Trà chiều

Personal Shopper: Nỗi sợ hãi là thứ để quan sát và nghi vấn

Published

on

Nếu trong văn học, thông qua tác phẩm The New York Trilogy, Paul Auster đã tạo ra một thể loại mà nhiều người gọi là giả trinh thám thì trong điện ảnh, Olivier Assayas cũng đã làm điều tương tự với Personal Shopper, chỉ khác là ở đây chúng ta có phim giả kinh dị chứ không phải truyện giả trinh thám. Tuy nhiên, cả hai đều hướng đến việc chuyển hóa câu hỏi “Ai đã làm việc đó?” thành “Tôi là ai?” trong tác phẩm của mình. Và vì vậy, Personal Shopper là cuộc truy cầu về cái tôi bên trong hơn là khách thể bên ngoài.

Cảnh đầu tiên của phim là cảnh một chiếc xe hơi dần tiến vào bên trong ngôi nhà hoang vắng nằm trên sườn núi. Maureen (Kristen Stewart) chia tay với cô chủ nhà Lara (Sigrid Bouaziz) để vào ngủ qua đêm một mình tại ngôi nhà. Đây là cảnh mở đầu rất thường gặp trong phim kinh dị. Không để khán giả phải đợi lâu, vài phút sau đó, Maureen cảm nhận điều kì lạ trong ngôi nhà vào tối hôm ấy. Cô dường như đang cố gắng tìm cách liên lạc với linh hồn nào đó. Và ngay trong cảnh này – cảnh nội về đêm đầu tiên của phim, chúng ta có thể nhận thấy một số điều trái với cách xử lí thông thường của phim kinh dị. Ở cảnh này, bóng tối tràn ngập khắp khung hình đến nỗi hậu cảnh hoàn toàn tối đen trong thời gian khá dài; và do đó, khán giả chỉ thấy được khuôn mặt Maureen khi cô dò dẫm bước đi trong nhà. Với những phim kinh dị khác, dù nhân vật có bước vào nơi tối tăm thế nào, hậu cảnh cũng không bao giờ hoàn toàn đen tuyền mà khán giả vẫn có thể thấy lờ mờ đồ vật, không gian xung quanh – chính điều này tạo ra sự sợ hãi, duy trì sự hồi hộp khi ta vừa mơ hồ cảm nhận mối nguy hiểm, vừa thấy được một chút ngoại cảnh xung quanh song lại không nắm rõ được hết tất cả những góc khuất mà từ đó, một thế lực tàn ác sẽ thình lình lao vào tấn công ta. Cũng chính vì điều này, khi hậu cảnh đã mất đi hay bị đồng hóa với bóng tối nguyên sơ, công tắc nỗi sợ hãi đã được gạt xuống; thay vào đó, sự tập trung dành cho tiền cảnh – tức nhân vật chính của chúng ta được tăng cường hơn bao giờ hết. Nỗi sợ hãi không tồn tại mà chỉ có sự quan sát nỗi sợ hãi, hay gần như sợ hãi từ người bạn chúng ta vừa quen và chưa biết nhiều thông tin về cô. Thông qua cảnh này, có lẽ Assayas muốn ẩn ý với khán giả rằng cuộc tìm kiếm đối tượng siêu nhiên thực chất không quan trọng, thứ chúng ta hay Maureen cần tập trung hơn chính là bản ngã của cô. Và tinh thần ấy được duy trì suốt phim.

Sau đó, ta biết được Maureen có người anh trai sinh đôi mắc bệnh tim hiếm gặp đã chết vì đột quị và Maureen cũng mắc căn bệnh tương tự, cần được theo dõi thường xuyên. Lewis – anh trai của Maureen có khả năng ngoại cảm, anh tin rằng Maureen cũng có khả năng đó, hai người lập giao ước nếu một trong hai chết trước, người chết phải tìm cách liên lạc với người còn sống trong vòng ba tháng. Maureen tuy không tự tin vào khả năng ngoại cảm của mình nhưng luôn chờ đợi anh. Ban ngày, cô làm trợ lí thời trang cho người mẫu Kyra (Nora von Waldstätten); về đêm, đôi khi cô ngủ lại nhà cũ của Lewis để chờ đợi những tín hiệu. Như những phim tâm lí thông thường của Pháp, Personal Shopper kiệm lời thoại, những tình huống kịch tính và không có cú hook đầu phim hay inciting incident để lôi khán giả hòa vào câu chuyện với những thách thức, bí ẩn được đặt ra cho nhân vật. Vì vậy, lớp truyện trên không phải được khám phá qua hồi một của phim theo kiểu cấu trúc Hollywood chia ba hồi rõ ràng; ngược lại, nó là sự góp nhặt từng mảnh vụn chi tiết thông qua sinh hoạt của nhân vật và đối thoại rải rác trong phim. Điều đó cũng có nghĩa là chẳng có bất kì sự kiện nào trong phim bị đặt vào tình thế cấp bách, cần phải giải quyết khẩn trương trong khoảng thời gian có hạn (một quả bom cài giờ đặt dưới bàn, như cách nói của Hitchcock). Việc này khiến cho cảm giác về thời gian trong phim không còn quan trọng nữa. Vì được kéo dài tùy ý, thời gian trở thành thứ chậm chạp, uể oải – nơi mọi thứ diễn ra mà không thực sự diễn ra; do đó, khi có ai hỏi Maureen rằng cô đang làm gì, cô đều ngần ngừ trả lời rằng: “Tôi đang đợi.” Tuy rằng, cô biết mình chờ đợi điều gì nhưng lại không chắc chắn về điều mình chờ đợi; điều đó khiến cho cái chờ của cô phần nào đó tương tự như “chờ Godot”. Và như thế, dù có rất nhiều sự kiện diễn ra trong Personal Shopper, chúng thật sự không dẫn đến kết quả nào cụ thể vì mục tiêu của chúng đều là để chờ đợi; để bị nhốt, bị giới hạn trong nhà tù có tên chờ đợi; để là một thành phần trong tổ hợp chờ đợi và không bao giờ vượt thoát khỏi nó. Vậy nên, Personal Shopper được kể ra không phải để thấy kết quả của sự chờ đợi, nó chỉ trình hiện sự chờ đợi.     

Phong cách giả tài liệu mà các nhà làm phim Pháp thường theo đuổi: không kể chuyện bằng việc tập trung vào một biến cố kịch tính mà tản mác giữa các sự kiện đặc biệt là những sinh hoạt đời thường của nhân vật; đã tạo ra sự đa thanh cho Personal Shopper. Ở những phân cảnh Maureen đi shopping, chìm đắm trong cuộc sống chán chường với công việc cô không thực sự thích nhưng lại không thể từ bỏ khiến bộ phim mang màu sắc tâm lí xã hội kể về cô gái trẻ cô độc. Những phân cảnh Maureen cố gắng tìm cách liên lạc với anh trai về đêm, như đã phân tích, lại khiến bộ phim mang màu sắc semi-horror hay mystery. Cuối cùng, những phân cảnh Maureen nhắn tin qua lại với một người người ẩn danh dường như đang quan sát rất rõ cuộc sống của cô khiến bộ phim mang màu sắc thriller. Điều quan trọng là, không một thể loại nào giữ vai trò chủ đạo trong phim, tất cả như những nhân cách bình đẳng với nhau, thay phiên nhau bước ra sân khấu trong bộ phim đa nhân cách này. Với một số người, đây có thể là nguyên nhân khiến họ không thích Personal Shopper vì sự rời rạc ấy. Tuy nhiên, tôi lại thích chính sự rời rạc đó, nó cho tôi cảm giác lạc lõng, hoang mang, chán nản, muốn buông xuôi tất cả mọi thứ của Maureen. Dường như, tôi cũng đang trải qua giai đoạn giống như chính cô. Tôi không biết mình thực sự muốn làm điều gì, hay tôi biết mình muốn làm điều gì nhưng vẫn còn đang chờ đợi điều gì đó khác nằm ngoài mình mà chính tôi cũng không rõ đó là điều gì. Mọi thứ rời rạc và mỏi mệt trong khi chính bản thân tôi lại không có quyết tâm để đi theo bất cứ con đường nào, trong lòng luôn mấp mé suy nghĩ về sự lựa chọn tối hậu là buông xuôi tất cả, mặc ngày mai ra sao. Tôi xem Personal Shopper trong một cơn sốt, người tôi hơi nóng, cổ họng đau ran, mũi cứ nhập nhèm nước. Chính vì vậy, có lẽ bản thân cơn bệnh đó đã góp phần phủ thêm lớp màu buồn bã khi tôi xem phim, khiến cho bộ phim trong tôi trở nên buồn hơn mức nó có thể tác động nếu như tôi xem trong tình trạng cơ thể bình thường. Nhưng xem phim khi bị bệnh cũng có cái hay: nó khiến ta hoàn toàn bấu víu vào màn hình như loài kí sinh trùng để tìm một cơ thể khỏe mạnh khác ngõ hầu làm nguồn sống cho sự sinh tồn rã rời của mình. Vậy nên, tôi rất thích cách Maureen trả lời ấp úng nhưng thường xuyên lặp đi lặp lại câu: “Tôi đang đợi.”

Diễn xuất của Kristen Stewart trong Personal Shopper bị một số nhà phê bình trên Rotten Tomatoes chê là còn nhiều hạn chế. Tôi có thể hiểu vì sao có luồng ý kiến này. Khuôn mặt cô không có nhiều biểu cảm trong phim; hơn nữa, các phân đoạn đẩy cảm xúc lên mức kịch tính trong Personal Shopper cũng không nhiều. Tuy nhiên, tôi lại thích sự ít biểu cảm này bởi vì Kristen diễn tả được một sắc thái rất quan trọng trong cuộc sống của Maureen: sự lờ đờ thẫn thờ, thiếu ý chí, mất tập trung. Và, với một người đang chán nản cuộc sống, làm sao họ có thể có biểu cảm đa dạng khi nhìn ngắm mọi thứ xung quanh?

Trong Personal Shopper, Assayas thường xuyên dùng hiệu ứng fade out cảnh sang khung hình đen để chuyển giữa ngày này với ngày kia, sự kiện này với sự kiện kia. Đây là điều mà thông thường các nhà làm phim sẽ cố gắng tránh vì cách chuyển cảnh đơn giản này dễ gây ngắt mạch cảm xúc, khiến bộ phim tựa như sân khấu. Tuy nhiên, chính cách chuyển này lại tạo ra sự phân mảnh, góp phần vào cảm giác rời rạc dành cho phim. Personal Shopper cũng áp dụng thủ pháp tỉnh lược ở một sự kiện – có lẽ là quan trọng nhất trong phim, bằng cách chuyển cảnh đột ngột và sau đó, sự kiện này chỉ được nhắc lại qua lời kể của nhân vật. Việc này có lẽ không gì khác ngoài mục đích tạo thêm sự mờ ảo cho phim.   

Màu sắc trong Personal Shopper rất tối, không chỉ nội cảnh ban đêm mà còn là ngoại cảnh ban ngày. Nghĩa là, màu sắc được chỉnh ở mức low contrast; và chính sự ít tương phản hay chỉ tương phản vừa đủ ấy trong phong cách flat color grading lại khiến cho mọi thứ mang cảm giác thực tế khi nhân vật như chìm vào cảnh vật, hoàn toàn không quá nổi bật.

Ở một trong những cảnh gần cuối phim, Olivier Assayas có cách xử lí khiến tôi nhớ đến It Follows của đạo diễn David Robert Mitchell. Đó là cảnh trung cho thấy Maureen đang ngồi trong vườn thẫn thờ trầm tư, đằng sau cô là dáng người bình thường cầm chiếc ly đi qua khung cửa sổ nhà bếp, và khi đến gần cánh cửa, người xem chỉ còn thấy mỗi chiếc ly lơ lửng trên không vài giây rồi vỡ tan tành xuống đất. Tuy nhiên, khác với It Follows, cảnh ấy không gây cảm giác đáng sợ, chỉ là chút kì lạ và nỗi buồn mơ hồ gợn lên trong lòng khi ta biết rằng mình chẳng bao giờ thấy được rõ ràng điều mình muốn thấy – trong trường hợp của Maureen là bằng chứng cho sự tồn tại của người anh trai đã mất.

“Anh đang ở đây phải không?”

“Hay chỉ có một mình em thôi?”

Một tiếng giậm chân không rõ nguồn cơn vang lên trong không trung.

Đó là sự đồng ý cho câu hỏi nào, hay thậm chí, có thể là cho cả hai câu hỏi trái ngược đến mức triệt tiêu nhau như thế, điều ấy sẽ phụ thuộc vào sự lựa chọn riêng của mỗi người.   

Điểm đánh giá: 7/10
Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Book trailer

5 tựa sách cho ngày hè nhàn rỗi

Published

on

By

5-tua-sach-cho-ngay-he-nhan-roi

Từ những cuốn sách phơi bày hậu chứng chiến tranh cho đến những cuốn tiểu thuyết ghi lại thân phận nhỏ bé, mong manh, trôi dạt của con người... Các tác phẩm sau là lựa chọn tuyệt vời cho một ngày hè nhàn rỗi, để tìm thêm lại những phong vị mới.

Đuổi theo ánh sáng – Oliver Stone

Là biên kịch và đạo diễn từng 3 lần đoạt giải Oscar với những tác phẩm nổi tiếng như Express Midnight, Scarface, Salvador, Platoon... cũng như những người ngoại đạo, hành trình vươn đến đỉnh cao trong môn nghệ thuật thứ 7 của Oliver Stone luôn không dễ dàng. Đuổi theo ánh sáng là cuốn hồi ký được ông chắp bút, đưa ta đi từ những ngày đầu tiên ở nước Mỹ huyền diệu, đến tuổi trưởng thành nhiều mới mẻ trong chiến tranh Việt Nam và hành trình nếm mật nằm gai để vươn đến hào quang của Hollywood.

Trong cuốn sách này, ta sẽ thấy bên cạnh một cái tên được ngợi ca cũng là một con người bất toàn, mắc nhiều tội lỗi và cũng có lúc tưởng chừng buông xuôi. Thế nhưng chính quyết tâm, nỗ lực và sức mạnh nội tại đã giúp cho ông vẫn luôn duy trì tình yêu với quỹ đạo đời mình. Đó cũng là một bài học xoay quanh thông điệp luôn luôn vươn lên, từ đó tìm thấy ý nghĩa cho cuộc đời mình.

Với cách viết chân thành, gần gũi, đan kết với nhiều hình tượng, cảnh huống được lấy ra từ các thần thoại cũng như tác phẩm văn chương, phim ảnh nổi tiếng... Đuổi theo ánh sáng không chỉ đơn thuần là một cuốn hồi ký, mà cũng đồng thời là một tác phẩm văn xuôi hấp dẫn về một thời đoạn của tuổi trẻ lạc lối và tuổi trưởng thành không ngừng bỏ cuộc. Một tác phẩm vượt ra khỏi biên giới thể loại để mang đến câu chuyện phổ quát và thông điệp ý nghĩa cho những cá nhân vẫn đang chật vật trên con đường sự nghiệp của bản thân mình.

Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm – Le Thi Diem Thuy

Thuộc thế hệ thứ 2 của những cây bút “di dân”, Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm tuy có dung lượng tương đối khiêm tốn, nhưng nội dung mà nó truyền tải lại vô cùng lớn về mặt cảm xúc cũng như ấn tượng đến từ người đọc. Đó là hành trình tìm lại cội nguồn, xác định bản lai diện mục của một cá nhân với lai lịch “dị thường” qua thứ văn chương đẹp đẽ, thơ mộng với nhiều hình ảnh ám ảnh nối nhau cho đến vô cùng. Le Thi Diem Thuy sở hữu ma thuật của từ ngữ, để nhào nặn nó thành những ấn tượng không thể nào phai.

Cõi người và thân phận ấy cũng mong manh như con bướm suốt đời lưu cữu trong thứ thủy tinh trong suốt và nhìn thấu được. Kiếp người di dân cũng mãi tạc ghi vào mã gene mình ám ảnh về nước, dẫu là cái hồ trong khu dân cư hay thứ nước biển mặn chát của những con thuyền lênh đênh trên biển... thì cũng hình thành ở họ nỗi sợ nguyên thủy về số phận mình và thân phận mình giữa dòng chìm nổi. Le Thi Diem Thuy nắm bắt được chúng một cách tinh tế, và dàn trải ra giữa các trang viết một cách chân thành mà không lên gân.

Về mặt văn chương, Le Thi Diem Thuy cùng Ocean Vuong là 2 nhà văn đại diện cho khả năng nắm bắt được từng khoảnh khắc và cấp đông nó cho đến vĩnh cửu. Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm hay Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian là các tác phẩm có nhiều tầng nghĩa, làm xúc động cả những ký ức cá nhân hay nỗi đau cộng đồng. Và sức ám ảnh ấy sẽ lại khởi đầu mỗi khi những dòng chữ đầu tiên hiện ra và người đọc bị cuốn theo dòng nước ấy.

Những kẻ tuyệt vọng – Minh Tran Huy

Văn chương di dân khắc ghi trong lòng người đọc rất nhiều ấn tượng xoay quanh chủ nghĩa hiện thực, thế nhưng với Minh Tran Huy, cô đã làm điều đó một cách văn chương và vị nghệ thuật đến không ngờ đến. Ở Những kẻ tuyệt vọng ta sẽ không tìm thấy những gia đình tan nát của các thuyền nhân, ta cũng không thấy những chật vật hòa nhập với cuộc sống mới một cách hiển hình... mà thay vào đó là sự giao hòa của những tâm thức với các câu chuyện mang tính đại diện khác lạ.

Cuốn sách kể về chuyện tình vô cùng tươi đẹp của Lise và chàng Louis đầy những khát khao nhưng hành trình đến được với nhau cũng đã trải qua không ít khó khăn cũng như thách thức. Từ Việt Nam đến những lâu đài nước Pháp, từ những công viên bên bờ sông vắng lặng đến tàn tích lâu đài của thời Trung cổ... Cuốn sách xé toạc những đường biên không – thời gian để mang đến một tác phẩm lạ lẫm, thách thức, không ngừng chờ được giải đáp.

Điều ta tìm thấy trong tiểu thuyết này là sự giao thoa của Đông với Tây, của quá khứ với hiện đại, của Á và Âu trong sự tương đồng và phát triển thêm từ Trọng Thủy – Mỵ Châu đến Tristan - Iseult, hay bộ tứ Tấm Cám – Lọ Lem – Bạch Tuyết – Công chúa ngủ trong rừng.... Mang đậm màu sắc của Angela Carter trong không khí Gothic được phối trộn với trọng tâm di dân, đây là cuốn tiểu thuyết được đẩy đến đường biên của những thể nghiệm, đòi hỏi một sự truy tầm giá trị sâu xa hơn việc thưởng thức. Có thể nói Minh Tran Huy đã viết nên một tác phẩm ấn tượng, độc đáo và không thể quên.

Khát khao cây cỏ - Michael Pollan

Từ trước đến nay, trong các tác phẩm nghiên cứu, con người luôn chứng minh mình là chủ nhân của mọi thứ, là đối tượng tác động, là tác nhân chủ chốt... Nhưng với Khát khao cây cỏ, Michael Pollan đã thực hiện điều ngược lại, khi đặt ra một câu hỏi vô cùng thách thức, rằng thực vật nghĩ gì về ta, liệu con người có thật là phía nắm chuôi, quyết định mọi thứ cho giống loài vốn được ngầm hiểu là không có trí thông minh hay nhạy bén này?

Câu hỏi nói trên đã được giải đáp qua 4 phần lớn xoay quanh loài táo, tulip, cần sa và khoai tây, gắn với khát khao vị ngọt, vẻ đẹp, niềm hứng thú và sự an toàn. Từ các rừng táo ở nước Mỹ đến các thùng container trồng cần sa nhân tạo ở Amsterdam, từ ngày hiện tại trong công nghệ biến đổi gen ở khoai tây cho đến nhiều thế kỷ trước khi cơn sốt tulip vẫn còn là thứ gì đó cực kỳ bùng nổ... Pollan từng bước dẫn ta vào mạng lưới gắn kết đặc biệt, để biết con người xét cho đến cùng chỉ là một cực của các mối quan hệ, trong tính chủ động cũng như bị động.

Những câu chuyện về Johnny Hạt Táo, đặc tính có kế hoạch theo trường phái Apollo hay hoang dã của Dionysus... đã đưa người đọc không chỉ lướt qua lịch sử mà các loài cây gắn liền, mà cũng đồng thời là một biên niên sử về các khao khát và niềm đắm say của nhân loại này. Có thể xem đây là một tác phẩm rực rỡ, bao quát và choáng ngợp về mối gắn kết giữa con người cùng tự nhiên.

Con đường thủy vào Trung Hoa - Milton Osborne

Những ngày gần đây câu chuyện xoay quanh sông Mekong bỗng nóng trở lại trong việc xây dựng kênh đào Phù Nam và những được – mất sau đó. Chính điều này cũng đưa ta về lại với quá khứ của hơn 100 năm trước, khi những người Pháp tiên phong đã cố gắng tìm con đường thủy cho việc giao thương nối liền từ điểm tận cùng đổ ra biển Đông trên đất An Nam với thượng nguồn từ dãy Himalaya ở nơi đầu mút Trung Quốc.

Con sông hùng vĩ phần nào dự báo tầm vóc của cuộc thám hiểm, và quả đúng như thế, những gì được Milton Osborne kể lại có thể được xem như một bằng chứng lịch sử, nhưng cũng có thể quan niệm đó là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu nói gót những Thuyền trưởng Corcoran hay tác phẩm của Conrad danh tiếng... Những khó khăn, thách thức; sự thịnh vượng, trù phú nhưng cũng nguy hiểm chết người của miền nhiệt đới... cho ta thấy rằng con đường khai sáng của nơi mẫu quốc chưa khi nào là dễ, chưa cần bàn đến niềm tin, ý dân hay là những thứ thuộc về tư tưởng.

Bằng việc khai thác nguồn sử liệu phong phú và cách kể chuyện cuốn hút, Con đường thủy vào Trung Hoa là một tác phẩm đáng đọc, nên đọc, để biết về những khó khăn của con đường khai sáng văn minh, cũng như sự huyền diệu của miền nhiệt đới từ trăm năm trước hay trăm năm sau vẫn mãi như vậy.

Đọc bài viết

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng