Trà chiều

Personal Shopper: Nỗi sợ hãi là thứ để quan sát và nghi vấn

Published

on

Nếu trong văn học, thông qua tác phẩm The New York Trilogy, Paul Auster đã tạo ra một thể loại mà nhiều người gọi là giả trinh thám thì trong điện ảnh, Olivier Assayas cũng đã làm điều tương tự với Personal Shopper, chỉ khác là ở đây chúng ta có phim giả kinh dị chứ không phải truyện giả trinh thám. Tuy nhiên, cả hai đều hướng đến việc chuyển hóa câu hỏi “Ai đã làm việc đó?” thành “Tôi là ai?” trong tác phẩm của mình. Và vì vậy, Personal Shopper là cuộc truy cầu về cái tôi bên trong hơn là khách thể bên ngoài.

Cảnh đầu tiên của phim là cảnh một chiếc xe hơi dần tiến vào bên trong ngôi nhà hoang vắng nằm trên sườn núi. Maureen (Kristen Stewart) chia tay với cô chủ nhà Lara (Sigrid Bouaziz) để vào ngủ qua đêm một mình tại ngôi nhà. Đây là cảnh mở đầu rất thường gặp trong phim kinh dị. Không để khán giả phải đợi lâu, vài phút sau đó, Maureen cảm nhận điều kì lạ trong ngôi nhà vào tối hôm ấy. Cô dường như đang cố gắng tìm cách liên lạc với linh hồn nào đó. Và ngay trong cảnh này – cảnh nội về đêm đầu tiên của phim, chúng ta có thể nhận thấy một số điều trái với cách xử lí thông thường của phim kinh dị. Ở cảnh này, bóng tối tràn ngập khắp khung hình đến nỗi hậu cảnh hoàn toàn tối đen trong thời gian khá dài; và do đó, khán giả chỉ thấy được khuôn mặt Maureen khi cô dò dẫm bước đi trong nhà. Với những phim kinh dị khác, dù nhân vật có bước vào nơi tối tăm thế nào, hậu cảnh cũng không bao giờ hoàn toàn đen tuyền mà khán giả vẫn có thể thấy lờ mờ đồ vật, không gian xung quanh – chính điều này tạo ra sự sợ hãi, duy trì sự hồi hộp khi ta vừa mơ hồ cảm nhận mối nguy hiểm, vừa thấy được một chút ngoại cảnh xung quanh song lại không nắm rõ được hết tất cả những góc khuất mà từ đó, một thế lực tàn ác sẽ thình lình lao vào tấn công ta. Cũng chính vì điều này, khi hậu cảnh đã mất đi hay bị đồng hóa với bóng tối nguyên sơ, công tắc nỗi sợ hãi đã được gạt xuống; thay vào đó, sự tập trung dành cho tiền cảnh – tức nhân vật chính của chúng ta được tăng cường hơn bao giờ hết. Nỗi sợ hãi không tồn tại mà chỉ có sự quan sát nỗi sợ hãi, hay gần như sợ hãi từ người bạn chúng ta vừa quen và chưa biết nhiều thông tin về cô. Thông qua cảnh này, có lẽ Assayas muốn ẩn ý với khán giả rằng cuộc tìm kiếm đối tượng siêu nhiên thực chất không quan trọng, thứ chúng ta hay Maureen cần tập trung hơn chính là bản ngã của cô. Và tinh thần ấy được duy trì suốt phim.

Sau đó, ta biết được Maureen có người anh trai sinh đôi mắc bệnh tim hiếm gặp đã chết vì đột quị và Maureen cũng mắc căn bệnh tương tự, cần được theo dõi thường xuyên. Lewis – anh trai của Maureen có khả năng ngoại cảm, anh tin rằng Maureen cũng có khả năng đó, hai người lập giao ước nếu một trong hai chết trước, người chết phải tìm cách liên lạc với người còn sống trong vòng ba tháng. Maureen tuy không tự tin vào khả năng ngoại cảm của mình nhưng luôn chờ đợi anh. Ban ngày, cô làm trợ lí thời trang cho người mẫu Kyra (Nora von Waldstätten); về đêm, đôi khi cô ngủ lại nhà cũ của Lewis để chờ đợi những tín hiệu. Như những phim tâm lí thông thường của Pháp, Personal Shopper kiệm lời thoại, những tình huống kịch tính và không có cú hook đầu phim hay inciting incident để lôi khán giả hòa vào câu chuyện với những thách thức, bí ẩn được đặt ra cho nhân vật. Vì vậy, lớp truyện trên không phải được khám phá qua hồi một của phim theo kiểu cấu trúc Hollywood chia ba hồi rõ ràng; ngược lại, nó là sự góp nhặt từng mảnh vụn chi tiết thông qua sinh hoạt của nhân vật và đối thoại rải rác trong phim. Điều đó cũng có nghĩa là chẳng có bất kì sự kiện nào trong phim bị đặt vào tình thế cấp bách, cần phải giải quyết khẩn trương trong khoảng thời gian có hạn (một quả bom cài giờ đặt dưới bàn, như cách nói của Hitchcock). Việc này khiến cho cảm giác về thời gian trong phim không còn quan trọng nữa. Vì được kéo dài tùy ý, thời gian trở thành thứ chậm chạp, uể oải – nơi mọi thứ diễn ra mà không thực sự diễn ra; do đó, khi có ai hỏi Maureen rằng cô đang làm gì, cô đều ngần ngừ trả lời rằng: “Tôi đang đợi.” Tuy rằng, cô biết mình chờ đợi điều gì nhưng lại không chắc chắn về điều mình chờ đợi; điều đó khiến cho cái chờ của cô phần nào đó tương tự như “chờ Godot”. Và như thế, dù có rất nhiều sự kiện diễn ra trong Personal Shopper, chúng thật sự không dẫn đến kết quả nào cụ thể vì mục tiêu của chúng đều là để chờ đợi; để bị nhốt, bị giới hạn trong nhà tù có tên chờ đợi; để là một thành phần trong tổ hợp chờ đợi và không bao giờ vượt thoát khỏi nó. Vậy nên, Personal Shopper được kể ra không phải để thấy kết quả của sự chờ đợi, nó chỉ trình hiện sự chờ đợi.     

Phong cách giả tài liệu mà các nhà làm phim Pháp thường theo đuổi: không kể chuyện bằng việc tập trung vào một biến cố kịch tính mà tản mác giữa các sự kiện đặc biệt là những sinh hoạt đời thường của nhân vật; đã tạo ra sự đa thanh cho Personal Shopper. Ở những phân cảnh Maureen đi shopping, chìm đắm trong cuộc sống chán chường với công việc cô không thực sự thích nhưng lại không thể từ bỏ khiến bộ phim mang màu sắc tâm lí xã hội kể về cô gái trẻ cô độc. Những phân cảnh Maureen cố gắng tìm cách liên lạc với anh trai về đêm, như đã phân tích, lại khiến bộ phim mang màu sắc semi-horror hay mystery. Cuối cùng, những phân cảnh Maureen nhắn tin qua lại với một người người ẩn danh dường như đang quan sát rất rõ cuộc sống của cô khiến bộ phim mang màu sắc thriller. Điều quan trọng là, không một thể loại nào giữ vai trò chủ đạo trong phim, tất cả như những nhân cách bình đẳng với nhau, thay phiên nhau bước ra sân khấu trong bộ phim đa nhân cách này. Với một số người, đây có thể là nguyên nhân khiến họ không thích Personal Shopper vì sự rời rạc ấy. Tuy nhiên, tôi lại thích chính sự rời rạc đó, nó cho tôi cảm giác lạc lõng, hoang mang, chán nản, muốn buông xuôi tất cả mọi thứ của Maureen. Dường như, tôi cũng đang trải qua giai đoạn giống như chính cô. Tôi không biết mình thực sự muốn làm điều gì, hay tôi biết mình muốn làm điều gì nhưng vẫn còn đang chờ đợi điều gì đó khác nằm ngoài mình mà chính tôi cũng không rõ đó là điều gì. Mọi thứ rời rạc và mỏi mệt trong khi chính bản thân tôi lại không có quyết tâm để đi theo bất cứ con đường nào, trong lòng luôn mấp mé suy nghĩ về sự lựa chọn tối hậu là buông xuôi tất cả, mặc ngày mai ra sao. Tôi xem Personal Shopper trong một cơn sốt, người tôi hơi nóng, cổ họng đau ran, mũi cứ nhập nhèm nước. Chính vì vậy, có lẽ bản thân cơn bệnh đó đã góp phần phủ thêm lớp màu buồn bã khi tôi xem phim, khiến cho bộ phim trong tôi trở nên buồn hơn mức nó có thể tác động nếu như tôi xem trong tình trạng cơ thể bình thường. Nhưng xem phim khi bị bệnh cũng có cái hay: nó khiến ta hoàn toàn bấu víu vào màn hình như loài kí sinh trùng để tìm một cơ thể khỏe mạnh khác ngõ hầu làm nguồn sống cho sự sinh tồn rã rời của mình. Vậy nên, tôi rất thích cách Maureen trả lời ấp úng nhưng thường xuyên lặp đi lặp lại câu: “Tôi đang đợi.”

Diễn xuất của Kristen Stewart trong Personal Shopper bị một số nhà phê bình trên Rotten Tomatoes chê là còn nhiều hạn chế. Tôi có thể hiểu vì sao có luồng ý kiến này. Khuôn mặt cô không có nhiều biểu cảm trong phim; hơn nữa, các phân đoạn đẩy cảm xúc lên mức kịch tính trong Personal Shopper cũng không nhiều. Tuy nhiên, tôi lại thích sự ít biểu cảm này bởi vì Kristen diễn tả được một sắc thái rất quan trọng trong cuộc sống của Maureen: sự lờ đờ thẫn thờ, thiếu ý chí, mất tập trung. Và, với một người đang chán nản cuộc sống, làm sao họ có thể có biểu cảm đa dạng khi nhìn ngắm mọi thứ xung quanh?

Trong Personal Shopper, Assayas thường xuyên dùng hiệu ứng fade out cảnh sang khung hình đen để chuyển giữa ngày này với ngày kia, sự kiện này với sự kiện kia. Đây là điều mà thông thường các nhà làm phim sẽ cố gắng tránh vì cách chuyển cảnh đơn giản này dễ gây ngắt mạch cảm xúc, khiến bộ phim tựa như sân khấu. Tuy nhiên, chính cách chuyển này lại tạo ra sự phân mảnh, góp phần vào cảm giác rời rạc dành cho phim. Personal Shopper cũng áp dụng thủ pháp tỉnh lược ở một sự kiện – có lẽ là quan trọng nhất trong phim, bằng cách chuyển cảnh đột ngột và sau đó, sự kiện này chỉ được nhắc lại qua lời kể của nhân vật. Việc này có lẽ không gì khác ngoài mục đích tạo thêm sự mờ ảo cho phim.   

Màu sắc trong Personal Shopper rất tối, không chỉ nội cảnh ban đêm mà còn là ngoại cảnh ban ngày. Nghĩa là, màu sắc được chỉnh ở mức low contrast; và chính sự ít tương phản hay chỉ tương phản vừa đủ ấy trong phong cách flat color grading lại khiến cho mọi thứ mang cảm giác thực tế khi nhân vật như chìm vào cảnh vật, hoàn toàn không quá nổi bật.

Ở một trong những cảnh gần cuối phim, Olivier Assayas có cách xử lí khiến tôi nhớ đến It Follows của đạo diễn David Robert Mitchell. Đó là cảnh trung cho thấy Maureen đang ngồi trong vườn thẫn thờ trầm tư, đằng sau cô là dáng người bình thường cầm chiếc ly đi qua khung cửa sổ nhà bếp, và khi đến gần cánh cửa, người xem chỉ còn thấy mỗi chiếc ly lơ lửng trên không vài giây rồi vỡ tan tành xuống đất. Tuy nhiên, khác với It Follows, cảnh ấy không gây cảm giác đáng sợ, chỉ là chút kì lạ và nỗi buồn mơ hồ gợn lên trong lòng khi ta biết rằng mình chẳng bao giờ thấy được rõ ràng điều mình muốn thấy – trong trường hợp của Maureen là bằng chứng cho sự tồn tại của người anh trai đã mất.

“Anh đang ở đây phải không?”

“Hay chỉ có một mình em thôi?”

Một tiếng giậm chân không rõ nguồn cơn vang lên trong không trung.

Đó là sự đồng ý cho câu hỏi nào, hay thậm chí, có thể là cho cả hai câu hỏi trái ngược đến mức triệt tiêu nhau như thế, điều ấy sẽ phụ thuộc vào sự lựa chọn riêng của mỗi người.   

Điểm đánh giá: 7/10
Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Trà chiều

“Cạm bẫy tiện lợi” của AI

Published

on

Vào thứ Sáu ngay trước ngày khai mạc Hội sách Thiếu nhi Bologna, OpenAI đã tung ra công nghệ tạo hình ảnh mới tích hợp trong GPT-4o. Công nghệ này giới thiệu các khả năng đa phương thức tiên tiến, cho phép người dùng tạo ra những hình ảnh vô cùng chi tiết bằng nhiều phong cách nghệ thuật đa dạng. Gần như ngay lập tức, người dùng đã thử tạo hình ảnh theo phong cách thẩm mỹ đặc trưng của Studio Ghibli và thử nghiệm với nhiều phong cách minh họa sách thiếu nhi kinh điển. Độ chính xác của kết quả và khả năng bắt chước các họa sĩ minh họa nổi tiếng của công nghệ này đã thực sự gây sốc cho những người đang tề tựu tại Bologna.

Nổi bật trong các tiếng nói quan ngại về những bước tiến mới này là Nurgül Senefe, họa sĩ minh họa người Thổ Nhĩ Kỳ. Bà là nhà sáng lập của tổ chức vận động Illustrator’s Platform và Mạng lưới ZNN, một công ty đại diện tác giả và họa sĩ minh họa, đồng thời là Tổng Thư ký của Diễn đàn Họa sĩ Minh họa Châu Âu. Bà Senefe chia sẻ với tờ Publisher Weekly rằng, “sự lười biếng trong nhận thức” đang đe dọa khiến con người ngày càng phụ thuộc vào AI.

Bà Nurgül Senefe. Nguồn: Diễn đàn Họa sĩ Minh họa.

Từ kinh nghiệm điều hành một tổ chức với 400 nhân sự đang tận tâm bảo vệ quyền của họa sĩ minh họa và xây dựng những phương thức kinh doanh bền vững, bà Senefe cho rằng: “Điểm yếu lớn nhất của con người là cảm giác vui sướng đến từ sự tiện lợi mà AI mang đến”.

Mạng lưới ZNN hoạt động như một cầu nối trung gian giữa họa sĩ và bên đặt hàng, giúp thiết lập các quy chuẩn tối ưu cho ngành, đồng thời giám sát quy trình đặt hàng tác phẩm. Công việc của họ nay càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết khi AI ngày một tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực sáng tạo.

“Đặc biệt với trí tuệ nhân tạo, chúng tôi đang nỗ lực xây dựng một nền tảng để đại diện cho quyền lợi của họa sĩ minh họa”, bà Senefe cho biết.

Khi khảo sát các thành viên trong tổ chức, bà Senefe thường đưa ra một câu hỏi lấy ví dụ từ bộ phim Ma trận (The Matrix), hỏi họ sẽ chọn viên thuốc nào – đỏ hay xanh. “Mọi người đều nói, ‘Tôi sẽ chọn viên màu đỏ’, bà kể lại, dùng phép ẩn dụ này để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ chính mình “tỉnh táo nhận thức về những gì đang diễn ra hôm nay”.

Mối bận tâm hàng đầu của bà Senefe xoay quanh chính bản chất của con người. “Nếu bạn không ý thức được hành vi của mình, nó sẽ dần định hình nên tính cách của bạn.” Dù vấp phải sự phản đối từ nhiều chuyên gia sáng tạo – “Mọi người nói chúng ta không sử dụng AI tạo sinh, chúng ta chống lại nó”, bà vẫn quan sát thấy người ta tiếp tục thử nghiệm công nghệ này và ghi nhận rằng một số người cho biết nó “khá tiện lợi”.

Bà Senefe nhận định: Yếu tố tiện lợi này chính là mấu chốt của vấn đề. Bà cũng đưa ra các ví dụ tương tự trong đời thực. “Nếu bạn để ý, tôi chắc chắn bạn sẽ thấy ở ga tàu điện hoặc nhà ga xe lửa, mọi người xếp hàng dài hàng mét chỉ để đi thang cuốn, nhưng tại sao họ không leo thang bộ cơ chứ?” Các ví dụ khác bao gồm sự lệ thuộc của xã hội vào thức ăn nhanh, bất chấp những rủi ro sức khỏe đã được chứng minh, hay việc nhiều bậc cha mẹ dùng máy tính bảng làm "người giữ trẻ kiểu mới cho con” khi quá tải hay xao nhãng.

Họa sĩ Hayao Miyazaki, đồng sáng lập Studio Ghibli luôn thể hiện sự phản đối mạnh mẽ đối với AI trong sáng tạo. Trong bộ phim tài liệu Never - ending man: Hayao Miyazaki năm 2016, khi được giới thiệu về một dự án hoạt hình sử dụng AI, ông Hayao Miyazaki đã thẳng thừng chỉ trích công nghệ này. Ông gọi nó là "một sự xúc phạm đến cuộc sống" và nhấn mạnh rằng nghệ thuật không chỉ là kỹ thuật mà còn là cảm xúc, trải nghiệm và tinh thần con người.

Bà Senefe tỏ ra lo lắng về một khả năng trong tương lai, nơi những người làm sáng tạo cuối cùng sẽ phải “làm việc cho máy móc”, khi các nhà xuất bản có khả năng chọn AI thay vì sản phẩm của con người vì chúng “quá tiện lợi, rẻ, hiệu quả và nhanh chóng”.

“Dần dà, chúng ta sẽ quen xem cái ‘chưa đủ’ là đủ, ‘không đẹp’ là đẹp, ‘phi nghệ thuật’ là nghệ thuật. Điều này sẽ kéo tụt mặt bằng giá trị của nhận thức chung, hiểu biết và sự chấp nhận của xã hội, làm thay đổi cả một lĩnh vực mà chúng ta thậm chí không hề hay biết”.

Để mô tả quá trình bình thường hóa đáng lo ngại này, bà Senefe đã đặt hàng một bức tranh minh họa dựa trên ẩn dụ về con ếch trong nồi nước đang nóng dần lên, không nhận ra mối nguy hiểm đang cận kề. Bức tranh này đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Bạn sẽ dùng AI một cách có ý thức và để máy móc phục vụ cho bạn, hay bị AI thống trị và trở thành tay chân cho máy móc?”

“Thử thách lớn nhất của chúng ta trong cuộc đối đầu với AI chính là sự lười biếng trong nhận thức”, bà Senefe kết luận. Bà cho rằng, cũng như sự nghiện ngập và các thói quen độc hại khác, sự phụ thuộc vào AI có thể bén rễ từ từ và len lỏi vào đời sống một cách khó nhận biết nếu giới chuyên môn sáng tạo không duy trì cảnh giác.

Hoàng Thảo dịch từ Publishers Weekly

Đọc bài viết

Cafe sáng