Phía sau trang sách

Giành lại không khí sạch: Chỉ ngu ngơ mới biết cười

Giành lại không khí sạch phổ quát, lý thú nhưng đầy gần gũi về cách chúng ta sống, cách ta đối xử với mẹ thiên nhiên, với bầu khí quyển; để thông qua đó, lựa chọn hành động của mỗi một người là rất vô cần thiết.

Published

on

London. Thập niên 1890s. “Họ lái xe giữa những hàng rào cây táo gai và cây phỉ, dọc theo những con đường ngoằn ngoèo giữa rừng cây sồi, bạch dương và thủy tùng nhô cao. Philip đã cảm nhận được sự thay đổi trong không khí khi đoàn tàu chạy ra khỏi dãy nhà ở London. Ở nơi này, ta có thể nhìn thấy cái rìa của làn khói ám đen ấy. Ở đây, nó không tệ như bầu không khí đen đặc đầy mụi than và hóa chất nóng chảy tràn từ các ống khói nhô cao và lò nung gốm ở Burslem. Phổi cậu căng tức và quá mệt mỏi. Olive và Tom không coi không khí trong lành là điều hiển nhiên. Họ thốt lên một cách đầy trịnh trọng về việc làm sao để thoát ra khỏi bụi bẩn. Philip cảm thấy nhơ bẩn khắc sâu trong cậu”. [1]

London. 2018. “Qua việc không hành động một cách khẩn trương và hiệu quả nhất có thể, cũng như không thực hiện mọi biện pháp có thể để làm giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và gia tăng tuổi thọ, chính phủ Anh Quốc đã thất bại trong việc hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ tính mạng, sức khỏe và sự phát triển của trẻ em trong phạm vi và quyền hạn của mình”. [2]

*

Kể từ khi A. S. Byatt làm cuộc khảo cứu ngược về lịch sử thời hậu Victoria cho đến khi chính quyền Trump bỏ lơ hoàn toàn hiệp định Paris về chống biến đổi khí hậu, đã hơn 120 năm trôi qua, thế nhưng, những bóng đen ám khói, những thần chết vẫy gọi vẫn không ngừng nhe nanh múa vuốt trước số phận con người. Tự trong bản chất, khả năng kháng cự và nhận biết hiểm nguy đã tắt lịm đi theo dòng thời đại; từ hư vô khi loài homo sapiens thận trọng dùng lửa, đến thời 4.0 của Internet, của AI hay machine learning thì loài homo deus ấy cũng “tiến hóa” hơn hẳn, khi không sợ lửa, sợ khói và hẳn nhiên không còn sợ cả không khí mà chúng hít phải.

Là một bước tiến hay bước đường lùi? Chẳng ai biết được. Chỉ biết không khí thời còn là sapiens đã trôi rất xa từ khi trở thành giống loài deus. Với Giành lại không khí sạch, Tim Smedley như gã chép sử bơ vơ hiu quạnh ở thời chuyển tiếp, ghi trên đất sét sa thạch một bản tóm lược bầu không khí này, để loài deus hàng triệu năm sau vẫn còn biết được từng bước diễn tiến của bầu không khí thủa còn bốn biển năm châu. Nhưng đến cuối cùng, điều gì đã khiến chúng tệ như thế? Những kẻ giấu mặt, làn khói mong manh và hơn 18.000 người chết mỗi ngày vì không khí ô nhiễm?

Màn khói mù ở Bắc Kinh, nơi tỉ lệ ô nhiễm hạt nhỏ cao gấp 40 lần so với mức tiêu chuẩn an toàn quốc tế.

NHỮNG SỰ THẬT MÔI TRƯỜNG KHÓ CHỊU

Tim Smedley mở đầu Giành lại không khí sạch bằng một trong những mệnh đề vô cùng quen thuộc khi nhắc đến các vấn đề về phát triển bền vững, rằng anh chỉ quan tâm đến chúng khi con cái mình chào đời. Dễ thấy, không khí ô nhiễm như tên sát nhân mang bộ áo giáp vô hình trong tiểu thuyết của H. G. Wells – chúng tàng hình, khó nhận biết nhưng đầy hiểm nguy. Người trưởng thành dường như luôn mang trong mình những tập ý niệm đầy tính trẻ thơ, mà niềm tin về bầu không khí trong lành của 10 hay 20 năm trước chưa hề biến đổi là một trong số đó. Chỉ cho đến khi những chuyển giao thế hệ, những sợi dây liên kết đậm tính máu mủ ruột rà một lần xuất hiện, thì kể từ đó ta mới chú ý để rồi nhận ra cái áo giáp ấy không hề kiên cố như ta vẫn nghĩ.

Và điểm yếu đầu tiên của bộ đồ ấy mà Tim “vô tình nhìn thấy” là ở những tít báo bán chạy hàng ngày ở Anh. Có thể nói ở thời đại mở, nơi thông tin tràn ngập và được thu gom như những vụ mùa bội thu, thì mạng xã hội đóng vai trò vô cùng trọng yếu cho những cuộc vạch trần. Nếu trước đó Trung Quốc từng xóa trắng những dấu hiệu ô nhiễm không khí đầu tiên bằng cách yêu cầu Đại sứ quán Mỹ – nơi gắn những cảm biến không khí nhằm phục vụ cho nhân viên của mình – ngưng đăng trên tài khoản Twitter những số liệu cảnh báo; thì chính quyền Delhi của Ấn Độ cũng tương tự thế, khi phủ nhận hoàn toàn ảnh hưởng của nền ô nhiễm đối với sức khỏe, hay càng vô lý hơn nữa khi một mực cho rằng ô nhiễm môi trường chỉ do khí tượng. Thế rồi rốt cuộc, liệu những che giấu của chính phủ về vấn đề này nhằm mục đích gì hay cốt lõi của chúng nhằm phục vụ ai?

Đội tuyển cricket Sri Lanka có triệu chứng nôn mửa, khó thở vì không khí ô nhiễm khi thi đấu tại New Delhi (Ấn Độ) dù đã đeo mặt nạ chống ô nhiễm.

Với một câu hỏi nửa gây khó chịu, nửa gây tò mò, Smedley với vị thế là một nhà báo độc lập không bị tác động bởi lợi ích nhóm hay bởi đảng phái chính trị đã có cái nhìn khách quan, tổng hợp và thấu suốt về toàn bộ vấn đề này. Lần ngược trở về thời Đại sương mù London năm 1952 đến ngày tận thế năm 2013 của chính quyền Bắc Kinh, ta thấy quan hệ rường cột về mặt kinh tế luôn luôn phủ khắp vấn đề môi trường.

Đứng trước làn đại sương mù năm 1952 bởi than sưởi mùa đông cùng với hiệu ứng nghịch nhiệt, thay vì hành động dứt khoát và thật nhanh chóng, Churchill lại cho rằng cần xem xét thêm quy mô rộng lớn của nền kinh tế trước tác động nhỏ (hay không đáng kể) về mặt môi trường. Sự im lặng của người đứng đầu ở các chính phủ cũng như xung đột lợi ích của rất nhiều bên chỉ biến công dân thành những đàn cừu mặc người chăn thả; để rồi từ đó kết hợp với lối “bế quan tỏa cảng” ở mạng Internet mà Trung Quốc tha hồ o bế, cấm luôn Twitter hay Ấn Độ còn phũ hơn thế, một mực cho rằng khói bụi độc hại tương ứng với khi hút hơn 50 điếu thuốc một ngày vẫn còn chưa tệ bằng cuộc tuyệt diệt thảm họa Pol Pot.

Hơn thế nữa, sự bao che của chính phủ đối với hãng Volkswagen trong việc sản xuất thiết bị triệt tiêu khí thải trong bài thử nghiệm trở thành bê bối không thể dung tha. Dĩ nhiên ta dễ mà suy ra rằng, Volkswagen trong trường hợp này chỉ như anh cả đứng mũi chịu sào, mà trong khu phức hợp chịu trách nhiệm tầm soát ô tô ấy, có hàng tá hàng tá thương hiệu từ Fiat, Subaru đến Peugeot hay Renault. Nực cười hơn nữa khi scandal đã lở vỡ ra, thì chính Volkswagen đã vay một khoản 400 triệu euro từ Ngân hàng đầu tư châu Âu nhằm để phát triển động cơ tuân thủ tiêu chuẩn phát sinh khí thải ngày càng nghiêm ngặt!? Đi suốt đi lui như một vòng luẩn quẩn, và dĩ nhiên, con người luôn là trung tâm toàn bộ mọi thứ.

Thế nhưng cũng không hẳn thế. Một ưu điểm khác của Giành lại không khí sạch là Tim Smedley đã đứng dưới một vai trò của người quan sát – người xin đi lại từ đầu – để đến với những khái niệm thật cơ bản nhất, thật ngọn nguồn nhất; mà một trong số đó là bản chất của tên sát nhân vô hình – ở đây xin được tạm gọi là PM2.5. Dĩ nhiên trong một đám khói ta vẫn hít vào luôn luôn chứa đựng những loại khí khác mà có thể là NOx, VOC, SO2, CO2,… Chúng có thể từ trong vòm cây hoặc từ việc đốt rơm rạ (VOC), cũng có thể là từ núi lửa hoặc đốt nhiên liệu hóa thạch (SO2). CH4 và NH3 thì từ hoạt động chăn nuôi nông nghiệp để lý giải vì sao nước tiểu bò vẫn có thể gây ra ô nhiễm còn O3 từ trong những sự kết hợp giữa NOX với VOC trong ánh sáng. Những cặp tác nhân đều chứa đựng yếu tố tự nhiên và yếu tố người, dĩ nhiên con người luôn luôn phá vỡ và nghiêng cán cân về phía bên mình.

Trong số những hợp chất trên, PM2.5 là vô cùng nhỏ so với kích thước của một cọng tóc và có khả năng vô hiệu hóa toàn bộ khả năng cản bụi ở những cơ quan vốn dĩ sinh ra cho công việc này. Nan giải ở chỗ, ta không thể nào giải quyết toàn bộ vấn đề. Bởi khi giảm xuống nồng độ NOx thì NO2 sẽ liền tăng lên; tương tự như thế, khi giảm PM20 lập tức PM kích thước nano sẽ lại chiếm chỗ. Chì, PM, mất cân bằng oxy gây nên hệ quả không thể không thấy ở ngay trước mắt, để mà nói ra chỉ như sấm truyền cho một cuộc sống đã đến hồi kết, với mất trí nhớ, suy tim, đột quỵ, ung thư, máu không đông, Parkinson, thiếu máu cục bộ và hàng hà sa số những căn bệnh khác.

NHỮNG VÙNG SÁNG ẢM ĐẠM

Nói thế cũng không có nghĩa mọi việc chỉ đang lao đi xuống dốc không thấy đường ra. Trong khi các giải pháp về điện khí hóa đang được cân nhắc và những sản phẩm đầu tiên đã được thành hình; thì kể từ khi sự kiện Olympic Bắc Kinh 2008 đến nay, ngày tận thế vì không khí ô nhiễm đã được khắc phục rõ rệt, với hàng tá những giải pháp như công khai chỉ số môi trường, tái tạo những vành đai xanh hay đóng cửa hoàn toàn những nhà máy nhiệt điện than, sản xuất thép dù cho chưa đi vào hoạt động, mới vừa hoạt động hay đã từng hoạt động… Những chính sách mạnh tay của chính quyền Trung Quốc đã cho thấy cách đối đầu đối với khủng hoảng vô cùng trực diện.

Hơn thế nữa, khi Trump phủ nhận hoàn toàn hiệp ước Paris (chắc hẳn ai đó đã cho ông uống thứ thuốc Dylar của DeLillo trong Tạp âm trắng để mà chế ngự được nỗi sợ chết) thì vé miễn thi hành luật của California đã như ống phễu ngày càng tăng thêm tiêu chuẩn phát thải khí thải. Cùng lúc đó, Paris triển khai hệ thống Velib – xe đạp cho thuê, ngày không xe hơi, tăng lên số lượng làn cho xe đạp hay việc dán nhãn mức độ xả thải, cấm diesel đến năm 2025… đã biến Paris thành nơi đáng đến. Không dừng ở đó, Tesla, BMW, Volvo… cũng đang phát triển phương tiện hoàn toàn bằng điện, mà pin lithium-ion sử dụng cho loại xe này và cách xử lý sau khi hết hạn cũng là vấn đề hết sức nan giải.

Mặt khác, dịch vụ dùng chung xe điện Maas ở Phần Lan đã đại diện cho câu slogan “xe điện hoàn toàn tuyệt vời, nhưng ít xe điện hơn càng tuyệt vời hơn”. Hệ thống BRT ở Mexio, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran cũng đã mang đến lợi ích đáng kể. Thêm vào đó, Stefano Boeri – kiến trúc sư người Ý với lối kiến trúc rừng thẳng đứng ở những tòa nhà bê tông cốt thép – đã góp tính thiên nhiên vào cảnh quan thành phố. Thế nhưng xung đột văn hóa vẫn luôn còn đó, khi  Leban không có dịch vụ công cộng, giao thông Delhi tuân theo đẳng cấp, thói quen tắm hơi ở Hà Lan, tiệc nướng ngoài trời ở Úc hay dịp bắn pháo hoa vào lễ Diwali… Tất cả cho thấy giải quyết ô nhiễm không khí không khi nào là công việc dễ dàng.

*

Với Giành lại không khí sạch – Sự khởi đầu và kết thúc của ô nhiễm khí quyển, Tim Smedley bằng một khởi đầu vô cùng cơ bản đã khái quát hóa một trong những vấn đề rất đáng quan ngại mang tính toàn cầu. Từ những khởi đầu với các khái niệm vô cùng cơ bản đến cuộc vạch trần những mối xung đột trong việc giải quyết ô nhiễm không khí, từ lời cảnh báo đủ thứ căn bệnh đến những điểm sáng của sự nỗ lực; Giành lại không khí sạch phổ quát, lý thú nhưng đầy gần gũi về cách chúng ta sống, cách ta đối xử với mẹ thiên nhiên, với bầu khí quyển; để thông qua đó, lựa chọn hành động của mỗi một người là rất cần thiết. Rất đáng trải nghiệm.

Hết.

Ngô Thuận Phát

Chú thích:

  1. Truyện trẻ con – A. S. Byatt.
  2. Báo cáo của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc.

*

Những bài viết về Giành lại không khí sạch:


Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng