Trà chiều

The Edge of Heaven: Bên rìa của hạnh phúc

Published

on

The Edge of Heaven có cấu trúc chia làm ba phần như ba chương trong tiểu thuyết, với mỗi phần bắt đầu bằng một tiêu đề trên phông nền đen. Tiêu đề ba phần lần lượt là: Yeter’s death, Lotte’s death, The Edge of Heaven.

Ở hai phần đầu, cách đặt tên đã tiết lộ cho người xem biết về cái chết của hai nhân vật trong câu chuyện. Fatih đã tự tước đi sự khám phá của khán giả về cái kết của nhân vật, tước đi sự hồi hộp theo dõi bằng cách cho họ biết trước diễn biến quan trọng nhất trong phần đó. Vì vậy, khán giả xem phim sẽ có cái nhìn của Chúa trởi (phim được kể theo lối omniscient narrator) – khán giả không chỉ biết hết tất cả những điều nhân vật này không biết về nhân vật kia, mà thậm chí còn biết trước kết cục. Tuy điều này không khiến người xem hồi hộp nhưng tạo được cho họ nỗi buồn bởi lẽ lúc họ dần yêu mến nhân vật, dần hiểu hơn về nhân vật cũng là lúc người xem biết họ sắp chết.

Cái chết của những sinh thể nhỏ nhoi

Thưởng thức The Edge of Heaven, khán giả được trải qua cung bậc cảm xúc khác biệt so với những phim thông thường. Ban đầu, thông tin về cái chết của nhân vật không khiến người xem có bất kì cảm xúc nào vì chưa kịp biết về người đó (Yeter, Lotte). Người chết cũng không phải là người đầu tiên xuất hiện trong phần phim về họ mà là một người khác có liên quan đến họ (Ali, Ayten). Chúng ta dần biết về người chết thông qua mối quan hệ với người kia, và rồi chúng ta hiểu họ như một cá thể độc lập; thế nhưng, ngay giây phút ta yêu mến họ nhất thì họ chết. Điều này cũng giống như tình yêu: khi kết thúc ngay thời điểm nồng nàn nhất sẽ khiến ta day dứt, vấn vương mãi.

Một trong những chủ đề chính của phim là cái chết, hay cụ thể hơn là cái chết vô nghĩa. Điều đó không có nghĩa là những cái chết trong phim vô nghĩa, mà là những tình huống dẫn đến cái chết trong phim đều vô nghĩa, nhân vật không đáng phải chết và vào khoảnh khắc cuối cùng, họ đã chết như một sinh thể tầm thường nhất, nhỏ nhoi nhất. Fatih không thể hiện sự xót thương dành cho họ thông qua các góc máy hay âm nhạc, tiết tấu phim. Vào cảnh họ chết, mọi việc diễn ra rất nhanh và bình thường. Ở cảnh Yeter chết, người xem không thấy bà ngã và bị đập đầu như thế nào, chúng ta chỉ nghe một âm thanh lớn, khi camera cho thấy hình ảnh Yeter nằm trên sàn nhà, đó chỉ là một cảnh toàn bình thường như góc nhìn khách quan lạnh lùng vốn dĩ của thực tế. Fatih không cho người xem thấy bất kỳ khung hình cận cảnh đầy cảm xúc nào về cái chết của bà. Tương tự như thế, cái chết của Charlotte cũng vậy. Chúng ta chỉ nhìn thấy hình ảnh đứa trẻ bắn súng, tiếng súng nổ, khuôn mặt đám trẻ ngỡ ngàng, chúng bỏ chạy. Và sau đó, ta thấy cảnh toàn nơi Lotte nằm xuống một góc hẻm vắng.

Những vòng tròn dao động vô hình của số phận

The Edge of Heaven không có một nhân vật chính chủ đạo. Nếu dựa trên lí thuyết tạm gọi là nhân vật xuất hiện đầu tiên và cuối cùng dẫn dắt bộ phim thì có lẽ nhân vật chính là con trai của ông Ali. Anh xuất hiện đầu phim khi đang trên đường chạy đi tìm bố, nhưng lúc đó khán giả không biết mục đích của anh là gì, chúng ta chỉ thấy cảnh toàn ở một trạm xăng có tiệm tạp hóa phía sau. Anh mua đồ ăn và nghe giai điệu một bản nhạc. Chủ tiệm kể cho anh nghe về người ca sĩ đang hát, anh ta đã bị mắc bệnh ung thư và chết sớm. Sau đó, câu chuyện chuyển hướng sang Ali. Cuối phim, ta bắt gặp lại hình ảnh anh đang chạy xe và đến cửa tiệm tạp hóa như đầu phim: lúc này, chúng ta đã biết mục đích của anh là đi tìm bố. Cảnh cuối cùng của phim là cảnh anh ngồi trầm tư bên bờ biển, chờ đợi bố trở về. Nhưng anh chỉ là một trong những người dẫn dắt xuyên suốt câu chuyện chứ không nắm vai trò chủ động, có những khi anh biến mất. Vì vậy, xét theo vai trò và mục tiêu của nhân vật, có thể nói cả sáu nhân vật đều là nhân vật chính trong phim. Điểm hay của phim là ở chỗ một nhân vật có thể là nhân vật chính trong phần này nhưng đồng thời lại là nhân vật phụ trong phần khác, và ngược lại. Điều này cũng giống như cuộc sống thực tế vốn không phân chính phụ. Sự tài tình của Fatih nằm ở việc trong một thời lượng giới hạn của phim, nội dung kịch bản đã khắc họa rõ nét chân dung của sáu nhân vật, không có một nhân vật nào được miêu tả hời hợt. Khán giả có thể cảm nhận nỗi đau, vấn đề riêng của từng người nhưng đồng thời vẫn bị cuốn hút vào mạch truyện chính rất hấp dẫn.

Phim điện ảnh xây dựng cốt truyện đa tuyến không phải là hiếm, chúng ta có những phim như: Babel, Crash, Love actually. Đó đều là những phim đa tuyến truyện với nhiều nhân vật chính khác nhau. Tuy nhiên, The Edge of Heaven lại có đôi chút đặc biệt: phim vừa có thể xem là đa tuyến, vừa có thể xem là đơn tuyến vì thực chất bộ phim có một mạch truyện chính và câu chuyện riêng lẻ về cuộc đời của từng nhân vật đều xoay quanh mạch truyện chính đó. Bộ phim gợi nhớ đến cấu trúc phim Pulp Fiction của Quentin Taratino với thủ pháp click: nghĩa là từng sự kiện trong phim như những thư mục trên máy tính; khi ta đang theo dõi cốt truyện chính có một tình tiết, một nhân vật ta không hiểu, ta tìm kiếm dữ liệu, click vào thư mục của người đó trên máy tính để tìm hiểu; sau đó, ta tắt đi thư mục ấy và lại tiếp tục theo dõi mạch truyện chính (đây là những diễn giải của đạo diễn Phan Gia Nhật Linh). Về một điểm nào đó, The Edge of Heaven cũng tương tự như thế: tuy con trai Ali xuất hiện đầu tiên nhưng ban đầu, người xem biết rõ nhất là về ông Ali; thông qua ông, Yeter xuất hiện và chúng ta chưa hiểu rõ về con người Yeter, bộ phim dần chuyển sang góc nhìn của Yeter cho đến khi bà chết ở phần đầu tiên. Thông qua Yeter, chúng ta biết được bà có một người con gái. Con trai Ali vì muốn hoàn thành tâm nguyện của bà đã đi tìm cô nhưng anh không tìm ra. Mở đầu phần hai của phim là Lotte’s death, chúng ta được giới thiệu về Ayten – con gái của Yeter. Sau đó, Yeter gặp Charlotte, phim dần chuyển sang góc nhìn của Charlotte. Khi Charlotte mất, phim lại chuyển sang góc nhìn của mẹ Charlotte. Mẹ Charlotte gặp con trai Ali để biết về những ngày cuối cùng của Charlotte ở Thổ Nhĩ Kỳ. Cuối cùng, phim lại chuyển góc nhìn về con trai Ali. Vẫn là kiểu cấu trúc vòng tròn quen thuộc nhưng đã được đạo diễn biến thể sáng tạo: trong vòng tròn lớn của sự lặp lại, có rất nhiều vòng tròn nhỏ đan xen, tựa như những vòng tròn cùng nhau lan tỏa trên mặt nước bị dao động bởi thứ xung lực vô hình nào đó của số phận.

Ba gia đình với những nỗi đau cần hàn gắn

Phim gồm sáu nhân vật và chúng ta có thể chia làm ba cặp gia đình: Ali và con trai (1), Yeter và Ayten (2), mẹ của Charlotte và Charlotte (3). Trong ba cặp này thì có hai cái chết đã diễn ra ở cặp (2) và (3) mà người trực tiếp/gián tiếp gây ra nguyên nhân cái chết nằm ở cặp (1) và (2). Trong đó, nếu xét cặp (2), ta sẽ thấy đây là cặp thú vị nhất vì cặp này vừa có nạn nhân, vừa có kẻ gây hại: nếu như Yeter là nạn nhân của Ali thuộc cặp (1) thì Ayten lại là kẻ gây hại cho Charlotte thuộc cặp (3). Ngoài ra, cặp (1) có thể gọi là cặp có hung thủ; trong khi đó, cặp (3) chỉ có người bị hại là Charlotte và người chịu sự tổn hại là mẹ Charlotte. Như vậy, ta có thể thấy: cặp (1) nắm vai trò chủ động. Cặp (2) vừa nắm vai trò chủ động – bị động. Cặp (3) nắm vai trò bị động. Đương nhiên, đây chỉ là cách chia tương đối vì trong sự chủ động luôn có sự bị động và trong sự bị động cũng luôn có sự chủ động – đó là sự chủ động lựa chọn sự bị động. Sở dĩ, con trai của Ali nắm được hai điểm quan trọng của bộ phim, xuất hiện ở cảnh đầu tiên và cảnh cuối khung hình vì anh đóng vai trò là người hàn gắn. Bằng sự nhạy cảm, tinh tế, thấu hiểu của mình, anh hàn gắn tất cả mọi người lại với nhau: đầu tiên, anh giúp Yeter bộc bạch về Ayten – phần nào khơi gợi sự liên kết giữa bà và con gái dù chỉ trong tâm trí; sau đó, anh gián tiếp giúp mẹ Charlotte hàn gắn với Ayten; cuối cùng, anh tự hàn gắn chính mình với bố.

Một trong những chủ đề của phim là tình cảm gia đình, không chỉ là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái mà bằng cốt truyện nói về những sự tương ngộ ngẫu nhiên do định mệnh, bộ phim còn nói về luật nhân quả, về mối dây liên kết vô hình giữa những con người với nhau. Con trai Ali lắng nghe và phần nào xoa dịu nỗi đau cho Yeter nhưng rồi chính bố anh lại là người giết Yeter. Với tình thương dành cho Yeter cùng phần nào cảm giác có lẽ là muốn chuộc lại lỗi lầm cho bố, anh đã đi tìm Ayten. Trong phim, anh vẫn chưa gặp được Ayten nhưng việc tìm kiếm giúp anh gặp được Charlotte và mẹ của cô – mà Charlotte lại là người yêu của Ayten. Ngoài ra, chúng ta có thể thấy được sự bổ sung thật ấm áp, ý nghĩa trong phim như sau: Ayten mất mẹ nhưng cô không biết mình còn một người mẹ; trong khi đó, mẹ Charlotte mất con, bà cần một người con. Vì vậy, tôi cảm thấy ấm áp khi cuối cùng, mẹ Charlotte đã quyết định tha thứ cho Ayten. Bà ôm cô trong vòng tay như một người mẹ. Và con trai Ali cũng quyết định tha thứ cho ông. Anh ngồi trên bãi biển, nhìn mãi nơi xa chân trời chờ đợi ông trở về. Bộ phim nói về sự mất mát, những cái chết có vẻ như vô nghĩa, nhưng cuối phim lại là sự đoàn viên. Phim có sáu nhân vật chính và hai nhân vật đã chết, còn lại bốn nhân vật – bốn nhân vật đó lại vừa vặn có thể kết hợp trở thành hai gia đình. Như vậy, hai cái chết dường như không đáng có đó cũng ẩn chứa một ý nghĩa thật đặc biệt: cái chết không đơn thuần là sự chia ly giữa người chết và người sống, cái chết còn là sự hàn gắn giữa những người sống với nhau.

Trong những tuyến truyện của phim, bản thân tôi rất thích chuyện tình giữa Ayten và Charlotte. Vẻ ngoài của cả hai khiến tôi nhớ đến Blue is the warmest color; trong đó, Ayten là Adele, Charlotte là Emma. Nhưng khác với Blue is the warmest color, Ayten (Adele) lại là người nắm vai trò chủ động, người ở thế mạnh hơn; trong khi, Charlotte (Emma) lại là người nắm vai trò bị động, người ở thế yếu hơn và dường như cũng là người yêu nhiều hơn.

Bên bờ nỗi đau nơi phi trường

Sân bay Thổ Nhĩ Kỳ cũng là một nhân vật đặc biệt trong phim: đó là nhân chứng khách quan cho hai cái chết. Khi Yeter chết, quan tài của bà được chuyển xuống từ máy bay Thổ Nhĩ Kỳ. Khi Lotte chết, quan tài của cô lại được chuyển lên máy bay Thổ Nhĩ Kỳ để trở về Đức. Tuy là hai chuyến hành trình khác nhau nhưng đều có điểm khởi hành hoặc điểm đến là sân bay Thổ Nhĩ Kỳ. Chi tiết này có lẽ cũng là một gợi ý để hiểu về tên phim The Edge of Heaven. Đối với Yeter, vì cuộc sống mưu sinh, bà phải rời Thổ Nhĩ Kỳ để đến Đức. Như vậy, Đức đã từng là thiên đường đối với bà. Nhưng rồi đến Đức và trải qua những cay đắng khi làm kiếp bán hoa, bà nhớ về Thổ Nhĩ Kỳ – nơi có con gái bà – khôn nguôi. Giờ đây với bà, Thổ Nhĩ Kỳ – quê hương xưa – mới chính là thiên đường. Và bà đã được trở về thiên đường của mình theo cách chẳng ai mong đợi. Đối với Charlotte, ngay từ đầu có lẽ nàng đã không xem Thổ Nhĩ Kỳ là thiên đường, nàng chỉ đến nơi đó với nguyện vọng gặp lại và giải thoát cho bạn gái của nàng. Và rồi nàng cũng đã được trở về nhà theo cách chẳng ai mong đợi.

Cả hai cảnh ở sân bay Thổ Nhĩ Kỳ đều xuất hiện trên khung hình bằng một cảnh long take, góc toàn – cái nhìn khách quan đến lạnh lùng nhưng đồng thời, khi kết thúc, những cảnh ấy lại trở thành góc nhìn chủ quan: cảnh quan tài Yeter di chuyển là từ góc nhìn của con trai Ali, cảnh quan tài Charlotte di chuyền là từ góc nhìn của mẹ Charlotte. Ở đây, góc máy khách quan vốn đã gây đau lòng cho người xem; nhưng Fatih đã cao tay hơn một bậc khi chuyển cảm giác từ góc máy khách quan sang chủ quan như thế lại càng khiến người xem xót xa hơn.

The Edge of Heaven – cái tên vừa gợi ra nỗi buồn, sự mất mát nhưng đồng thời dường như cũng có sự hàn gắn và bình yên. Ở ngay bờ rìa của thiên đường, vừa có niềm vui khi đã nhìn thấy thiên đường, vừa có nỗi buồn khi bước hụt đến thiên đường trong gang tấc.

Hoàng Đức Nhiên

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Cafe sáng