Trà chiều

Personal Shopper: Nỗi sợ hãi là thứ để quan sát và nghi vấn

Published

on

Nếu trong văn học, thông qua tác phẩm The New York Trilogy, Paul Auster đã tạo ra một thể loại mà nhiều người gọi là giả trinh thám thì trong điện ảnh, Olivier Assayas cũng đã làm điều tương tự với Personal Shopper, chỉ khác là ở đây chúng ta có phim giả kinh dị chứ không phải truyện giả trinh thám. Tuy nhiên, cả hai đều hướng đến việc chuyển hóa câu hỏi “Ai đã làm việc đó?” thành “Tôi là ai?” trong tác phẩm của mình. Và vì vậy, Personal Shopper là cuộc truy cầu về cái tôi bên trong hơn là khách thể bên ngoài.

Cảnh đầu tiên của phim là cảnh một chiếc xe hơi dần tiến vào bên trong ngôi nhà hoang vắng nằm trên sườn núi. Maureen (Kristen Stewart) chia tay với cô chủ nhà Lara (Sigrid Bouaziz) để vào ngủ qua đêm một mình tại ngôi nhà. Đây là cảnh mở đầu rất thường gặp trong phim kinh dị. Không để khán giả phải đợi lâu, vài phút sau đó, Maureen cảm nhận điều kì lạ trong ngôi nhà vào tối hôm ấy. Cô dường như đang cố gắng tìm cách liên lạc với linh hồn nào đó. Và ngay trong cảnh này – cảnh nội về đêm đầu tiên của phim, chúng ta có thể nhận thấy một số điều trái với cách xử lí thông thường của phim kinh dị. Ở cảnh này, bóng tối tràn ngập khắp khung hình đến nỗi hậu cảnh hoàn toàn tối đen trong thời gian khá dài; và do đó, khán giả chỉ thấy được khuôn mặt Maureen khi cô dò dẫm bước đi trong nhà. Với những phim kinh dị khác, dù nhân vật có bước vào nơi tối tăm thế nào, hậu cảnh cũng không bao giờ hoàn toàn đen tuyền mà khán giả vẫn có thể thấy lờ mờ đồ vật, không gian xung quanh – chính điều này tạo ra sự sợ hãi, duy trì sự hồi hộp khi ta vừa mơ hồ cảm nhận mối nguy hiểm, vừa thấy được một chút ngoại cảnh xung quanh song lại không nắm rõ được hết tất cả những góc khuất mà từ đó, một thế lực tàn ác sẽ thình lình lao vào tấn công ta. Cũng chính vì điều này, khi hậu cảnh đã mất đi hay bị đồng hóa với bóng tối nguyên sơ, công tắc nỗi sợ hãi đã được gạt xuống; thay vào đó, sự tập trung dành cho tiền cảnh – tức nhân vật chính của chúng ta được tăng cường hơn bao giờ hết. Nỗi sợ hãi không tồn tại mà chỉ có sự quan sát nỗi sợ hãi, hay gần như sợ hãi từ người bạn chúng ta vừa quen và chưa biết nhiều thông tin về cô. Thông qua cảnh này, có lẽ Assayas muốn ẩn ý với khán giả rằng cuộc tìm kiếm đối tượng siêu nhiên thực chất không quan trọng, thứ chúng ta hay Maureen cần tập trung hơn chính là bản ngã của cô. Và tinh thần ấy được duy trì suốt phim.

Sau đó, ta biết được Maureen có người anh trai sinh đôi mắc bệnh tim hiếm gặp đã chết vì đột quị và Maureen cũng mắc căn bệnh tương tự, cần được theo dõi thường xuyên. Lewis – anh trai của Maureen có khả năng ngoại cảm, anh tin rằng Maureen cũng có khả năng đó, hai người lập giao ước nếu một trong hai chết trước, người chết phải tìm cách liên lạc với người còn sống trong vòng ba tháng. Maureen tuy không tự tin vào khả năng ngoại cảm của mình nhưng luôn chờ đợi anh. Ban ngày, cô làm trợ lí thời trang cho người mẫu Kyra (Nora von Waldstätten); về đêm, đôi khi cô ngủ lại nhà cũ của Lewis để chờ đợi những tín hiệu. Như những phim tâm lí thông thường của Pháp, Personal Shopper kiệm lời thoại, những tình huống kịch tính và không có cú hook đầu phim hay inciting incident để lôi khán giả hòa vào câu chuyện với những thách thức, bí ẩn được đặt ra cho nhân vật. Vì vậy, lớp truyện trên không phải được khám phá qua hồi một của phim theo kiểu cấu trúc Hollywood chia ba hồi rõ ràng; ngược lại, nó là sự góp nhặt từng mảnh vụn chi tiết thông qua sinh hoạt của nhân vật và đối thoại rải rác trong phim. Điều đó cũng có nghĩa là chẳng có bất kì sự kiện nào trong phim bị đặt vào tình thế cấp bách, cần phải giải quyết khẩn trương trong khoảng thời gian có hạn (một quả bom cài giờ đặt dưới bàn, như cách nói của Hitchcock). Việc này khiến cho cảm giác về thời gian trong phim không còn quan trọng nữa. Vì được kéo dài tùy ý, thời gian trở thành thứ chậm chạp, uể oải – nơi mọi thứ diễn ra mà không thực sự diễn ra; do đó, khi có ai hỏi Maureen rằng cô đang làm gì, cô đều ngần ngừ trả lời rằng: “Tôi đang đợi.” Tuy rằng, cô biết mình chờ đợi điều gì nhưng lại không chắc chắn về điều mình chờ đợi; điều đó khiến cho cái chờ của cô phần nào đó tương tự như “chờ Godot”. Và như thế, dù có rất nhiều sự kiện diễn ra trong Personal Shopper, chúng thật sự không dẫn đến kết quả nào cụ thể vì mục tiêu của chúng đều là để chờ đợi; để bị nhốt, bị giới hạn trong nhà tù có tên chờ đợi; để là một thành phần trong tổ hợp chờ đợi và không bao giờ vượt thoát khỏi nó. Vậy nên, Personal Shopper được kể ra không phải để thấy kết quả của sự chờ đợi, nó chỉ trình hiện sự chờ đợi.     

Phong cách giả tài liệu mà các nhà làm phim Pháp thường theo đuổi: không kể chuyện bằng việc tập trung vào một biến cố kịch tính mà tản mác giữa các sự kiện đặc biệt là những sinh hoạt đời thường của nhân vật; đã tạo ra sự đa thanh cho Personal Shopper. Ở những phân cảnh Maureen đi shopping, chìm đắm trong cuộc sống chán chường với công việc cô không thực sự thích nhưng lại không thể từ bỏ khiến bộ phim mang màu sắc tâm lí xã hội kể về cô gái trẻ cô độc. Những phân cảnh Maureen cố gắng tìm cách liên lạc với anh trai về đêm, như đã phân tích, lại khiến bộ phim mang màu sắc semi-horror hay mystery. Cuối cùng, những phân cảnh Maureen nhắn tin qua lại với một người người ẩn danh dường như đang quan sát rất rõ cuộc sống của cô khiến bộ phim mang màu sắc thriller. Điều quan trọng là, không một thể loại nào giữ vai trò chủ đạo trong phim, tất cả như những nhân cách bình đẳng với nhau, thay phiên nhau bước ra sân khấu trong bộ phim đa nhân cách này. Với một số người, đây có thể là nguyên nhân khiến họ không thích Personal Shopper vì sự rời rạc ấy. Tuy nhiên, tôi lại thích chính sự rời rạc đó, nó cho tôi cảm giác lạc lõng, hoang mang, chán nản, muốn buông xuôi tất cả mọi thứ của Maureen. Dường như, tôi cũng đang trải qua giai đoạn giống như chính cô. Tôi không biết mình thực sự muốn làm điều gì, hay tôi biết mình muốn làm điều gì nhưng vẫn còn đang chờ đợi điều gì đó khác nằm ngoài mình mà chính tôi cũng không rõ đó là điều gì. Mọi thứ rời rạc và mỏi mệt trong khi chính bản thân tôi lại không có quyết tâm để đi theo bất cứ con đường nào, trong lòng luôn mấp mé suy nghĩ về sự lựa chọn tối hậu là buông xuôi tất cả, mặc ngày mai ra sao. Tôi xem Personal Shopper trong một cơn sốt, người tôi hơi nóng, cổ họng đau ran, mũi cứ nhập nhèm nước. Chính vì vậy, có lẽ bản thân cơn bệnh đó đã góp phần phủ thêm lớp màu buồn bã khi tôi xem phim, khiến cho bộ phim trong tôi trở nên buồn hơn mức nó có thể tác động nếu như tôi xem trong tình trạng cơ thể bình thường. Nhưng xem phim khi bị bệnh cũng có cái hay: nó khiến ta hoàn toàn bấu víu vào màn hình như loài kí sinh trùng để tìm một cơ thể khỏe mạnh khác ngõ hầu làm nguồn sống cho sự sinh tồn rã rời của mình. Vậy nên, tôi rất thích cách Maureen trả lời ấp úng nhưng thường xuyên lặp đi lặp lại câu: “Tôi đang đợi.”

Diễn xuất của Kristen Stewart trong Personal Shopper bị một số nhà phê bình trên Rotten Tomatoes chê là còn nhiều hạn chế. Tôi có thể hiểu vì sao có luồng ý kiến này. Khuôn mặt cô không có nhiều biểu cảm trong phim; hơn nữa, các phân đoạn đẩy cảm xúc lên mức kịch tính trong Personal Shopper cũng không nhiều. Tuy nhiên, tôi lại thích sự ít biểu cảm này bởi vì Kristen diễn tả được một sắc thái rất quan trọng trong cuộc sống của Maureen: sự lờ đờ thẫn thờ, thiếu ý chí, mất tập trung. Và, với một người đang chán nản cuộc sống, làm sao họ có thể có biểu cảm đa dạng khi nhìn ngắm mọi thứ xung quanh?

Trong Personal Shopper, Assayas thường xuyên dùng hiệu ứng fade out cảnh sang khung hình đen để chuyển giữa ngày này với ngày kia, sự kiện này với sự kiện kia. Đây là điều mà thông thường các nhà làm phim sẽ cố gắng tránh vì cách chuyển cảnh đơn giản này dễ gây ngắt mạch cảm xúc, khiến bộ phim tựa như sân khấu. Tuy nhiên, chính cách chuyển này lại tạo ra sự phân mảnh, góp phần vào cảm giác rời rạc dành cho phim. Personal Shopper cũng áp dụng thủ pháp tỉnh lược ở một sự kiện – có lẽ là quan trọng nhất trong phim, bằng cách chuyển cảnh đột ngột và sau đó, sự kiện này chỉ được nhắc lại qua lời kể của nhân vật. Việc này có lẽ không gì khác ngoài mục đích tạo thêm sự mờ ảo cho phim.   

Màu sắc trong Personal Shopper rất tối, không chỉ nội cảnh ban đêm mà còn là ngoại cảnh ban ngày. Nghĩa là, màu sắc được chỉnh ở mức low contrast; và chính sự ít tương phản hay chỉ tương phản vừa đủ ấy trong phong cách flat color grading lại khiến cho mọi thứ mang cảm giác thực tế khi nhân vật như chìm vào cảnh vật, hoàn toàn không quá nổi bật.

Ở một trong những cảnh gần cuối phim, Olivier Assayas có cách xử lí khiến tôi nhớ đến It Follows của đạo diễn David Robert Mitchell. Đó là cảnh trung cho thấy Maureen đang ngồi trong vườn thẫn thờ trầm tư, đằng sau cô là dáng người bình thường cầm chiếc ly đi qua khung cửa sổ nhà bếp, và khi đến gần cánh cửa, người xem chỉ còn thấy mỗi chiếc ly lơ lửng trên không vài giây rồi vỡ tan tành xuống đất. Tuy nhiên, khác với It Follows, cảnh ấy không gây cảm giác đáng sợ, chỉ là chút kì lạ và nỗi buồn mơ hồ gợn lên trong lòng khi ta biết rằng mình chẳng bao giờ thấy được rõ ràng điều mình muốn thấy – trong trường hợp của Maureen là bằng chứng cho sự tồn tại của người anh trai đã mất.

“Anh đang ở đây phải không?”

“Hay chỉ có một mình em thôi?”

Một tiếng giậm chân không rõ nguồn cơn vang lên trong không trung.

Đó là sự đồng ý cho câu hỏi nào, hay thậm chí, có thể là cho cả hai câu hỏi trái ngược đến mức triệt tiêu nhau như thế, điều ấy sẽ phụ thuộc vào sự lựa chọn riêng của mỗi người.   

Điểm đánh giá: 7/10
Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Cafe sáng