Trích đăng

Ngoài Covid, còn có những cuộc khủng hoảng thầm lặng khác

Ta mang khẩu trang để bảo vệ chính mình và người khác khỏi một con vi rút mà ta không thấy được. Nhưng còn tất cả những con vi rút vô hình khác mà ta cũng cần tránh thì sao?

Published

on

Trích từ: Hãy cùng ước mơ
Tác giả: Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 10.2022

Tôi thấy thời đại này giống như một cuộc tính sổ. Nó khiến tôi nghĩ tới điều mà Chúa Giêsu đã nói với Thánh Phêrô trong Phúc Âm Luca (Lc 22,31) – ma quỷ muốn sàng ông như sàng gạo. Bước vào cuộc khủng hoảng là để cho bản thân được sàng lọc. Các phạm trù và cách suy nghĩ của bạn bị lung lay, các giá trị ưu tiên và phong cách sống của bạn bị thách thức. Bạn bước qua một ngưỡng cửa, hoặc là do chính bạn chọn lựa, hoặc do hoàn cảnh đòi buộc; vì sẽ có những cuộc khủng hoảng, như những gì chúng ta đang phải trải qua đây, mà bạn không cách chi né tránh được.

Câu hỏi được đặt ra là liệu bạn có vượt qua cơn khủng hoảng này không, và nếu có thể, thì bằng cách nào? Quy luật cơ bản của một cuộc khủng hoảng là bạn sẽ không thoát khỏi nó mà không thay đổi gì. Khi bạn vượt qua thách đố, bạn hoặc sẽ trở nên tốt hơn hoặc là tệ đi; nhưng chắc chắn sẽ không còn là con người cũ nữa.

Chúng ta đang sống trong thời đại đầy những thử thách. Kinh Thánh nói về việc băng qua lửa để mô tả những thử thách như thế, có thử lửa mới biết bình thợ gốm (Hc 27,5). Chúng ta sẽ luôn gặp khó khăn trong cuộc sống, nhờ đó mà ta được lớn lên.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Các thử thách trong cuộc sống sẽ giúp bạn bộc lộ trái tim mình: Trái tim bạn vững chãi thế nào, biết thương xót ra sao, và nó lớn hay nhỏ. Thường thường, trong những cảnh huống xã hội bình thường, bạn chẳng khi nào bộc lộ bản thân. Bạn cười, bạn nói những điều đúng đắn, và bạn bình an vô sự vượt qua các tình huống mà không phải thể hiện mình như chính-bạn-là. Nhưng khi bước vào khủng hoảng thì hoàn toàn trái ngược. Bạn phải chọn lựa. Và trong quá trình chọn lựa, bạn bộc lộ trái tim mình.

Hãy nghĩ về những gì xảy ra trong lịch sử. Khi trái tim bị thử thách, con người ta trở nên ý thức về điều khiến họ chùn bước. Họ cũng cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng Trung Tín và hằng đáp lại tiếng than khóc của dân Người. Cuộc gặp gỡ sau đó mở ra một tương lai mới.

Hãy nghĩ về những gì chúng ta thấy trong đại dịch Covid-19. Kìa các vị tử đạo: Những người nam người nữ đã hy sinh mạng sống mình để phục vụ những ai cần họ nhất. Hãy nghĩ tới các nhân viên y tế, các y bác sĩ, những người chăm sóc, cũng như các vị tuyên úy và tất cả những ai đã chọn đồng hành với người khác trong nỗi đau của họ. Áp dụng các biện pháp phòng ngừa cần thiết, họ tìm cách hỗ trợ và an ủi người khác. Họ là chứng nhân của tình thân và sự dịu dàng. Đau lòng thay, nhiều người trong số họ đã ra đi. Để tôn vinh những gì họ đã làm chứng và nỗi đau của biết bao người, chúng ta phải xây dựng ngày mai bằng cách đi theo con đường mà họ đã thắp sáng.

Tuy nhiên – tôi nói điều này trong đau đớn và xấu hổ chúng ta cũng hãy nghĩ đến những người cho vay nóng, cho vay nặng lãi, kẻ đã xuất hiện trước cửa nhà của những người đang tuyệt vọng. Giả như họ có đưa tay ra thì cũng là để cho vay những khoản tiền không thể nào trả nổi, và những ai chấp nhận đề nghị đó cuối cùng sẽ trở thành con nợ vĩnh viễn. Đây là những người làm giàu trên nỗi khốn cùng của người khác.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Trong thời điểm khủng hoảng, bạn sẽ bắt gặp cả điều tốt lẫn điều xấu: Người ta bộc lộ mình như chính-họ-là. Có những người quên mình phục vụ kẻ khó nghèo, cũng có những người làm giàu trên nỗi đau của người khác. Có những người bước ra để đến với tha nhân – bằng những cách thức mới đầy sáng tạo mà không cần rời khỏi nhà – trong khi số khác lại rút lui phía sau tấm áo phòng bị. Trái tim của ta vì thế mà tỏ lộ.

Không chỉ một vài cá nhân nào đó bị thử thách, mà là toàn thể nhân loại. Hãy nghĩ đến việc các chính phủ phải đưa ra chọn lựa trong đại dịch. Điều gì quan trọng hơn: Chăm sóc con người hay đảm bảo sự vận hành của hệ thống tài chính? Chăm lo cho người dân, hay thí mạng họ để đảm bảo lợi ích của thị trường chứng khoán? Tạm ngưng cỗ máy thịnh vượng, dù biết rằng điều này có thể ảnh hưởng đến nhiều người, nhưng phải chăng đó cũng chính là cách chúng ta có thể cứu sống nhiều mảnh đời? Có những trường hợp, chính phủ chọn bảo vệ nền kinh tế trước, có thể vì họ đã không hiểu mức độ trầm trọng của dịch bệnh, hoặc do họ thiếu nguồn lực. Những chính quyền này đã “thế chấp” người dân của họ. Khi chọn lựa như thế, thứ tự ưu tiên của họ bị thử thách và giá trị thật của họ cũng bị phơi bày.

Trong cơn khủng hoảng, luôn có điều cám dỗ ta rút lui. Tất nhiên, có những lúc chúng ta cần phải lùi lại vì lý do chiến thuật – như trong Kinh Thánh đề cập: “Rồi Israel rút về lều” (1 V 12,16) – nhưng có những tình huống mà rút lui không phải việc đúng đắn và cũng chẳng nhân văn. Chúa Giêsu đã làm rõ điều này trong dụ ngôn về người Samari nhân hậu. Khi thầy Lêvi và thầy tư tế bỏ lại người đàn ông bê bết máu vì bị băng cướp đánh nhừ tử, họ đang rút lui “theo chức năng”. Một hành động tuy hợp lý và đúng luật dạy, nhưng chẳng hợp tình người. Khi gặp thách đố, điều họ cố gắng bảo vệ là địa vị, vai trò và hình tượng của bản thân, chứ không phải vì người khác.

Trong một cuộc khủng hoảng, chủ nghĩa chức năng của ta bị lung lay, đó là lý do ta phải xem lại cũng như điều chỉnh vai trò và thói quen để biến mình thành những người tử tế hơn. Một cuộc khủng hoảng luôn đòi buộc toàn thể con người ta hiện diện, không cho phép ta thoái lui hay trở về với những đường lối và vai trò cũ. Hãy nghĩ về người Samari: Anh ta đã dừng lại, nâng đỡ người gặp nạn, đã hành động và bước vào thế giới của nạn nhân, đã đặt mình vào tình huống để chia sớt đau khổ với nạn nhân, rồi từ đó, tạo nên một tương lai mới.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Hành động theo cách của người Samari trong cơn khủng hoảng nghĩa là để cho bản thân được tác động bởi những gì mà ta nhìn thấy, với ý thức rằng những khổ đau này sẽ biến đổi cuộc đời ta. Chúng ta, những người Kitô hữu, nói về điều này như là đón nhận và ôm lấy thập giá Đức Kitô. Với niềm xác tín rằng những gì sẽ xảy đến là cuộc sống mới, việc ôm lấy thập giá cho chúng ta can đảm để ngừng than vãn và dũng khí để ra đi phục vụ. Từ đó, chúng ta được biến đổi, và sự biến đổi này chỉ đến từ lòng trắc ẩn và sự phục vụ quên mình.

Một số người đáp lại những khổ đau mà cơn khủng hoảng đem đến chỉ bằng cái nhún vai. Họ nói, “Thượng đế đã tạo dựng thế giới như thế, bản chất nó là vậy rồi”. Nhưng, nhìn nhận như thế là đã hiểu sai về công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi đây là một tiến trình năng động, không phải tĩnh tại. Thế giới vẫn luôn được tạo dựng. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma đã nói: Muôn loài thụ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở (Rm 8,22). Thiên Chúa muốn cùng chúng ta, các cộng sự của Ngài, không ngừng dựng xây thế giới. Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài ngay từ thuở ban đầu, trong mọi lúc, cả những thời khắc bình yên hay trong cơn khủng hoảng. Thiên Chúa không trao thế giới cho ta như một món đồ đã được đóng gói và niêm phong, rồi nói rằng: “Thế giới đây, hãy đón nhận”.

Trong sách Sáng Thế (Book of Genesis), Thiên Chúa ra lệnh cho Adam và Eva sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất. Nhân loại có nhiệm vụ thay đổi, xây dựng, làm chủ công trình sáng tạo theo nghĩa tích cực: sáng tạo từ nó và cùng với nó. Vì vậy, những gì sắp xảy đến không phụ thuộc vào các cơ chế vô hình hay một tương lai mà nhân loại chỉ là khán giả thụ động. Không, chúng ta là nhân vật chính, hay cụ thể hơn, là những người đồng sáng tạo. Khi Chúa bảo chúng ta ra đi và sinh sôi nảy nở để làm chủ Trái Đất, Ngài đang nói: Hãy là những người kiến tạo tương lai của chính mình.

Từ cuộc khủng hoảng này, chúng ta có thể trở nên tốt hơn hoặc tệ đi. Ta có thể trượt dài về sau, hoặc có thể tạo ra điều gì đó mới mẻ. Hiện tại, điều ta cần là cơ hội để thay đổi và tạo không gian cho những điều mới. Điều này tương tự điều Chúa phán với tiên tri Isaia: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Nếu con sẵn sàng lắng nghe, chúng ta sẽ có một tương lai tuyệt vời. Nhưng nếu con từ chối lắng nghe, con sẽ bị ăn gươm giáo (Is 1, 18-20).

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Có rất nhiều lưỡi gươm đang hòng tiêu diệt chúng ta.
Cuộc khủng hoảng Covid trông có vẻ đặc biệt vì nó ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại, nhưng nó chỉ đặc biệt vì ta có thể nhìn thấy được. Trong khi có hàng ngàn cuộc khủng hoảng khác cũng thảm khốc không kém, nhưng đủ khuất tầm nhìn để nhiều người vờ như chúng chẳng hề hiện hữu. Chẳng hạn, hãy nghĩ về những cuộc chiến tranh diễn ra đó đây trên thế giới; về việc sản xuất và buôn bán vũ khí; về hàng trăm ngàn người tị nạn đang chạy trốn khỏi sự đói nghèo, thiếu thốn cơ hội; và cả biến đổi khí hậu. Những bi kịch này có vẻ xa vời với chúng ta, chúng chỉ là một phần của tin tức hằng ngày, và đáng buồn thay, nó không đủ sức để thúc đẩy ta thay đổi lịch trình và giá trị ưu tiên. Nhưng cũng như đại dịch Covid, những khủng hoảng này tác động đến toàn nhân loại.

Chỉ cần nhìn những con số trong ngân sách mà một quốc gia chi cho việc trang bị vũ khí thôi cũng đủ làm bạn lạnh người. Rồi hãy so sánh các số liệu trên với số liệu thống kê của UNICEF về số trẻ em không được đến trường, phải lên giường với cái bụng đói, khi đó, bạn sẽ hiểu được ai đang phải trả giá cho việc trang bị vũ khí. Trong bốn tháng đầu năm nay, có đến 3,7 triệu người chết vì đói. Và có bao nhiêu người chết vì chiến tranh? Chi phí quân sự hủy diệt loài người. Có thể nói đây là một chủng vi rút corona đáng sợ, nhưng vì không nhìn thấy các nạn nhân của nó nên chúng ta chẳng mấy để tâm.

Tương tự vậy, một số người không nhìn thấy được thế giới tự nhiên đang bị tàn phá. Chúng ta nghĩ rằng điều này sẽ không ảnh hưởng tới mình vì nó xảy ra tận đấu tận đâu. Nhưng rồi đột nhiên ta nhìn thấy, ta hiểu được: Một chiếc thuyền băng qua Bắc Cực lần đầu tiên, và ta nhận ra rằng những trận lũ lụt và cháy rừng ở đâu xa lại là một phần của cuộc khủng hoảng chung mà tất cả chúng ta đều phải đối mặt.

Hãy nhìn chúng ta lúc này: Ta mang khẩu trang để bảo vệ chính mình và người khác khỏi một con vi rút mà ta không thấy được. Nhưng còn tất cả những con vi rút vô hình khác mà ta cũng cần tránh thì sao? Chúng ta sẽ phải đối phó với những đại dịch tiềm ẩn của thế giới này bằng cách nào – đại dịch của đói nghèo, bạo lực và biến đổi khí hậu?

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Nếu muốn bước ra khỏi cuộc khủng hoảng này và bớt ích kỷ hơn so với khi bước vào, hãy để cho bản thân được lay động bởi nỗi đau của người khác. “Nơi nào có hiểm nguy, nơi đó cũng trổ sinh nguồn năng lượng cứu rỗi”. Câu thơ trong tác phẩm Hyperion của Friedrich Hölderlin như muốn nói với tôi rằng những hiểm nguy đe dọa chúng ta trong một cuộc khủng hoảng không phải là tất cả; luôn luôn có một lối ra. Đó chính là nguồn cảm hứng trong câu chuyện của loài người: Luôn có cách để ta thoát khỏi sự suy tàn. Con người phải hành động ngay trong chính những thách thức, cũng là nơi mà cánh cửa được mở ra. Câu nói ấy đã đồng hành với tôi trong nhiều thời điểm khác nhau của cuộc sống.

Đây là thời điểm để ta mơ lớn, để suy nghĩ lại các giá trị ưu tiên, những điều ta coi trọng, mong muốn và kiếm tìm, và cũng để cam kết hành động trong mỗi ngày sống vì những điều ta mơ ước. Điều tôi nghe được lúc này cũng giống những gì Thiên Chúa đã nói với tiên tri Isaia: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Chúng ta hãy dám ước mơ.

Thiên Chúa mời gọi ta dám sáng tạo những điều mới lạ. Chúng ta không thể trở về tình trạng tưởng chừng như yên ổn của hệ thống chính trị và kinh tế trước khủng hoảng. Chúng ta cần những nền kinh tế cho phép mọi người tiếp cận với thành quả của công trình sáng tạo cùng những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống: đất đai, nhà ở và công việc. Chúng ta cần những nền chính trị có thể hòa nhập và đối thoại với người nghèo, những người bị loại trừ và dễ bị tổn thương, giúp họ có tiếng nói trong các quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Chúng ta cần chậm lại, cân nhắc và thiết kế ra cách thức tốt hơn để có thể cùng nhau sống trên mặt đất này.

Đó là nhiệm vụ mà từng người chúng ta được mời gọi để cộng tác. Nhưng đây là thời điểm đặc biệt dành cho những con tim thao thức, sự thao thức lành mạnh thôi thúc ta hành động. Hơn bao giờ hết, các lý lẽ ngụy biện cho rằng chủ nghĩa cá nhân là nguyên lý vận hành xã hội đang bị phơi bày. Vậy đâu sẽ là nguyên tắc mới của chúng ta?

Chúng ta cần một nhóm những người biết rằng chúng ta cần nhau, những người có tinh thần trách nhiệm với người khác và với thế giới. Chúng ta cần cho thấy rằng việc sống tử tế, có niềm tin, và làm việc vì lợi ích chung là những mục tiêu tuyệt vời – điều đòi hỏi nơi ta lòng can đảm và nghị lực; trong khi sự hào nhoáng hời hợt và nhạo báng đời sống đạo đức chẳng giúp ích gì. Kỷ nguyên hiện đại, vốn đã phát huy sự bình đẳng và tự do như một xác quyết, giờ đây cần phải tập trung vào tình anh em bạn hữu với cùng chí hướng và sự bền bỉ để đương đầu với các thử thách phía trước. Tình anh em bạn hữu sẽ tạo điều kiện cho bình đẳng và tự do chiếm vị trí tương xứng trong bản giao hưởng cuộc sống.

Hàng triệu người đã tự hỏi mình và người khác rằng họ có thể tìm thấy Thiên Chúa ở đâu trong cuộc khủng hoảng này. Những gì hiện lên trong tâm trí tôi là sự đầy tràn. Tôi nghĩ tới những dòng sông lớn nhẹ nhàng vỗ bờ, một cách chậm rãi đến độ bạn khó lòng nhận ra, nhưng đến đúng thời điểm, chúng vỡ bờ và tràn ra. Trong xã hội chúng ta, lòng thương xót của Chúa cũng tuôn tràn như “thời khắc vỡ bờ”: Bùng nổ, phá vỡ mọi giới hạn truyền thống vốn cản trở nhiều người khỏi những gì họ xứng đáng được nhận, làm lung lay vai trò và cách suy nghĩ của ta. Sự đầy tràn ân sủng được tìm thấy nơi những đau khổ mà cuộc khủng hoảng này đã phơi bày, và trong cách đáp trả sáng tạo của hàng bao người.

Tôi thấy có rất nhiều tình thương chảy tràn giữa chúng ta. Nhiều con tim đã và đang phải chịu các thách đố. Cuộc khủng hoảng đã khơi dậy nơi nhiều người sự can đảm và lòng trắc ẩn mới. Một vài người trong số đó khi bị thách đố sàng lọc, đã đáp lại bằng khát khao kiến tạo lại thế giới; số khác thì quyết định giúp người thân cận đang gặp túng thiếu bằng các hành động thiết thực để họ có thể vượt qua nỗi đau.

Tôi tràn ngập hy vọng rằng chúng ta sẽ trở nên tốt hơn khi bước ra khỏi cuộc khủng hoảng này. Nhưng để làm được như thế, chúng ta cần phải quan sát kỹ càng, lựa chọn sáng suốt và hành động đúng đắn.

Hãy cùng nói về cách thức để làm điều đó. Hãy để cho lời Chúa phán với tiên tri Isaia cũng vang vọng trong ta: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Chúng ta hãy dám ước mơ.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tiếng đờn ca ở tiệm hớt tóc

Published

on

Hồi ức Phú Nhuận

Đầu thập niên 1960, dân cư quanh khu Bàn Cờ thấy có một tiệm hớt tóc được mở ra ở số 405B đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu - TP.HCM), đoạn giữa chợ Vườn Chuối và đường Cao Thắng. Tiệm có tên Đời Mới, bảng hiệu vẽ ba đầu tóc đàn ông chải bồng kiểu tăng gô không khác gì những mái tóc của kép Dũng Thanh Lâm, kép Minh Phụng sau này. Tiệm không có gì đặc biệt, bề ngang chỉ 2,2m, nhưng ai nấy đều chú ý vì ở đó thỉnh thoảng lại có tiếng đờn ca cổ...

Ban đờn ca tài tử này, tuy lúc rảnh mới tụ lại với nhau mà tồn tại hơn chục năm. Dấu ấn của nó sâu đậm tới mức đến giờ người vùng Bàn Cờ còn nhắc, dù đã hơn 40 năm và các nhân vật trong câu chuyện này hầu như không còn mấy ai.

Ông Tư Triều, chủ tiệm hớt tóc Đời Mới vốn dân gốc ở quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa. Về Sài Gòn lập nghiệp giữa thập niên 1950 sau khi gãy đổ cuộc hôn nhân đầu, ông cưới vợ lần nữa và mở tiệm hớt tóc khi vừa có đứa con gái.

Tiệm cũng là nhà ở, ông sống cùng hai người thợ. Vì có máu văn nghệ, thích ca cổ lại có nghề làm nhạc cụ, ông biến tiệm hớt tóc của mình thành nơi đờn ca tài tử những lúc rảnh. Từ hồi trai trẻ, ông đã mê cải lương, đờn ca cổ nhạc bên cạnh những thú vui khác như đá gà, đua ngựa...

Bạn thân ông đều là người thích tiếng hát, tiếng đờn như bác Năm Trèo ở Hóc Môn, cha của nghệ sĩ cải lương Hoài Thanh. Trước khi có tiệm hớt tóc, giữa thập niên 50, ông chơi thân với nghệ sĩ tài danh Hữu Phước và danh hài Văn Hường. Lúc đó họ chưa nổi tiếng, ông gọi Hữu Phước là Ri vì ông này quốc tịch Pháp có tên Henry và nghệ danh Hữu Phước chưa xuất hiện.

Ông Tư Triều cắt tóc cho một người khách ái mộ cải lương (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Khách đến hớt tóc có đủ loại người, già trẻ lớn bé, từ người trong giới bình dân, trí thức, luật sư, cảnh sát, hoặc phục vụ trong quân đội Sài Gòn, có cả một vị bộ trưởng. Ông Tư Triều là người từng trải, lịch duyệt lại có máu nghệ sĩ nên giỏi ăn nói, rành chuyện cải lương, rành nhạc cụ cổ nhạc. Ông còn biết sửa chữa nhạc cụ. Thoạt đầu, ông mua đờn cũ mang về chỉnh sửa theo ý mình rồi đưa cho bạn bè trong nhóm đờn ca dùng thử. Đến khi cứng tay nghề, ông đến xưởng gỗ bên Chánh Hưng (quận 8) đặt từng thanh gỗ để làm cần đờn, mặt đờn.

Về nhà, ông tiếp tục gọt giũa từng chi tiết rất công phu. Ông tự chế keo dán gỗ, mua dây đàn nhập từ Tây Đức... Khi đờn hình thành, ông đem đi cẩn ốc xà cừ. Ông cầu kỳ đến mức mua đờn tranh, thấy 16 “con nhạn”(miếng gỗ kê dây đờn) không đẹp, đặt luôn những miếng gỗ hình tam giác mang về gọt giũa thành những “con nhạn” mới.

Từ khi nhóm đờn ca tài tử của ông bắt đầu tụ lại, khách đến đông thêm. Những người thường ghé chơi là mấy thầy dạy bên trường Quốc gia âm nhạc như bác Hai Khuê, bác giáo Thinh và bác Bảy Hàm, có nhạc sĩ Vĩnh Bảo, nghệ sĩ tiền phong Duy Lân, bác Mười Phú, chú Mười Hoa (nhạc phụ nghệ sĩ Viễn Sơn), nhạc sĩ nổi tiếng Văn Giỏi, anh Minh Hữu nghệ sĩ đờn kìm, bác Tư Tuất (nghệ sĩ đờn cò một thời của gánh Hương Mùa Thu, thân phụ các nghệ sĩ Hoài Dung, Hoài Mỹ)...

Trong số đó, ông Tư Triều thương anh Minh Hữu vì anh có tài và khiêm tốn, luôn nho nhã với sơ mi trắng và đeo kính cận. Sau này, khi gánh hát Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há lên tivi, bà mời anh Minh Hữu chơi đờn kìm cho tuồng của bà và ông Tư Triều rất sung sướng khi nhìn thấy cây đờn kìm ông làm được Minh Hữu dùng biểu diễn trên truyền hình.

Hầu hết họ đều là các nghệ sĩ đánh đờn, chỉ có vài giọng ca là anh Biện (hay Biền) to cao nhưng hiền lành. Một giọng khác là anh Ngọc, đẹp trai còn hơn nghệ sĩ với mái tóc chải ép, ca rất hay. Ngày đó không dễ gì liên lạc nhau nhưng không hiểu sao mấy nghệ sĩ tài tử này "đụng" nhau thường xuyên ở tiệm Đời Mới như đã hẹn hò từ trước. Mỗi tuần ông Tư Triều đều dành một buổi chơi đờn hay hòa đờn với nhau. Lâu lâu vào buổi tối ông mời bạn bè lên gác hát xướng, hòa điệu cho đến khuya.

Bà Tư niềm nở hiếu khách nên bạn bè ông Tư không ngại. Khách đến chơi, hứng thú khi nhìn chung quanh tiệm treo đầy những cây đờn. Ở nhà sau treo trên hai bên vách hơn 30 loại nhạc cụ (kìm, cò, tranh, sến, guitar, gáo, đoản...), có cây vĩ cầm trong chiếc hộp gỗ thiệt đẹp, bên trong lót vải nhung đỏ rực. Đó là tất cả gia tài và niềm đam mê của ông Tư Triều.

Chú bé Tâm, con trai út của ông Tư Triều nay đã ở tuổi năm mươi, sinh sống tại Đức còn nhớ những ngày vui đầu thập niên 1970 khi mới lên bảy. Lúc đó, cuộc sống còn dễ thở, khách đến đông và giới đờn ca tài tử thường xuyên đến góp vui. Mỗi lần tụ họp thường từ 9, 10 giờ sáng đến quá trưa rồi ai về nhà nấy. Khách qua đường thường đứng lại nghe đờn. Nếu có người ca thì người xem đông hơn.

Có chị hàng xóm dắt con đến cắt tóc, cũng xin ngồi vào ca vài bài, rất đúng nhịp trong khi đợi cậu con trai. Các chú các anh ít khi ca bài vọng cổ mà thường ca những bài cổ, khó hơn như Tây Thi, Lưu Thủy Trường, Xàng Xê, Tứ Đại Oán... Anh Ngọc, giọng ca chính có bài ca Phù Đổng Thiên Vương cách thể hiện rất hào hùng. Ông Tư Triều thỉnh thoảng cũng góp giọng, dù làn hơi yếu nhưng điệu ca lạ tai, vững nhịp.

Nhóm đờn ca tài tử ở tiệm hớt tóc Đời Mới (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Tâm còn nhớ nghệ sĩ Duy Lân thường chở cô học trò cưng Ngọc Hoa (bây giờ là nghệ sĩ Thoại Miêu) đến chơi. Thầy bảo hát gì là chị răm rắp nghe lời. Có lần, tàn cuộc thầy dắt chiếc xe Mobylette ra về, đạp hoài không nổ. Thầy bảo: “Phụ thầy đẩy đi con” là chị lập tức cột hai vạt áo dài trắng tinh, cong lưng đẩy ngay. Một lần Tâm chứng kiến ông Tư Triều đồng ý bán cây đờn do ông chế tác.

Số là trong số khách đến hớt tóc có trung tá X., luôn đi bằng xe Jeep. Anh này thích tiếng của cây đờn tranh, có mướn thầy về dạy riêng ở nhà. Anh kính mến ông Tư, nhiều khi tóc chưa dài cũng ghé cắt, chỉ để nói chuyện với ông. Anh mê một cây đờn tranh cẩn xà cừ rất đẹp của ông và sau nhiều lần thuyết phục, anh được ông Tư đồng ý đổi chiếc đờn lấy một tivi Sanyo 17 inch mới toanh, giá lúc ấy 90.000 đồng. Hẳn ông rất quý anh bạn trẻ và cũng muốn có tivi cho vợ con xem cải lương nên chấp nhận cho cây đờn ra đi.

Từ năm 1973, tiệm hớt tóc Đời Mới dần vắng khách. Kinh tế lúc đó bắt đầu đi xuống do người Mỹ rút đi. Chính quyền đặt ra loại thuế T.V.A (trị giá gia tăng), ngoài thuế môn bài. Tất cả cửa tiệm kinh doanh đều phải kê khai từ ngày thành lập cho đến thời điểm hiện tại và phải đóng một số tiền khổng lồ, nếu không thì dẹp. Ông Tư Triều quyết định đóng cửa tiệm lui về Củ Chi trồng rau nuôi gà và cắt tóc cho dân quanh vùng mưu sinh, cuối tuần lại về Sài Gòn thăm vợ con.

Mấy mươi năm theo tiếng đờn ca của những ban nhạc tài tử, ông gặp đủ loại người. Nhưng không bao giờ gặp lại những bạn bè cùng đi hát trên xe vespa từ khi họ nổi danh, thậm chí còn không nhận ra ông là người quen. Đó là lý do ông không thích đến rạp hát nữa. Nhóm đờn ca tài tử, nơi quy tụ những người cùng ngân nga những bài ca cổ đề cao nhân hiếu tiết nghĩa, cũng là nơi lui tới của những người “vui đâu chầu đó”, điều đó không có gì lạ.

Năm 1979, Tâm gặp lại anh trung tá năm xưa mua cây đờn tranh. Biết tin ông Tư đã về Củ Chi, anh buồn buồn chia tay. Sau đó vài năm, ông Tư Triều mất vì tai biến lúc Tâm đã ra nước ngoài.

Ông Tư Triều và ban đờn ca tài tử của ông chỉ là một mảnh nhỏ xíu trong đời sống văn hóa người Sài Gòn - Gia Định. Họ có thể vô danh hay hữu danh, yêu lời ca tiếng nhạc bằng tâm hồn rộng mở, hồn nhiên và tình cờ góp phần tạo nên mạch ngầm chảy âm ỉ nhưng đủ sức nuôi dưỡng vốn cổ văn hóa của ông bà, từ thời mở cõi vô Nam.

Hồi ức Phú Nhuận | Phạm Công Luận

Đọc bài viết

Cafe sáng