Trà chiều

Personal Shopper: Nỗi sợ hãi là thứ để quan sát và nghi vấn

Published

on

Nếu trong văn học, thông qua tác phẩm The New York Trilogy, Paul Auster đã tạo ra một thể loại mà nhiều người gọi là giả trinh thám thì trong điện ảnh, Olivier Assayas cũng đã làm điều tương tự với Personal Shopper, chỉ khác là ở đây chúng ta có phim giả kinh dị chứ không phải truyện giả trinh thám. Tuy nhiên, cả hai đều hướng đến việc chuyển hóa câu hỏi “Ai đã làm việc đó?” thành “Tôi là ai?” trong tác phẩm của mình. Và vì vậy, Personal Shopper là cuộc truy cầu về cái tôi bên trong hơn là khách thể bên ngoài.

Cảnh đầu tiên của phim là cảnh một chiếc xe hơi dần tiến vào bên trong ngôi nhà hoang vắng nằm trên sườn núi. Maureen (Kristen Stewart) chia tay với cô chủ nhà Lara (Sigrid Bouaziz) để vào ngủ qua đêm một mình tại ngôi nhà. Đây là cảnh mở đầu rất thường gặp trong phim kinh dị. Không để khán giả phải đợi lâu, vài phút sau đó, Maureen cảm nhận điều kì lạ trong ngôi nhà vào tối hôm ấy. Cô dường như đang cố gắng tìm cách liên lạc với linh hồn nào đó. Và ngay trong cảnh này – cảnh nội về đêm đầu tiên của phim, chúng ta có thể nhận thấy một số điều trái với cách xử lí thông thường của phim kinh dị. Ở cảnh này, bóng tối tràn ngập khắp khung hình đến nỗi hậu cảnh hoàn toàn tối đen trong thời gian khá dài; và do đó, khán giả chỉ thấy được khuôn mặt Maureen khi cô dò dẫm bước đi trong nhà. Với những phim kinh dị khác, dù nhân vật có bước vào nơi tối tăm thế nào, hậu cảnh cũng không bao giờ hoàn toàn đen tuyền mà khán giả vẫn có thể thấy lờ mờ đồ vật, không gian xung quanh – chính điều này tạo ra sự sợ hãi, duy trì sự hồi hộp khi ta vừa mơ hồ cảm nhận mối nguy hiểm, vừa thấy được một chút ngoại cảnh xung quanh song lại không nắm rõ được hết tất cả những góc khuất mà từ đó, một thế lực tàn ác sẽ thình lình lao vào tấn công ta. Cũng chính vì điều này, khi hậu cảnh đã mất đi hay bị đồng hóa với bóng tối nguyên sơ, công tắc nỗi sợ hãi đã được gạt xuống; thay vào đó, sự tập trung dành cho tiền cảnh – tức nhân vật chính của chúng ta được tăng cường hơn bao giờ hết. Nỗi sợ hãi không tồn tại mà chỉ có sự quan sát nỗi sợ hãi, hay gần như sợ hãi từ người bạn chúng ta vừa quen và chưa biết nhiều thông tin về cô. Thông qua cảnh này, có lẽ Assayas muốn ẩn ý với khán giả rằng cuộc tìm kiếm đối tượng siêu nhiên thực chất không quan trọng, thứ chúng ta hay Maureen cần tập trung hơn chính là bản ngã của cô. Và tinh thần ấy được duy trì suốt phim.

Sau đó, ta biết được Maureen có người anh trai sinh đôi mắc bệnh tim hiếm gặp đã chết vì đột quị và Maureen cũng mắc căn bệnh tương tự, cần được theo dõi thường xuyên. Lewis – anh trai của Maureen có khả năng ngoại cảm, anh tin rằng Maureen cũng có khả năng đó, hai người lập giao ước nếu một trong hai chết trước, người chết phải tìm cách liên lạc với người còn sống trong vòng ba tháng. Maureen tuy không tự tin vào khả năng ngoại cảm của mình nhưng luôn chờ đợi anh. Ban ngày, cô làm trợ lí thời trang cho người mẫu Kyra (Nora von Waldstätten); về đêm, đôi khi cô ngủ lại nhà cũ của Lewis để chờ đợi những tín hiệu. Như những phim tâm lí thông thường của Pháp, Personal Shopper kiệm lời thoại, những tình huống kịch tính và không có cú hook đầu phim hay inciting incident để lôi khán giả hòa vào câu chuyện với những thách thức, bí ẩn được đặt ra cho nhân vật. Vì vậy, lớp truyện trên không phải được khám phá qua hồi một của phim theo kiểu cấu trúc Hollywood chia ba hồi rõ ràng; ngược lại, nó là sự góp nhặt từng mảnh vụn chi tiết thông qua sinh hoạt của nhân vật và đối thoại rải rác trong phim. Điều đó cũng có nghĩa là chẳng có bất kì sự kiện nào trong phim bị đặt vào tình thế cấp bách, cần phải giải quyết khẩn trương trong khoảng thời gian có hạn (một quả bom cài giờ đặt dưới bàn, như cách nói của Hitchcock). Việc này khiến cho cảm giác về thời gian trong phim không còn quan trọng nữa. Vì được kéo dài tùy ý, thời gian trở thành thứ chậm chạp, uể oải – nơi mọi thứ diễn ra mà không thực sự diễn ra; do đó, khi có ai hỏi Maureen rằng cô đang làm gì, cô đều ngần ngừ trả lời rằng: “Tôi đang đợi.” Tuy rằng, cô biết mình chờ đợi điều gì nhưng lại không chắc chắn về điều mình chờ đợi; điều đó khiến cho cái chờ của cô phần nào đó tương tự như “chờ Godot”. Và như thế, dù có rất nhiều sự kiện diễn ra trong Personal Shopper, chúng thật sự không dẫn đến kết quả nào cụ thể vì mục tiêu của chúng đều là để chờ đợi; để bị nhốt, bị giới hạn trong nhà tù có tên chờ đợi; để là một thành phần trong tổ hợp chờ đợi và không bao giờ vượt thoát khỏi nó. Vậy nên, Personal Shopper được kể ra không phải để thấy kết quả của sự chờ đợi, nó chỉ trình hiện sự chờ đợi.     

Phong cách giả tài liệu mà các nhà làm phim Pháp thường theo đuổi: không kể chuyện bằng việc tập trung vào một biến cố kịch tính mà tản mác giữa các sự kiện đặc biệt là những sinh hoạt đời thường của nhân vật; đã tạo ra sự đa thanh cho Personal Shopper. Ở những phân cảnh Maureen đi shopping, chìm đắm trong cuộc sống chán chường với công việc cô không thực sự thích nhưng lại không thể từ bỏ khiến bộ phim mang màu sắc tâm lí xã hội kể về cô gái trẻ cô độc. Những phân cảnh Maureen cố gắng tìm cách liên lạc với anh trai về đêm, như đã phân tích, lại khiến bộ phim mang màu sắc semi-horror hay mystery. Cuối cùng, những phân cảnh Maureen nhắn tin qua lại với một người người ẩn danh dường như đang quan sát rất rõ cuộc sống của cô khiến bộ phim mang màu sắc thriller. Điều quan trọng là, không một thể loại nào giữ vai trò chủ đạo trong phim, tất cả như những nhân cách bình đẳng với nhau, thay phiên nhau bước ra sân khấu trong bộ phim đa nhân cách này. Với một số người, đây có thể là nguyên nhân khiến họ không thích Personal Shopper vì sự rời rạc ấy. Tuy nhiên, tôi lại thích chính sự rời rạc đó, nó cho tôi cảm giác lạc lõng, hoang mang, chán nản, muốn buông xuôi tất cả mọi thứ của Maureen. Dường như, tôi cũng đang trải qua giai đoạn giống như chính cô. Tôi không biết mình thực sự muốn làm điều gì, hay tôi biết mình muốn làm điều gì nhưng vẫn còn đang chờ đợi điều gì đó khác nằm ngoài mình mà chính tôi cũng không rõ đó là điều gì. Mọi thứ rời rạc và mỏi mệt trong khi chính bản thân tôi lại không có quyết tâm để đi theo bất cứ con đường nào, trong lòng luôn mấp mé suy nghĩ về sự lựa chọn tối hậu là buông xuôi tất cả, mặc ngày mai ra sao. Tôi xem Personal Shopper trong một cơn sốt, người tôi hơi nóng, cổ họng đau ran, mũi cứ nhập nhèm nước. Chính vì vậy, có lẽ bản thân cơn bệnh đó đã góp phần phủ thêm lớp màu buồn bã khi tôi xem phim, khiến cho bộ phim trong tôi trở nên buồn hơn mức nó có thể tác động nếu như tôi xem trong tình trạng cơ thể bình thường. Nhưng xem phim khi bị bệnh cũng có cái hay: nó khiến ta hoàn toàn bấu víu vào màn hình như loài kí sinh trùng để tìm một cơ thể khỏe mạnh khác ngõ hầu làm nguồn sống cho sự sinh tồn rã rời của mình. Vậy nên, tôi rất thích cách Maureen trả lời ấp úng nhưng thường xuyên lặp đi lặp lại câu: “Tôi đang đợi.”

Diễn xuất của Kristen Stewart trong Personal Shopper bị một số nhà phê bình trên Rotten Tomatoes chê là còn nhiều hạn chế. Tôi có thể hiểu vì sao có luồng ý kiến này. Khuôn mặt cô không có nhiều biểu cảm trong phim; hơn nữa, các phân đoạn đẩy cảm xúc lên mức kịch tính trong Personal Shopper cũng không nhiều. Tuy nhiên, tôi lại thích sự ít biểu cảm này bởi vì Kristen diễn tả được một sắc thái rất quan trọng trong cuộc sống của Maureen: sự lờ đờ thẫn thờ, thiếu ý chí, mất tập trung. Và, với một người đang chán nản cuộc sống, làm sao họ có thể có biểu cảm đa dạng khi nhìn ngắm mọi thứ xung quanh?

Trong Personal Shopper, Assayas thường xuyên dùng hiệu ứng fade out cảnh sang khung hình đen để chuyển giữa ngày này với ngày kia, sự kiện này với sự kiện kia. Đây là điều mà thông thường các nhà làm phim sẽ cố gắng tránh vì cách chuyển cảnh đơn giản này dễ gây ngắt mạch cảm xúc, khiến bộ phim tựa như sân khấu. Tuy nhiên, chính cách chuyển này lại tạo ra sự phân mảnh, góp phần vào cảm giác rời rạc dành cho phim. Personal Shopper cũng áp dụng thủ pháp tỉnh lược ở một sự kiện – có lẽ là quan trọng nhất trong phim, bằng cách chuyển cảnh đột ngột và sau đó, sự kiện này chỉ được nhắc lại qua lời kể của nhân vật. Việc này có lẽ không gì khác ngoài mục đích tạo thêm sự mờ ảo cho phim.   

Màu sắc trong Personal Shopper rất tối, không chỉ nội cảnh ban đêm mà còn là ngoại cảnh ban ngày. Nghĩa là, màu sắc được chỉnh ở mức low contrast; và chính sự ít tương phản hay chỉ tương phản vừa đủ ấy trong phong cách flat color grading lại khiến cho mọi thứ mang cảm giác thực tế khi nhân vật như chìm vào cảnh vật, hoàn toàn không quá nổi bật.

Ở một trong những cảnh gần cuối phim, Olivier Assayas có cách xử lí khiến tôi nhớ đến It Follows của đạo diễn David Robert Mitchell. Đó là cảnh trung cho thấy Maureen đang ngồi trong vườn thẫn thờ trầm tư, đằng sau cô là dáng người bình thường cầm chiếc ly đi qua khung cửa sổ nhà bếp, và khi đến gần cánh cửa, người xem chỉ còn thấy mỗi chiếc ly lơ lửng trên không vài giây rồi vỡ tan tành xuống đất. Tuy nhiên, khác với It Follows, cảnh ấy không gây cảm giác đáng sợ, chỉ là chút kì lạ và nỗi buồn mơ hồ gợn lên trong lòng khi ta biết rằng mình chẳng bao giờ thấy được rõ ràng điều mình muốn thấy – trong trường hợp của Maureen là bằng chứng cho sự tồn tại của người anh trai đã mất.

“Anh đang ở đây phải không?”

“Hay chỉ có một mình em thôi?”

Một tiếng giậm chân không rõ nguồn cơn vang lên trong không trung.

Đó là sự đồng ý cho câu hỏi nào, hay thậm chí, có thể là cho cả hai câu hỏi trái ngược đến mức triệt tiêu nhau như thế, điều ấy sẽ phụ thuộc vào sự lựa chọn riêng của mỗi người.   

Điểm đánh giá: 7/10
Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng