Trà chiều

The Edge of Heaven: Bên rìa của hạnh phúc

Published

on

The Edge of Heaven có cấu trúc chia làm ba phần như ba chương trong tiểu thuyết, với mỗi phần bắt đầu bằng một tiêu đề trên phông nền đen. Tiêu đề ba phần lần lượt là: Yeter’s death, Lotte’s death, The Edge of Heaven.

Ở hai phần đầu, cách đặt tên đã tiết lộ cho người xem biết về cái chết của hai nhân vật trong câu chuyện. Fatih đã tự tước đi sự khám phá của khán giả về cái kết của nhân vật, tước đi sự hồi hộp theo dõi bằng cách cho họ biết trước diễn biến quan trọng nhất trong phần đó. Vì vậy, khán giả xem phim sẽ có cái nhìn của Chúa trởi (phim được kể theo lối omniscient narrator) – khán giả không chỉ biết hết tất cả những điều nhân vật này không biết về nhân vật kia, mà thậm chí còn biết trước kết cục. Tuy điều này không khiến người xem hồi hộp nhưng tạo được cho họ nỗi buồn bởi lẽ lúc họ dần yêu mến nhân vật, dần hiểu hơn về nhân vật cũng là lúc người xem biết họ sắp chết.

Cái chết của những sinh thể nhỏ nhoi

Thưởng thức The Edge of Heaven, khán giả được trải qua cung bậc cảm xúc khác biệt so với những phim thông thường. Ban đầu, thông tin về cái chết của nhân vật không khiến người xem có bất kì cảm xúc nào vì chưa kịp biết về người đó (Yeter, Lotte). Người chết cũng không phải là người đầu tiên xuất hiện trong phần phim về họ mà là một người khác có liên quan đến họ (Ali, Ayten). Chúng ta dần biết về người chết thông qua mối quan hệ với người kia, và rồi chúng ta hiểu họ như một cá thể độc lập; thế nhưng, ngay giây phút ta yêu mến họ nhất thì họ chết. Điều này cũng giống như tình yêu: khi kết thúc ngay thời điểm nồng nàn nhất sẽ khiến ta day dứt, vấn vương mãi.

Một trong những chủ đề chính của phim là cái chết, hay cụ thể hơn là cái chết vô nghĩa. Điều đó không có nghĩa là những cái chết trong phim vô nghĩa, mà là những tình huống dẫn đến cái chết trong phim đều vô nghĩa, nhân vật không đáng phải chết và vào khoảnh khắc cuối cùng, họ đã chết như một sinh thể tầm thường nhất, nhỏ nhoi nhất. Fatih không thể hiện sự xót thương dành cho họ thông qua các góc máy hay âm nhạc, tiết tấu phim. Vào cảnh họ chết, mọi việc diễn ra rất nhanh và bình thường. Ở cảnh Yeter chết, người xem không thấy bà ngã và bị đập đầu như thế nào, chúng ta chỉ nghe một âm thanh lớn, khi camera cho thấy hình ảnh Yeter nằm trên sàn nhà, đó chỉ là một cảnh toàn bình thường như góc nhìn khách quan lạnh lùng vốn dĩ của thực tế. Fatih không cho người xem thấy bất kỳ khung hình cận cảnh đầy cảm xúc nào về cái chết của bà. Tương tự như thế, cái chết của Charlotte cũng vậy. Chúng ta chỉ nhìn thấy hình ảnh đứa trẻ bắn súng, tiếng súng nổ, khuôn mặt đám trẻ ngỡ ngàng, chúng bỏ chạy. Và sau đó, ta thấy cảnh toàn nơi Lotte nằm xuống một góc hẻm vắng.

Những vòng tròn dao động vô hình của số phận

The Edge of Heaven không có một nhân vật chính chủ đạo. Nếu dựa trên lí thuyết tạm gọi là nhân vật xuất hiện đầu tiên và cuối cùng dẫn dắt bộ phim thì có lẽ nhân vật chính là con trai của ông Ali. Anh xuất hiện đầu phim khi đang trên đường chạy đi tìm bố, nhưng lúc đó khán giả không biết mục đích của anh là gì, chúng ta chỉ thấy cảnh toàn ở một trạm xăng có tiệm tạp hóa phía sau. Anh mua đồ ăn và nghe giai điệu một bản nhạc. Chủ tiệm kể cho anh nghe về người ca sĩ đang hát, anh ta đã bị mắc bệnh ung thư và chết sớm. Sau đó, câu chuyện chuyển hướng sang Ali. Cuối phim, ta bắt gặp lại hình ảnh anh đang chạy xe và đến cửa tiệm tạp hóa như đầu phim: lúc này, chúng ta đã biết mục đích của anh là đi tìm bố. Cảnh cuối cùng của phim là cảnh anh ngồi trầm tư bên bờ biển, chờ đợi bố trở về. Nhưng anh chỉ là một trong những người dẫn dắt xuyên suốt câu chuyện chứ không nắm vai trò chủ động, có những khi anh biến mất. Vì vậy, xét theo vai trò và mục tiêu của nhân vật, có thể nói cả sáu nhân vật đều là nhân vật chính trong phim. Điểm hay của phim là ở chỗ một nhân vật có thể là nhân vật chính trong phần này nhưng đồng thời lại là nhân vật phụ trong phần khác, và ngược lại. Điều này cũng giống như cuộc sống thực tế vốn không phân chính phụ. Sự tài tình của Fatih nằm ở việc trong một thời lượng giới hạn của phim, nội dung kịch bản đã khắc họa rõ nét chân dung của sáu nhân vật, không có một nhân vật nào được miêu tả hời hợt. Khán giả có thể cảm nhận nỗi đau, vấn đề riêng của từng người nhưng đồng thời vẫn bị cuốn hút vào mạch truyện chính rất hấp dẫn.

Phim điện ảnh xây dựng cốt truyện đa tuyến không phải là hiếm, chúng ta có những phim như: Babel, Crash, Love actually. Đó đều là những phim đa tuyến truyện với nhiều nhân vật chính khác nhau. Tuy nhiên, The Edge of Heaven lại có đôi chút đặc biệt: phim vừa có thể xem là đa tuyến, vừa có thể xem là đơn tuyến vì thực chất bộ phim có một mạch truyện chính và câu chuyện riêng lẻ về cuộc đời của từng nhân vật đều xoay quanh mạch truyện chính đó. Bộ phim gợi nhớ đến cấu trúc phim Pulp Fiction của Quentin Taratino với thủ pháp click: nghĩa là từng sự kiện trong phim như những thư mục trên máy tính; khi ta đang theo dõi cốt truyện chính có một tình tiết, một nhân vật ta không hiểu, ta tìm kiếm dữ liệu, click vào thư mục của người đó trên máy tính để tìm hiểu; sau đó, ta tắt đi thư mục ấy và lại tiếp tục theo dõi mạch truyện chính (đây là những diễn giải của đạo diễn Phan Gia Nhật Linh). Về một điểm nào đó, The Edge of Heaven cũng tương tự như thế: tuy con trai Ali xuất hiện đầu tiên nhưng ban đầu, người xem biết rõ nhất là về ông Ali; thông qua ông, Yeter xuất hiện và chúng ta chưa hiểu rõ về con người Yeter, bộ phim dần chuyển sang góc nhìn của Yeter cho đến khi bà chết ở phần đầu tiên. Thông qua Yeter, chúng ta biết được bà có một người con gái. Con trai Ali vì muốn hoàn thành tâm nguyện của bà đã đi tìm cô nhưng anh không tìm ra. Mở đầu phần hai của phim là Lotte’s death, chúng ta được giới thiệu về Ayten – con gái của Yeter. Sau đó, Yeter gặp Charlotte, phim dần chuyển sang góc nhìn của Charlotte. Khi Charlotte mất, phim lại chuyển sang góc nhìn của mẹ Charlotte. Mẹ Charlotte gặp con trai Ali để biết về những ngày cuối cùng của Charlotte ở Thổ Nhĩ Kỳ. Cuối cùng, phim lại chuyển góc nhìn về con trai Ali. Vẫn là kiểu cấu trúc vòng tròn quen thuộc nhưng đã được đạo diễn biến thể sáng tạo: trong vòng tròn lớn của sự lặp lại, có rất nhiều vòng tròn nhỏ đan xen, tựa như những vòng tròn cùng nhau lan tỏa trên mặt nước bị dao động bởi thứ xung lực vô hình nào đó của số phận.

Ba gia đình với những nỗi đau cần hàn gắn

Phim gồm sáu nhân vật và chúng ta có thể chia làm ba cặp gia đình: Ali và con trai (1), Yeter và Ayten (2), mẹ của Charlotte và Charlotte (3). Trong ba cặp này thì có hai cái chết đã diễn ra ở cặp (2) và (3) mà người trực tiếp/gián tiếp gây ra nguyên nhân cái chết nằm ở cặp (1) và (2). Trong đó, nếu xét cặp (2), ta sẽ thấy đây là cặp thú vị nhất vì cặp này vừa có nạn nhân, vừa có kẻ gây hại: nếu như Yeter là nạn nhân của Ali thuộc cặp (1) thì Ayten lại là kẻ gây hại cho Charlotte thuộc cặp (3). Ngoài ra, cặp (1) có thể gọi là cặp có hung thủ; trong khi đó, cặp (3) chỉ có người bị hại là Charlotte và người chịu sự tổn hại là mẹ Charlotte. Như vậy, ta có thể thấy: cặp (1) nắm vai trò chủ động. Cặp (2) vừa nắm vai trò chủ động – bị động. Cặp (3) nắm vai trò bị động. Đương nhiên, đây chỉ là cách chia tương đối vì trong sự chủ động luôn có sự bị động và trong sự bị động cũng luôn có sự chủ động – đó là sự chủ động lựa chọn sự bị động. Sở dĩ, con trai của Ali nắm được hai điểm quan trọng của bộ phim, xuất hiện ở cảnh đầu tiên và cảnh cuối khung hình vì anh đóng vai trò là người hàn gắn. Bằng sự nhạy cảm, tinh tế, thấu hiểu của mình, anh hàn gắn tất cả mọi người lại với nhau: đầu tiên, anh giúp Yeter bộc bạch về Ayten – phần nào khơi gợi sự liên kết giữa bà và con gái dù chỉ trong tâm trí; sau đó, anh gián tiếp giúp mẹ Charlotte hàn gắn với Ayten; cuối cùng, anh tự hàn gắn chính mình với bố.

Một trong những chủ đề của phim là tình cảm gia đình, không chỉ là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái mà bằng cốt truyện nói về những sự tương ngộ ngẫu nhiên do định mệnh, bộ phim còn nói về luật nhân quả, về mối dây liên kết vô hình giữa những con người với nhau. Con trai Ali lắng nghe và phần nào xoa dịu nỗi đau cho Yeter nhưng rồi chính bố anh lại là người giết Yeter. Với tình thương dành cho Yeter cùng phần nào cảm giác có lẽ là muốn chuộc lại lỗi lầm cho bố, anh đã đi tìm Ayten. Trong phim, anh vẫn chưa gặp được Ayten nhưng việc tìm kiếm giúp anh gặp được Charlotte và mẹ của cô – mà Charlotte lại là người yêu của Ayten. Ngoài ra, chúng ta có thể thấy được sự bổ sung thật ấm áp, ý nghĩa trong phim như sau: Ayten mất mẹ nhưng cô không biết mình còn một người mẹ; trong khi đó, mẹ Charlotte mất con, bà cần một người con. Vì vậy, tôi cảm thấy ấm áp khi cuối cùng, mẹ Charlotte đã quyết định tha thứ cho Ayten. Bà ôm cô trong vòng tay như một người mẹ. Và con trai Ali cũng quyết định tha thứ cho ông. Anh ngồi trên bãi biển, nhìn mãi nơi xa chân trời chờ đợi ông trở về. Bộ phim nói về sự mất mát, những cái chết có vẻ như vô nghĩa, nhưng cuối phim lại là sự đoàn viên. Phim có sáu nhân vật chính và hai nhân vật đã chết, còn lại bốn nhân vật – bốn nhân vật đó lại vừa vặn có thể kết hợp trở thành hai gia đình. Như vậy, hai cái chết dường như không đáng có đó cũng ẩn chứa một ý nghĩa thật đặc biệt: cái chết không đơn thuần là sự chia ly giữa người chết và người sống, cái chết còn là sự hàn gắn giữa những người sống với nhau.

Trong những tuyến truyện của phim, bản thân tôi rất thích chuyện tình giữa Ayten và Charlotte. Vẻ ngoài của cả hai khiến tôi nhớ đến Blue is the warmest color; trong đó, Ayten là Adele, Charlotte là Emma. Nhưng khác với Blue is the warmest color, Ayten (Adele) lại là người nắm vai trò chủ động, người ở thế mạnh hơn; trong khi, Charlotte (Emma) lại là người nắm vai trò bị động, người ở thế yếu hơn và dường như cũng là người yêu nhiều hơn.

Bên bờ nỗi đau nơi phi trường

Sân bay Thổ Nhĩ Kỳ cũng là một nhân vật đặc biệt trong phim: đó là nhân chứng khách quan cho hai cái chết. Khi Yeter chết, quan tài của bà được chuyển xuống từ máy bay Thổ Nhĩ Kỳ. Khi Lotte chết, quan tài của cô lại được chuyển lên máy bay Thổ Nhĩ Kỳ để trở về Đức. Tuy là hai chuyến hành trình khác nhau nhưng đều có điểm khởi hành hoặc điểm đến là sân bay Thổ Nhĩ Kỳ. Chi tiết này có lẽ cũng là một gợi ý để hiểu về tên phim The Edge of Heaven. Đối với Yeter, vì cuộc sống mưu sinh, bà phải rời Thổ Nhĩ Kỳ để đến Đức. Như vậy, Đức đã từng là thiên đường đối với bà. Nhưng rồi đến Đức và trải qua những cay đắng khi làm kiếp bán hoa, bà nhớ về Thổ Nhĩ Kỳ – nơi có con gái bà – khôn nguôi. Giờ đây với bà, Thổ Nhĩ Kỳ – quê hương xưa – mới chính là thiên đường. Và bà đã được trở về thiên đường của mình theo cách chẳng ai mong đợi. Đối với Charlotte, ngay từ đầu có lẽ nàng đã không xem Thổ Nhĩ Kỳ là thiên đường, nàng chỉ đến nơi đó với nguyện vọng gặp lại và giải thoát cho bạn gái của nàng. Và rồi nàng cũng đã được trở về nhà theo cách chẳng ai mong đợi.

Cả hai cảnh ở sân bay Thổ Nhĩ Kỳ đều xuất hiện trên khung hình bằng một cảnh long take, góc toàn – cái nhìn khách quan đến lạnh lùng nhưng đồng thời, khi kết thúc, những cảnh ấy lại trở thành góc nhìn chủ quan: cảnh quan tài Yeter di chuyển là từ góc nhìn của con trai Ali, cảnh quan tài Charlotte di chuyền là từ góc nhìn của mẹ Charlotte. Ở đây, góc máy khách quan vốn đã gây đau lòng cho người xem; nhưng Fatih đã cao tay hơn một bậc khi chuyển cảm giác từ góc máy khách quan sang chủ quan như thế lại càng khiến người xem xót xa hơn.

The Edge of Heaven – cái tên vừa gợi ra nỗi buồn, sự mất mát nhưng đồng thời dường như cũng có sự hàn gắn và bình yên. Ở ngay bờ rìa của thiên đường, vừa có niềm vui khi đã nhìn thấy thiên đường, vừa có nỗi buồn khi bước hụt đến thiên đường trong gang tấc.

Hoàng Đức Nhiên

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng