính là người yêu David, đồng thời cũng là người David yêu. Vậy là, trong thế giới ấy, David có thực, cô gái có thực, họ không cô đơn, họ đã tìm thấy nhau – điều này như một phát kiến mới mẻ, lớn lao khiến tôi cảm thấy ấm áp. Như thế, cũng có thể chia phim thành hai hồi với hồi một là quá khứ gần, hồi hai là hiện tại. Bắt đầu từ hồi hai, chúng ta không còn nhân vật kể chuyện theo kiểu nhà tiên tri nữa. Từ lúc ấy, cả nhân vật lẫn ta đều không biết điều gì sắp xảy ra. Ta nhập cuộc trở lại với sự hồi hộp và lo lắng hơn cho họ.  

The Lobster sử dụng tông màu teal and orange nhưng không theo lối giống những phim bom tấn. Tông màu teal của phim nghiêng về green hơn là cyan và được dùng kèm ánh sáng đánh theo kiểu high-key khiến tông màu xanh bàng bạc như có lẫn chút màu vàng chanh. Dù cảnh nội hay cảnh ngoại, ngày hay đêm, phim đều cố gắng duy trì tông màu xanh ấy khiến cho cảm giác về một thế giới phi lí trở nên rõ rệt hơn. Hơn nữa, chính vì màu background không được thay đổi nhiều, người xem có thể dễ dàng thâm nhập vào sự buồn chán, đơn điệu, khắc nghiệt của thế giới ấy. Green vốn luôn là màu gợi cảm giác quái dị, u buồn như làn da xanh xao của một cô gái ốm nặng vì bệnh và trong The Lobster, màu xanh ấy đã phát huy triệt để tác dụng của nó. Bản thân bộ phim cũng như một con người yếu ớt đang bị bệnh, không thể tìm được phương thuốc cứu chữa cho mình. David có lẽ đã nghĩ rằng chỉ cần thoát khỏi khách sạn là ổn. Nhưng trên thực tế, anh chỉ thoát từ màu xanh nhạt sang màu xanh đậm đặc hơn của khu rừng. Khi một lần nữa, anh cùng người con gái anh yêu tìm cách thoát khỏi khu rừng, hai người băng qua cánh đồng cỏ lau vàng, đi trên một xa lộ vắng người với con đường mở rộng trước mắt, màu xanh buồn bã ấy vẫn đuổi theo họ. Rồi họ vào một quán cà phê, trong không gian bị nhốt kín, khi họ ngồi ở chiếc bàn bên khung cửa sổ lớn đến mức có thể thấy được gần như toàn bộ cảnh vật bên ngoài, một lần nữa, màu xanh buồn bã như lời nhắc nhở về thế giới phi lí vẫn vây lấy họ. Cả hai đã không thể vượt qua sức mạnh quyền năng của nó. Tất cả chỉ là sự lặp lại.  

The Lobster kết thúc bằng sự chờ đợi. Cái chờ ban đầu dường như có vẻ điềm nhiên của cô gái bị cắt ngay lúc ta có cảm tưởng cô đang bắt đầu bồn chồn, lo lắng rằng liệu người cô chờ đợi có quay trở lại với cô hay không. Câu trả lời sẽ là có hoặc không tùy mỗi người. Với tôi, tôi nghĩ rằng anh sẽ không quay trở lại, anh sẽ chạy trốn và cả hai lại tiếp tục đơn độc. Tuy nhiên, cho dẫu anh quay trở lại, liệu rằng khi đôi mắt cả hai không còn đón nhận ánh sáng nữa, họ có thể ở bên nhau lâu dài trong thế giới khắc nghiệt, tàn nhẫn như thế hay không? Vậy nên, dù câu trả lời là thế nào, tương lai phía trước của họ vẫn khó thoát khỏi thứ nỗi buồn kéo dài dằng dặc năm này qua tháng nọ. Những viễn cảnh gợi lên từ kết thúc ấy khiến tôi xót xa. Cùng với Léon: The professional, The Lobster trở thành một trong số những phim hiếm hoi mà tôi đặc biệt thích kết thúc phim. Một bộ phim hay không phải lúc nào cũng sẽ có một cảnh kết thúc gợi mở nhiều cảm xúc và suy nghĩ như thế. Với tôi, The Lobster là viên ngọc quí của điện ảnh đương đại những năm gần đây. Sau The Lobster, tôi sẽ cố gắng tìm thời gian để xem những phim còn lại của đạo diễn Yorgos Lanthimos.

Điểm đánh giá: 9/10
Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Phim chiếu rạp dùng AI thay thế hoa hậu Thùy Tiên: Vô hồn hay cảm xúc?

Published

on

Chiều 4/8, buổi ra mắt phim "Chốt đơn!" diễn ra tại TP HCM. Tại sự kiện, ê-kíp chia sẻ: “Đạo diễn và nhà sản xuất đã tìm ra phương án để thay thế diễn viên chính, để bộ phim có thể được ra rạp. Chúng tôi đã sử dụng công nghệ AI để thay thế nữ chính”.

Trong phim, vai nữ chính Hoàng Linh (trước đó hoa hậu Thùy Tiên thể hiện) vẫn được giữ nguyên, song mặt của Thùy Tiên đã được can thiệp công nghệ AI để làm khác đi. Ngoài ra, ê-kíp cũng sử dụng giọng lồng tiếng để thay thế giọng của Thùy Tiên.

Dân mạng và những người đã xem phim đều tranh luận về việc AI trông giống hay khác Thùy Tiên

Song theo ghi nhận, vì can thiệp công nghệ AI nên hình ảnh của nữ chính tỏ ra thiếu tự nhiên. Biểu cảm nhân vật không mượt mà. Hạn chế này bộc lộ rất rõ ở những chuyển cảnh hay khi nhân vật thay đổi thái độ. Ngoài việc Hoàng Linh trông giống hay khác Thùy Tiên, hình ảnh AI còn gây tranh luận vì độ thật - giả, khả năng truyền tải cảm xúc, vô hồn hay gợi được sự đồng cảm? Đó cũng là lo ngại ban đầu của các đạo diễn cũng như nhiều khán giả.

Việc sử dụng AI để "đổi đầu", "thay mặt" diễn viên trong phim không chỉ đặt ra những tranh cãi về mặt kỹ thuật và cảm xúc, mà còn chạm đến những câu hỏi lớn hơn về đạo đức, quyền con người và vai trò của con người trong thế giới ngày càng bị chi phối bởi trí tuệ nhân tạo. Khi công nghệ có thể can thiệp vào hình ảnh, giọng nói, thậm chí là tạo ra một bản sao số hoàn hảo của một con người, ranh giới giữa thật và ảo đang trở nên mong manh hơn bao giờ hết.

Trong bối cảnh đó, việc tìm hiểu và trang bị kiến thức về AI không còn là điều xa vời dành riêng cho các chuyên gia công nghệ, mà đã trở thành nhu cầu thiết yếu với mọi cá nhân trong xã hội hiện đại. Hai cuốn sách dưới đây có thể là khởi đầu lý tưởng:

EIGHT - 8 Cách Làm Chủ Trí Thông Minh Nhân Tạo

Cuốn sách cung cấp một cái nhìn thực tế, rõ ràng và gần gũi về cách AI đang dần ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời sống, từ công việc, giáo dục đến các mối quan hệ cá nhân. Lee Ji-sung đưa ra những lời khuyên giúp người đọc không bị tụt lại phía sau, đồng thời biết cách sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ, chứ không phải đối thủ đáng sợ. Đây là cuốn sách dành cho bất kỳ ai đang cảm thấy lo lắng hoặc tò mò trước tốc độ phát triển chóng mặt của công nghệ.

2030 - Những Xu Hướng Lớn Sẽ Định Hình Thế Giới Tương Lai

Không chỉ dừng lại ở AI, 2030 phác họa một bức tranh toàn cảnh về tương lai: dân số già hóa, đô thị hoá cực đoan, phụ nữ nắm giữ vai trò kinh tế, v.v.. Xã hội ngày càng lớn, tiền kỹ thuật số thay thế tiền mặt, và tất nhiên AI hiện diện trong mọi mặt đời sống. Với góc nhìn liên ngành (xã hội học, kinh tế học, công nghệ), tác giả giúp người đọc hiểu được rằng thế giới đang chuyển động theo một logic mới, và ta cần chuẩn bị để thích nghi với logic ấy.

Đọc bài viết

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Cafe sáng