Phía sau trang sách

Yêu những điều không hoàn hảo: Khi trí tuệ của lòng từ bi vận dụng vào đời thường

Bạn biết không, yêu thương là một môn học khó, cho dù mọi đứa bé sinh ra đều được bắt nguồn từ tình yêu thương và trưởng thành trong tình thương của rất nhiều người.

Published

on

yeu nhung dieu khong hoan hao haemin

Sống trên thế gian này, đừng mong chờ sẽ tìm được một nửa nào đó lấp đầy những phần còn thiếu trong bạn. Tình yêu lành mạnh chỉ hình thành khi bản thân ta đã vững vàng tròn trịa như trăng rằm và gặp được một vầng trăng rằm khác cũng tròn đầy như ta… cùng sáng trong và tròn trịa, cùng tôn trọng cá tính, sở thích của nhau và cùng chiếu sáng cho nhau trên một bầu trời.

Theo một cách nào đó, chúng ta vô thức rào tình thương của mình bằng những điều kiện, mà muốn gỡ bỏ chúng, những người xung quanh, và cả bản thân ta, phải vượt qua quá nhiều thử thách, đôi khi nhận về sự tổn thương.

Nhận diện và gỡ bỏ những điều kiện đó, là những gì mà cuốn sách này làm được, ít nhất là đối với những ai đang muốn mở lòng yêu thương vô điều kiện, hay lòng bác ái, bao dung. Không thì ít ra, những dòng tản mạn cỏn con cùng những câu chuyện đời thường cũng giúp bạn xoa dịu nỗi cô đơn vì nghĩ rằng ta không là người duy nhất mắc kẹt trong tình huống này.

Tác phẩm dạy yêu thương theo lối viết tản mạn

Lời tựa của cuốn sách có viết, “Làm sao để chấp nhận chính mình trong một thế giới tuyệt vọng phấn đấu cho sự hoàn hảo”, cũng đã chỉ ra một trong những rào cản đầu tiên bắt nguồn từ guồng quay của xã hội, hay có thể hiểu là tha lực, khiến cho đại chúng phải cuống cuồng chạy đi tạo ra giá trị để được xã hội công nhận. Đại đức Hae Min là người Hàn Quốc, và dễ hiểu vì sao ông lại chọn chủ đề “Chấp nhận bản thân” cho cuốn sách này.

Nhưng sâu xa hơn, người đọc có thể thấy được, không chỉ dạy cách chấp nhận chính mình, mà các câu chuyện, lời khuyên của Đại đức còn tháo gỡ nhiều nội kết khác trong lòng ta qua lăng kính của lòng từ ái: như xử lý các cảm xúc phật lòng, nỗi u sầu uất ức, sợ hãi, sự tha thứ… bằng thói quen quan sát, lắng nghe, và chiêm nghiệm.

Thay vì giảng dạy các pháp môn của Phật giáo, Đại đức Hae Min đã chọn “thuyết pháp” bằng cách kể chuyện thế tục với ngôn ngữ đời thường.

Cuốn sách dày gần 300 trang, 8 chương, cấp độ nhận thức từ thấp đến cao, bắt đầu từ những chủ đề dễ hiểu dễ thấm đến cuối cùng cần sự tập trung đào sâu vào bên trong. Bố cục mỗi chương bao gồm các câu chuyện diễn ra trong đời sống hằng ngày của chính Đại đức, sau đó đến các lời khuyên, nhận định ngắn gọn, tản mạn do Đại đức chiêm nghiệm mà ra. Mặc dù nội dung được phân bổ khá dễ chịu đối với đọc giả, nhưng nếu đọc hết cuốn sách trong một, hai ngày, bạn sẽ khó đúc kết và thực hành được gì cho bản thân. Vì mỗi chủ đề gắn liền với từng giai đoạn khác nhau của đời người, dù vẫn xoay quanh các tổn thương bên trong do thói quen phớt lờ, đè nén cảm xúc của chúng ta. Thay vào đó nếu chậm lại một chút, bạn hoàn toàn có thể nâng cấp từ mức độ định vị bản thân, chấp nhận bản ngã, và cuối cùng có thể yêu những điều không hoàn hảo của bản thân và những người xung quanh bạn.

Trị liệu tâm hồn và uốn nắn nghệ thuật sống

Đời sống xã hội gắn liền với tập tục, văn hóa ràng buộc đại chúng vào nghĩa vụ phát triển cộng đồng bằng cách không ngừng chuẩn bị và chạy theo những xu hướng của nền kinh tế, nền chính trị quốc gia. Dần dần, người ta đánh mất khả năng tận hưởng cuộc sống trong một, hai phút rảnh rỗi và việc tìm lại bình yên trong tâm hồn chỉ dành cho những ai gặp vấn đề về sức khỏe tinh thần. Người ta cũng thường tin rằng chỉ cần tạo ra giá trị vật chất và sự quảng giao là hoàn thành bài học yêu thương chính mình. Nhưng có một đoạn thế này:

Những cảm xúc mà ta đang cảm nhận không phải là những thứ vụn vặt có thể làm lơ, ngược lại chúng vô cùng quan trọng và luôn cần được quan tâm tới. Hơn nữa, những cảm xúc đó sẽ không biến mất dễ dàng cho dù ta có đè nén hay lờ chúng đi. Rất nhiều vấn đề tâm lý nảy sinh bắt nguồn từ thói quen tự đè nén cảm xúc khiến năng lượng của những cảm xúc bị đè nén không được giải phóng khỏi tâm trí một cách lành mạnh.”

Đoạn này là lời khuyên dành cho những người hiền lành thường có xu hướng làm theo ý những người xung quanh hãy từ bỏ thói quen nhẫn nhịn ấy đi, và hãy bắt đầu học cách lắng nghe bản thân. Nhưng diễn giải sâu hơn một chút, nếu bạn cũng có những cảm xúc uất ức (hoặc không hài lòng) tương tự, và chúng cứ vi tế lặp đi lặp lại dù sự việc đã được giải quyết từ lâu, thì hãy chấp nhận rằng bạn vẫn còn khúc mắc trong sự việc đó và dành thời gian chiêm nghiệm lại, tìm hiểu xem nội kết trong bạn bắt nguồn từ đâu. Nếu không, bạn vẫn sẽ rơi vào trạng thái cũ khi những tình huống tương tự lại tiếp diễn trong tương lai.

Trong rất nhiều chương sách, vừa trực tiếp vừa gián tiếp bằng cách thuật lại cách cư xử của mình, Đại đức Hae Min luôn nhắc nhở người đọc đừng phớt lờ những cảm xúc “vụn vặt” cá nhân. Vì từ chính lúc đó, tâm hồn bạn trở nên thứ cần được trị liệu rồi. 

Bên dưới cơn phẫn nộ của mình tôi cảm nhận được nỗi buồn và sự đau khổ, và khi tiếp tục nhìn ngắm kỹ với ánh mắt từ bi độ lượng tôi đã nhận ra bắt sâu dưới gốc rễ của cơn phẫn nộ ấy chính là nỗi cô đơn và sợ hãi những cuộc đoạn tuyệt.

Sẽ thật gượng ép nếu nhận định cuốn sách là một giáo trình dạy về nghệ thuật sống, vì những gì Đại đức chia sẻ chỉ là kinh nghiệm sống của ngài. Nhưng lối sống của một nhà sư lại có nhiều điểm đáng học hỏi. Nếu nghĩ xuất gia là sống cuộc đời an nhàn vô vi thì chưa hẳn đúng. Công việc của một nhà sư, theo như cuốn sách thể hiện, đó là thông qua các trao đổi trong cuộc sống thường nhật, tìm cách đối trị những xúc tình tiêu cực và chọn lọc hạt giống nào có thể nuôi dưỡng hạnh phúc thật vững vàng. Có nghĩa là, người xuất gia cũng làm việc, cũng tương tác và duy trì các mối quan hệ, cũng tạo ra những giá trị, nhưng chúng không thể đong đếm ở cấp độ vật chất.

Có những tình huống khó xử rất đỗi đời thường mà đại chúng sợ phải đối mặt, được đề cập và phân tích sâu trong tác phẩm có lẽ sẽ giúp tháo gỡ nội kết, khúc mắc cho rất nhiều người. 

Tuy nhiên khác với những cảm xúc khác, “phật lòng” là cảm xúc khá kỳ lạ, nếu bộc lộ ra ngoài ta sẽ dễ cảm thấy bản thân mình nhỏ nhen, nhưng nếu cứ im lặng không nói thì cảm xúc này sẽ liên tục bị dồn nén khiến ta mệt mỏi, không biết cư xử sao cho phải. Ấm ức thì còn có thể nói rằng mình ấm ức, buồn cũng còn có thể vì buồn mà khóc, còn “phật lòng” lại chỉ có thể giữ trong lòng, rất khó để giải quyết thứ cảm xúc này cho thỏa đáng.

Ít ai chấp nhận chịu thiệt thòi hoặc không đưa ra những điều kiện ngầm trước khi trao đi sự quan tâm, nhưng không phải người tiếp nhận nào cũng nhìn ra điều đó. Suy cho cùng, con người cũng chỉ là những cá thể dễ tổn thương và rất thích “nhảy cóc” trong việc học về thương yêu. Đối với Đại đức, có lẽ cách tốt nhất để tránh rơi vào vòng tròn luẩn quẩn này, chính là học cách bày tỏ tình thương sao cho chân thật và phải cố gắng thấu hiểu được đối phương đã trải qua những gì dẫn đến hành xử như vậy. Trong Phật giáo, người ta thường gọi là mở lòng từ bi bằng con mắt trí tuệ, sẽ giúp có được tình thương vững vàng.

Cho dù diễn biến ra sao, cuối cùng vẫn hãy chọn yêu thương 

Ảnh tranh sơn dầu được chèn ngẫu nhiên ở mỗi chương ngoài giá trị thẩm mỹ, tạo những khoảng không cần thiết để độc giả “thở” giữa các trang sách nhiều tầng lớp ý nghĩa, còn là một công cụ để tác phẩm truyền tải các thông điệp ẩn dụ mà đọc đi đọc lại, chung quy vẫn là: bạn sẽ không thể kiểm soát mọi việc đúng theo ý mình, đôi khi chúng sẽ diễn biến theo hướng tồi tệ nhất bạn từng dự đoán; dù vậy bạn vẫn còn có thể dụng được năng khiếu thiên bẩm của mình để giải phóng khỏi tình huống đó: tình yêu thương.

Mỗi chương sách sẽ khuyên bạn chọn đối tượng thương yêu một cách thông minh. Ví như những lúc bị đả kích, hãy ôm ấp vết thương của mình, hãy học cách thừa nhận, hít thở sâu thật nhiều, tách mình ra khỏi tổn thương đó để quan sát, ôm ấp, vỗ về nó và dùng nó làm nền tảng cho mọi sự thấu hiểu đối phương sau này.

Mong sao cho nỗi đau của ta lúc này
Sẽ là cơ hội đánh thức lòng từ bi trong ta
Khi hướng đến người khác.
Mong sao thông qua nỗi đau
Ta có thể nuôi lớn lòng bao dung
Để có thể ôm lấy nỗi đau của người khác.
Mong sao nỗi đau của người khác sẽ nhanh chóng được chữa lành
Như ta cầu nguyện cho nỗi đau của chính mình.

Suy cho cùng, điều bất như ý là tác động bên ngoài, nhưng ngẫm kỹ một chút, việc định danh nó là “bất như ý” xuất phát từ nội tâm của bạn.

Hành pháp vẫn là quan trọng nhất

Có một thực trạng trớ trêu là, chúng ta biết rằng con người không thể chạy nếu chưa học giữ thăng bằng, nhưng lại tin rằng mình có thể trao đi yêu thương trước khi học cách bảo toàn nó khỏi những bấp bênh trong cuộc sống. Vì vậy, từ những lần bị thương đầu tiên, chúng ta đã vô tình dựng lên nhiều cơ chế phòng thủ và phản kháng tinh vi, khiến thứ cảm xúc thuần khiết nhất cũng không thể len lỏi vào ra. Những lúc này, hãy chấp nhận rằng “những thất bại như hôm nay sẽ còn tìm đến hàng chục lần nữa trong cuộc đời bạn”, nên hãy kiên nhẫn dùng “từ” (từ bi, từ ái, bác ái, bao dung, vị tha) để tự chữa lành cho chính mình. Và quan trọng nhất, là hãy đề cao tinh thần thực hành và dấn thân.

Luôn có một khoảng cách giữa “biết” và biến điều bạn “biết” ấy thành hành động.
Bởi vậy bạn không thể ngay lập tức được chữa lành và trở nên hạnh phúc
Chỉ nhờ vào đọc sách
Hay được ai chỉ bảo.
Khi bạn từng bước hành động hóa những điều bạn biết và ứng dụng vào cuộc sống của mình
Những thay đổi rõ rệt sẽ xuất hiện. Việc này cần rất nhiều quyết tâm và nỗ lực.
Đây chính là đạo lý được thể hiện qua hình ảnh người am hiểu Phật pháp – Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát – người hộ vệ của những ai tuyên giảng đạo pháp.”

Anh Đào

Bài viết chung chủ đề

——————






Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng