Phía sau trang sách

Biên sử nước: Tới thời thoát thai

Published

on

Chẳng cách nào đóng lại được cơn hồng thủy đã mở – Biên sử nước

Không thể dừng lại được. Tiếng nước trầm trầm miên man. Lạnh lùng và bí ẩn – Thoạt kỳ thủy

Văn chương đương đại Việt Nam những năm gần đây có thể nói không nhiều đột phá. Từ những thế hệ tinh hoa cũ như Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Huy Thiệp, Châu Diên, Dương Hướng; thế hệ cải tiến và tiếp nối sau này ngoài Nguyễn Bình Phương, Phan Triều Hải, Tạ Duy Anh và một số nhà văn gốc Việt bên kia bán cầu thì có thể nói là khá ảm đạm. Nguyễn Ngọc Tư từ lâu góp mặt vào văn đàn với tư cách một tiếng nói miền Tây, người phổ quát cái mùi phèn phèn chua chua của sông nước, phù sa thành ra bán chạy; người trở thành bảo chứng cho hàng ngàn bản in được ra mắt mà ngoài Nguyễn Nhật Ánh, chắc không ai khác ngoài chị làm được. Thế nhưng thế giới văn chương của Nguyễn Ngọc Tư, ngoài cái mặn mòi chua xót cho phận đàn bà, ngoài cái không khí miền Tây phóng khoáng mà cù bất cù bơ, thì còn gì khác? Đôi khi ta thấy, chị lặp lại bản thân mình trong cái vùng đất cũng nhỏ bé chỉ như một chấm trên bản đồ. Với Biên sử nước, ít nhiều chị đã thay đổi. Vẫn bối cảnh ấy, vẫn câu chuyện ấy – nhưng cách tiếp cận đã khác hơn, đã sâu sát hơn và dấn thân hơn.

Những địa ngục song song

Cái tên Biên sử nước dễ gợi nên thứ gì đó dài đằng đẵng mà hào nhoáng tự trong chính bản thân nó, dù nghịch lý ở chỗ tiểu thuyết này chỉ dài đúng 125 trang về mặt ngoại vi. Điều này dễ hiểu, dễ cảm mà cũng không bất ngờ, vì hầu hết tiểu thuyết, truyện ngắn cũng như tản văn trước đó của chị – tất cả đều khinh thị độ dài. Dường như chị đương trở thành nhân vật của chính mình, biến hóa thành kẻ ăn chữ, ăn hết những gì thừa thãi, không cần thiết. Với độ dài và cái tên ấy, nó liền gợi nhớ một tác phẩm khác của Nguyễn Bình Phương – Thoạt kỳ thủy – khi cũng tương tự những mặt ngoại vi đó. Nếu Nguyễn Ngọc Tư làm nên không khí miền Tây hòa trộn bằng văn xuôi, câu văn tuy dài nhưng không thừa thãi mà ướp kĩ bằng nỗi xót xa đồng cảm cho phận đàn bà; thì Nguyễn Bình Phương biến hóa khôn lường với lối song tấu khi hình thức là văn xuôi nhưng nhịp điệu thực chất là thơ. Thoạt kỳ thủy là một tiểu thuyết, cũng là bài trường thơ với những câu ngắn, gọn, sắc, gấp gáp, thôi thúc mà đầy gợi hình. Hai người, hai cá tính, hai cách thể hiện; thế nhưng không gian của Nguyễn Bình Phương và Nguyễn Ngọc Tư dường như đã gặp và giao hòa nhau, chuếch choáng giữa một thế giới nội tâm và những hiển hình bên ngoài. Dù sâu dù nông, ít ra cả hai là một bàn tiệc đầy ắp vặn xoắn tinh thần, một phút nhìn lại, một phút ngó ngang.

Về mặt không gian, cả Nguyễn Ngọc Tư và Nguyễn Bình Phương đều an toàn trong khoảng không thường thấy của mình. Nếu Nguyễn Bình Phương trải suốt các tiểu thuyết từ Những đứa trẻ chết già, Kể xong rồi đi cho đến Thoạt kỳ thủy là vùng Thái Nguyên với làng quê Bắc Bộ nhợt nhạt mà sôi âm ỉ lùng bùng; thì Nguyễn Ngọc Tư vẫn cù lao, sông rạch, bùn đất, sông con tẻ ra nhiều nhánh. Thế nhưng về mặt ngoại vi, đó dường như chỉ là bao tải chứa đựng nhân vật, cung cấp điểm nhìn cho độc giả dễ bề cảm nhận. Nhìn sâu một chút, đó còn là những điều khác. Linh Sơn, núi Hột hoàn toàn có thật ở đất Thái Nguyên; còn Cù lao Lẻ, còn vùng Yên Xuyên chỉ là hư cấu. Thế nhưng thật hay không, cả hai tác giả đều dựng nên đằng sau một phông nền hoàn chỉnh khác nhau cho sự cảm nhận.

Nếu Nguyễn Bình Phương viết về lãnh địa của nghề đập đá, mổ heo, giết lợn – nơi người bình thường và đám người điên sống cùng với nhau, thì Nguyễn Ngọc Tư mơ hồ và nhạt phai hơn về một nơi không có gió. Juan Rulfo đã khởi đầu Pedro Páramo bằng nơi không có gió, nơi nóng ngột ngạt và đi xuống mãi, thì cũng tương tự, Nguyễn Ngọc Tư và vùng đất của mình cùng chung đặc điểm như thế. Ở cái cù lao trống hoác, khó mà nhận biết có thứ như gió tồn tại. Không có tấm tôn sứt đinh để giật giũ từng chặp, không có quần áo phơi trên sào cho gió thao túng, không ngọn cỏ nào ngã rạp […] Không gió mà nghe lạnh, trời kín bưng. Có thể độc giả chỉ mơ hồ tưởng tượng về vùng cù lao vô danh – nơi mọi chi tiết nếu có trùng hợp chỉ là vô tình; thì cũng rất có thể, nó là một không gian thực, nhiều hơn hai chiều, mà một chiều trong đó là chiều các nhân vật này đã đi xuống mãi, xuống mãi để rồi bặt tích.

Những nhân vật trong cả hai tiểu thuyết đều mang trong mình những ám ảnh nhất định đối với cuộc sống. Nếu Nguyễn Ngọc Tư cho rất nhiều Phúc bồng bế con theo tìm đường hành hương về với Đức Ngài, thì với Nguyễn Bình Phương là cái ngột ngạt, tù túng, kìm nén, sục sôi của những nỗi niềm không được bày tỏ. Hành trình ôm con chạy đi chữa bệnh, quãng đường chạy trốn khỏi những ác tâm… tất cả tụ về nơi cù lao lẻ. Tính sông nước, bùn đất của Biên sử nước phá tan cái không khí ngột ngạt tương đồng của Nguyễn Bình Phương, mà có thể nói, không gian của Biên sử nước là một địa ngục miền Tây – nơi đó có sông, có nước, có mùi; khác xa với những địa ngục của Rulfo hay Nguyễn Bình Phương chỉ lửa, chỉ trăng và cái nóng ngột ngạt.

Những thân phận kìm nén

Những người đàn bà của cả hai tiểu thuyết đều kìm nén trong mình một nỗi tự do mong muốn giải thoát. Trong Thoạt kỳ thủy, những tình cảnh này thông qua bạo lực, dục tính, điên cuồng; còn với Biên sử nước điều đó nhẹ nhàng hơn, bình dị hơn mà cũng Tây phương hơn, như hình ảnh Đức mẹ sầu bi ôm thi hài Chúa. Ở đây, Nguyễn Ngọc Tư tạo ra một thế đối ngẫu đối với người đọc về mặt động cơ của cuộc chạy trốn. Rốt cuộc rồi thì, mục đích của việc chạy trốn là vì đứa con hay chính người mẹ? Chị Tùy theo Viễn để quên khóa nước, chị Cẩm và sự thờ ơ ghét bỏ của người sống chung, cô Phúc nhà ở trại mộc vì sự nhẫn tâm, chị Phúc phóng viên vì cuộc điều tra để rồi trở thành một người đàn bà đến với Đức Ngài. Đứng bên bến đò nhìn qua cái cù lao đang thoi thóp, giày lem bụi, ẵm con búp bê không biết của ai. Tôi người Yên Xuyên, tên Phúc.

Lần giở những lần tụ hội về cùng Đức Ngài của những cô Phúc, điều trở thành động cơ sau này của các chị gái đều là cấm đoán hay nỗi buông xuôi phó mặt cho đời. Trong nguồn cơn của cơn khởi thủy, chị Tùy sau khi chạy trốn đã nhận ra rằng Thứ hạnh phúc khiến người ta điên tiết. Chẳng người đàn bà nào thích ai đó hạnh phúc hơn mình. Không những đàn bà, mà cả đàn ông và cả loài người. Những người đàn bà của miền sông nước chạy đến để xin móng tay, buồng phổi, đôi mắt, cỏ cây, đất cát thuộc về Đức Ngài nhằm muốn thoát xác, trở thành những con bướm xinh tung tăng cả đời như chính chị Thu; nhưng họ cũng không thể ngờ, chính Đức Ngài và bản thể ấy cũng là dối lừa, là mất tự do, là ngọn lửa thù bởi Báo dành cho Cô Long. Đến cuối rồi thì, chẳng ai hạnh phúc, chẳng ai được gì; bởi toàn dối lừa, bởi toàn trêu ngươi và cơn hồng thủy một khi đã mở thì chẳng dừng lại được.

Trong Thoạt kỳ thủy, Nguyễn Bình Phương xây dựng nên nhân vật Tính với phong cách vô cùng kỳ lạ. Có những nhận định bảo Tính mắc chứng tâm thần nặng. Thế nhưng hãy nhìn xa hơn và thật bao quát, liệu Tính có đang bị điên trong cơn thảm sát đầy những ám ảnh? Theo tôi, thật ra Tính tỉnh hơn rất nhiều người, và anh chủ tâm chọn lựa cuộc sống trong vùng từ trường ấy. Chẳng kẻ tâm thần nào thơ mộng đến độ nhận thức được trăng, được máu, được rắn như chính y cả. Cả một xã hội bao quanh cậu Tính được Nguyễn Bình Phương tạo ra đều sống ức chế, không vì cái này, cũng vì cái khác. Trong đấy ít ra lũ điên, Tính và Hưng là tự do nhất, là thỏa mãn nhất. Cũng như Nguyễn Ngọc Tư vậy. Rốt cuộc đến cuối, những người đàn bà không căn cước lại sống đúng nhất và sung sướng nhất. Không kể chị Khùng, cô Phúc mắt bò không còn gắn chặt cửa hàng tiện lợi, chị Phúc thợ mộc không còn căm ghét chịu sự nhẫn tâm, cô Phúc phóng viên không còn thấy cha nhanh nhảu xả tang đến với vợ khác, cô Phúc mà cái bóng chỉ đẻ ra bóng, chỉ có ăn tim người mới đẻ ra người ai biết đẻ bóng hay người? Đó dường như là sự giải thoát.

Những hình tượng chính

Về phong cách viết – như đã nói trên, Nguyễn Bình Phương viết ngắn, gọn, mạch nhanh. Tưởng chừng lời văn trở thành lời thơ, vì nó vừa đủ, không dư, không thiếu, có vận động ngầm, ẩn dụ, hình tượng. Giữa những u mê tưởng chừng không kết thúc ấy, ít nhiều nỗi đau chiến tranh lần lượt hiện lên. Chi tiết Hưng mang gà gô về thờ cúng mẹ hay thằng điên chia đường phèn cho Tính, tất cả cho thấy rốt cuộc dở dở ương ương không đến mức tệ. Hình ảnh ở đây đạt được mức độ ám ảnh, thế nhưng dễ hình dung, liên kết và tưởng tượng – máu tây máu ta, máu anh máu chú, máu người máu vật cuối cùng rồi thì cũng là máu thôi – máu chiến tranh, máu ngục tù, máu đè nén, máu chia xa. Cũng cái máu vô hình ấy, Nguyễn Ngọc Tư thu lại như cơn mưa tới, tống vào đường ống, xả tràn không thôi từ chính xô nước đầy ngập xà phòng, mà chỉ ai vặn mới có thể tắt, trước khi con tàu vờn tới chỉ chờ thả khói. Chị Tùy cũng như anh Tính, không ai muốn quay đầu lại. Chị biết, anh biết những gì xảy ra nhưng rồi bất lực cuốn phăng mọi thứ. Một thế giới mới, một ngọn lửa tham, một vùng biển nước – xóa trắng, thành hình và tái sinh.

Hình tượng con cú bị thương quắp đi con rắn mơ hồ là dòng sông quê trong Thoạt kỳ thủy như kéo biển nước từ dòng sông máu phủ lên tất cả. Con cú bị thương ở ngay ngực ấy được nước nuôi dưỡng, cũng như con tim Đức Ngài đã bị cắm phặp xuống dưới đáy bùn sình. Nước bao quát, phủ khắp trang văn của Nguyễn Ngọc Tư, nước đến cuối xuất hiện để rồi vỡ oà dưới những móng vuốt của loài cú đêm trong Nguyễn Bình Phương đều là khởi thủy làm lại từ đầu. Cả hai tác giả đã mượn chính cơn hồng thủy tuôn trào kéo tới xóa đi cái ngột ngạt tự do, xóa đi kìm hãm tột cùng ẩn sâu để đến một thế giới mới, thanh tẩy, xóa trắng và làm lại. Chẳng cách nào đóng lại được cơn hồng thủy đã mở. Không thể dừng lại được. Tiếng nước trầm trầm miên man. Lạnh lùng và bí ẩn. Mắt chó vàng như trăng.

*

Khép lại cả hai cuốn sách, Nguyễn Bình Phương và Nguyễn Ngọc Tư đã mang đến được một góc nhìn khác cho văn chương đương đại Việt Nam của những ngày này. Nguyễn Bình Phương vẫn thế, đứng đó chứng tỏ vị thế của mình với lối viết đẹp, phong cách mới lạ mà đầy thách thức. Không gian của Nguyễn Bình Phương luôn là ranh giới giữa mơ và thực để rồi vỡ toang trong cơn ám ảnh của những kìm nén đến thời ào ra. Và với Biên sử nước, Nguyễn Ngọc Tư cũng dấn thân vào đó, viết như mơ, như trôi; về con nước cuốn phăng làm lại từ đầu.

Hai cuộc giải phóng, hai cuộc thoát thai; với Biên sử nước và Thoạt kỳ thủy, một Nguyễn Bình Phương luôn được công nhận, và một Nguyễn Ngọc Tư trên con đường mới, tìm ra hướng đi cho văn chương mình. Thoạt kỳ thủy đậm đặc, Biên sử nước pha loãng; nhưng đều quan trọng và ghi dấu mình. Rất xứng đáng.

Hết.

Ngô Thuận Phát


Đọc những bài viết của Ngô Thuật Phát


Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng