Phía sau trang sách

Phúc lành của đất: Cõi người hồn nhiên như cây cỏ

Published

on

Là một trong những tác phẩm quan trọng giúp nhà văn Na Uy Knut Hamsun đoạt giải Nobel Văn Chương 1920, Phúc lành của đất mang người đọc đến những điều kỳ diệu thật sự, khi nhận ra thiên nhiên có thể tuyệt đẹp thế nào, con người hiền lành ra sao, cũng như những chuyện khinh suất có thể nhỏ nhặt đến mức độ nào. Với tác phẩm này, tuổi trẻ, tình yêu đã được Knut Hamsun bơm vào trong mạch máu già cỗi, để người đọc lại một phần nữa thêm yêu quãng đời hiện tại.

Kể về người nông dân Isak và hành trình làm nên điền trang Sellarnaa trên núi cao của mình, Phúc lành của đất lướt qua hành trình từ hai bàn tay trắng đến khi thành đạt của người lao động cần cù, chăm chỉ và hết lòng với việc điền nông. Ở mảnh đất được thiên nhiên ban tặng, sự giao hòa giữa con người và tự nhiên đã cộng hưởng để tạo nên được những xung động lớn, mà như Thoreau hay Rachel Carson, ta như dạo bước trong những ân điển của Knut Hamsun.

Nội dung dưới đây tiết lộ các tình tiết quan trọng trong tác phẩm Phúc lành của đất.

Phúc lành của đất

*

Có thể nói xuyên suốt Phúc lành của đất đều là vẻ đẹp, hy vọng và sự thứ tha hướng theo những điều tích cực. Từ không có gì, Isak kết đôi cùng Inger – một người phụ nữ sứt môi, để xây dựng nên thế giới của mình, như Adam và Eva từ Vườn địa đàng rơi xuống mặt đất đầu tiên. Hai con người ấy như sự giao hòa âm dương, cùng sở hữu những mất mát và khiếm khuyết, nhưng họ dựa dẫm vào nhau, làm thành một thể để tạo nên mái ấm tròn đầy. Knut Hamsun ca ngợi sự bất toàn, chúng hoàn toàn có thể khớp nối để thành hoàn hảo, và cặp vợ chồng Isak – Inger là một ví dụ như thế. Nhưng hẳn nhiên, chuyện không dễ dàng.

Từng bước họ dựng nên nhà bằng việc Isak đốn gỗ, lột vỏ bạch dương, bán máng nước… để đổi lấy thú chăn thả, các loại dụng cụ cũng như những đồ vật khác làm nên cuộc sống; trong khi Inger nghiêng về thêu thùa, khung cửi cũng như một hôm dắt về chú bò cái đầu tiên của lãnh địa Sellarnaa. Nếu Isak khù khờ như gã khổng lồ một tay làm nên cơ đồ, thì Inger hoàn toàn ngược lại, là tiếng nói của văn minh, khi mọi thứ ùa vào hoang dã, và dĩ nhiên, là cả bản án đến 8 năm tù.

Trong lần vượt cạn sinh ra bé gái không may cũng bị sứt môi, Inger đã giết con mình. Knut Hamsun không mô tả rõ ràng hành động đó, nhưng ông cho độc giả một ngõ hầu để đồng cảm với nhân vật này, những điều tiếng và đàm tiếu mà một người khiếm khuyết phải chịu đựng. Gần như hoang dã, Inger với bộ óc hướng vào hoang dã đã làm nên ngôi mộ nhỏ cho con gái mình, với những nghĩ suy đơn giản đúc kết từ những trải nghiệm đã qua.

Oline – người đàn bà đánh hơi mọi chuyện trên đời, đã đoán và gián tiếp tạo nên bản án có phần khắc nghiệt đó. Chính tính ích kỷ sản sinh từ sự đói ăn của bầy con đông đúc đã đẩy người đàn bà ấy vào con đường sâu bọ, khi bất cứ nơi nào cũng đánh hơi thấy một mối lợi nào đó. Nhưng một mặt khác, Isak và Inger dường như phớt lờ bà. Trong họ chưa từng tồn tại một sự căm phẫn, họ hiền như đất của mình, có thể đấu tranh nhưng liền sau đó vẫn là những cư xử rất người. Isak chấp nhận Oline vào nhà như người giúp việc để chăm nom hai cậu con trai và làm việc nhà đổi lấy cái ăn, trong khi Inger sau cơn điên loạn chấp nhận những gì mình đã phạm phải.

Chính trong tám năm Inger tiếp xúc với thành thị, cũng là khi Sellarnaa đón nhận những sự đổi khác. Giờ đây thị dân nối nhau lên đồi, dựng trại, chăn gia súc và sinh sống ổn định. Với vỉa đồng phong phú, vị quan chức bị phế truất Geissler đã sớm nhìn thấy tiềm năng, và mua lại được từ Isak trong hành động rút ngắn thời gian ngồi khám của Inger bằng sự tình cờ may rủi nhìn thấy sai trái. Ngay cả trong cuộc đổi chác kim tiền này, Knut Hamsun cũng cho thấy được cái sâu xa hơn ngoài những mưu mô giới tư bản, bởi nhẽ như người hành hương không màng sự đời, vị Geissler với vỉa đồng ấy chỉ như một màn phản pháo cho những gì ông phải chịu đựng bởi chính quyền quan liêu có phần ngu dốt. Ông không qua mặt Isak, ông chỉ đơn thuần trở về nguyên bản như một trao đổi ngang giá.

Cùng lúc Geissler thương lượng mua những mỏ đồng, cũng là khi Inger học được lề thói thành thị. Về vùng đồi núi vắng vẻ, cô độc; cô liền lập tức thay đổi tâm tính. Ngay cả ở đây, là một người chất phác có phần khù khờ, Isak hiền lành như đất vẫn chịu đựng vợ. Khi văn minh ùa vào, những người khai mỏ đến, mặc cho Inger có thể rung động trước những chàng thợ mỏ đẹp mã biết thổi khẩu cầm, Isak cũng coi đó như một sự chếnh choáng thoáng qua. Trong anh có sự phân tích, nhưng không hẳn là cơn ghen, anh im lặng và tìm hiểu những gì vợ mình đang thiếu và muốn trải qua. Ở Inger, từ khi nổi loạn cho đến lúc nhận thức được thực tại, Knut Hamsun cũng coi đó như một điều tự nhiên, khi chỉ bằng một cái nhẫn hay cái ôm ghì siết, cũng có thể khiến người ta nhận ra bản chất thật sự.

Và đó cũng là khi đứa con trai lớn Eleseus, người sớm nhiễm những lề thói của xã hội đương thời, có cơ hội được vào thị trấn giúp việc. Thay vì công việc nặng nhọc cần đến sức người làm nông như cậu em Sivert, cậu ta chểnh mảng kinh doanh và lo bảo vệ danh tiếng, sợ rằng mang danh nhỏ nhen, ích kỷ; cậu thà bán chịu, buôn bán thua lỗ thay vì tìm cách cải thiện. Cuối cùng cậu trai rời bỏ Staburg và chuyển sang Mỹ, không thấy đường về.

Ở đây Knut Hamsun cũng họa được nên tình yêu vô cùng thầm kín của Isak với con trai mình, dẫu biết đứa bé sẽ không khởi sự thành công hay có ngày trở về; nhưng cũng thuần khiết như đất, ông cho cậu hết những thứ cậu muốn, vì ông hiểu những đứa con là những mảnh đất có biên giới riêng biệt, không thể thúc ép hay bắt giam chúng.

Những kẻ coi khinh đất đai, coi đó chỉ như nền móng cho những món lợi cũng được Knut Hamsun khắc họa, và hẳn nhiên, hậu vị mặn chát là những thứ mà họ được hưởng. Brede – kẻ coi khinh đất đai, chạy theo đường dây điện thoại và những mỏ đồng đến cuối cùng thì vẫn phải ở nhờ gia sản của Axel; trong khi Aronsen – tên thương gia thức thời chạy theo doanh thu của những lao động ở nơi khai mỏ, cuối cùng cũng đã tan hoang khi việc khai thác không thành hiện thực và nơi chốn ấy không ai sinh sống.

Mỗi người sống với đất đai dường như hình thành một nguồn rễ rắn chắc, và bất cứ ai coi đất chỉ như một món hời to, đều sẽ tan tác giữa cơn bão cuộc đời, nhưng ngay cả khi ấy Knut Hamsun cũng làm dịu bớt bi kịch đời họ, khi Brede giờ đây đủ sống với món kinh doanh nhà trọ, Oline được chết trên giường đàng hoàng còn Eleseus thì không đề cập đến cái kết thành bại sau cùng.

Việc chia tác phẩm thành ra hai phần có sự tương đồng nhất định trong nội dung cũng cho thấy một sự so sánh của Knut Hamsun với những cư dân đất đai. Nếu Isak và Inger gắn liền với đất như cặp vợ chồng có chung tình yêu với nhau, với đất; thì Axel và Barbro hoàn toàn ngược lại – bị ngăn cách bởi vai trò riêng biệt, là cỗ máy rút tiền hay người giúp việc? Cũng như giờ đây với văn minh ùa vào, việc giết con không còn mục đích chính đáng mà rủi thay đó là bỏ đi đứa trẻ vô tội trong những trò ma mãnh của chính con người, để rồi không bị ám ảnh bởi bất cứ điều gì, dẫu cho là dằn vặt hay chỉ một chút khổ đau. Phiên tòa xử án Barbro như chính thực tại của nền văn minh đánh mất nhân tính, với sự trá hình, khai man; cũng như dứt bỏ con người khỏi gốc rễ của mình, với sự chất phác, đất đai khi họ hồn nhiên như cây như cỏ.

Tác giả Knut Hamsun

*

Knut Hamsun viết nên Phúc lành của đất bằng sự ngây thơ, trong sáng và cái thuần khiết đến vô cùng tận. Dễ thấy trong bất cứ một bi kịch cá nhân nào, độc giả cũng thấy được cái nhìn bao dung, dễ chịu; cũng như là sự hy vọng vào tương lai gần. Knut Hamsun như mạch suối nguồn của thông tuệ, tốt đẹp và minh triết; chảy suốt mảnh đất văn minh khô cạn, bị đầu độc và đã không còn gốc rễ vững chắc. Một tác phẩm hay, dịu nhẹ, đưa con người về lại chính mình.

Hết.

minh.

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng