KOMOaudio

Nếu yêu mến Trịnh Công Sơn, bạn không thể bỏ qua những cuốn sách này

Published

on

Có lẽ trong mỗi chúng ta, ai nấy đều có một miền kí ức riêng gắn liền với âm nhạc Trịnh Công Sơn dù ít dù nhiều. Ông không chỉ tạo tác nên những giai điệu sâu lắng, đầy cảm xúc; lời nhạc ông viết ra còn rất thơ, với vô số cách dùng từ mới lạ, làm giàu thêm cho tiếng Việt như: nắng thủy tinh, tuổi đá buồn, tay măng trôi trên vùng tóc dài, rừng xưa đã khép, vết sầu khắc trên da… Chính vì vậy, đã có nhiều cuốn sách không chỉ viết về âm nhạc, cuộc đời ông mà còn phân tích cặn kẽ thi tính trong ca từ của nhạc Trịnh. Để hiểu rõ hơn về người nhạc sĩ thiên tài này dưới nhiều góc độ khác nhau, Bookish đã lập một danh sách các tác phẩm không thể bỏ qua nếu bạn yêu mến nhạc Trịnh Công Sơn. Mình cùng tham khảo nhé.

1. Trịnh Công Sơn – Một Nhạc Sĩ Thiên Tài

Ngay cả với người đã cống hiến rất nhiều cho đời như Trịnh Công Sơn, thì vẫn nguyên khối dở dang còn lại giữa người ra đi và người ở lại. Lòng càng lớn, tài càng cao thì ý nguyện càng nhiều. Làm sao chẳng dở dang? Bao nhiêu biểu hiện tiếc thương mến mộ của người sống là bấy nhiêu sự níu kéo bất lực, bấy nhiêu mối giao tình sửa soạn chùng xuống.

Cái dở dang ấy là một ẩn số, suốt đời là một con số chưa biết và sẽ không bao giờ biết. Đời sống chúng ta ngày một ngày hai sẽ cộm lên những số chưa biết như thế này để cho từng dòng người, từng thế hệ nương theo, truy tìm.

2. Tâm Tình Với Trịnh Công Sơn

Bửu Ý Là người bạn thân thiết của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và là một học giả uyên thâm, một nhà “Huế học” với giọng văn giàu chất trí tuệ, suy tưởng mà vẫn mềm mại, những trang sách của ông có một sức hút riêng và làm người đọc tin cậy.

Trong Tâm Tình Với Trịnh Công Sơn, nhờ sự tinh lọc của tác giả, chúng ta có thể “gặp lại” Trịnh Công Sơn với đầy đủ chi tiết đời sống, tính cách, tâm trạng cùng những giá trị mà Trịnh Công Sơn để lại cho đời.

3. Thư Tình Gửi Một Người

Tập sách gồm toàn bộ thư từ và hình ảnh liên quan mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã gửi cho Ngô Vũ Dao Ánh – người con gái đã là nhân vật trong nhiều khúc tình ca của nhạc sĩ từ năm 1964 đến năm 1989.

Có thể nói qua tập sách người đọc sẽ hiểu hơn con người và hoàn cảnh ra đời của những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, đặc biệt là sự chuyển hóa trong nhận thức của nhạc sĩ.

4. Trịnh Công Sơn Và Bob Dylan – Một Đối Chiếu Về Tôn Giáo, Chiến Tranh Và Tình Yêu

Bằng phương pháp đối chiếu văn hóa và sử dụng chuyên ngành Ngôn ngữ học ứng dụng, tác giả John C. Schafer đặt Trịnh Công Sơn bên cạnh Bob Dylan để giải quyết các câu hỏi: Liệu Trịnh Công Sơn có phái là một Bob Dylan của Việt Nam hay không?; có những tương đồng, dị biệt nào giữa họ trong tư cách nghệ sĩ và con người xã hội?…

Một “sân khấu” được dựng lên với những cuộc khảo sát thú vị trên các phương diện: tôn giáo, chính trị, chiến tranh, tình yêu và chung quy là hai bối cảnh văn hóa đã hun đúc nên hai tài năng này. Từ đó, không chỉ vấn đề tiểu sử cá nhân, tiểu sử nghệ thuật, cá tính sáng tạo, vai trò trí thức của Trịnh Công Sơn và Bob Dylan được trình bày cụ thể, lý tính, mà cuốn sách này còn tái hiện một bức tranh thời đại biến động qua những tương đồng, dị biệt của hai nhân vật lớn thuộc về hai nền văn hóa, đặc biệt trong bối cảnh xung đột, chiến tranh những năm 1960-1970..

Cuốn sách không dừng lại ở những vấn đề thuộc phạm vi âm nhạc, mà xa hơn, soi tỏ một phông nền thời cuộc. Từ đó có thể lý giải vì sao Trịnh Công Sơn và Bob Dylan đã trở thành hai tượng đài vượt ra khỏi khuôn khổ nền văn hóa của mình.

5. Đằng Sau Những Nụ Cười

Không viết theo bất cứ một trình tự nào, các câu chuyện kể trong Đằng sau những nụ cười như những đường nét riêng biệt lúc có lúc không nhưng gắn kết trong những nhớ quên của bức tranh kí ức. Trong bức tranh ấy, hiện rõ tình yêu lớn của nữ ca sĩ với Trịnh Công Sơn.

Hai người từng đi cùng nhau trong những ngày rất trẻ, yêu thương nhau bằng một tình yêu rất đỗi lạ kỳ. Đến với nhau như một mối lương duyên hạnh ngộ. Và suy tư có lẽ sẽ còn kéo dài dai dẳng suốt phần còn lại của cuộc đời. “Ngày đó… ngày đó chúng tôi còn trẻ và rất gắn bó. Có ai trong chúng tôi nghĩ rằng có một ngày nào đó lại phải thương nhớ nhau từng phút giây. Hồn xa rồi, người ta còn có thể sống được không? Trái tim ngưng đập rồi người ta có thể nào không chết? Chúng tôi đã đến với nhau một lần. Chỉ một lần nhưng xin đủ cho một đời…”

6. Trịnh Công Sơn – Tôi Là Ai, Là Ai…

Trịnh Công Sơn – Tôi Là Ai, Là Ai… gồm những bài viết dưới dạng kỷ niệm, hồi ức, cảm tưởng, nghiên cứu về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và những ca khúc của ông, phần lớn đã được công bố trên các phương tiện truyền thông đại chúng từ trước và sau ngày ông mất, của các tác giả là nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhạc sĩ, họa sĩ, ở trong và ngoài nước.

Mỗi người dưới góc nhìn riêng đã bày tỏ tình cảm, suy tư và nhận thức của mình về cuộc đời và những ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

7. Trịnh Công Sơn và Cây Đàn Lyre Của Hoàng Tử Bé

Trịnh Công Sơn và Cây Đàn Lyre Của Hoàng Tử Bé là cuốn sách viềt về Trịnh Công Sơn, do một người bạn từ thời thiếu niên của nhạc sĩ họ Trịnh viết.

Thông qua tập sách, người đọc sẽ được biết về Trịnh Công Sơn tuổi ấu thơ, những tư tưởng ảnh hưởng đến quan niệm triết học của nhạc sĩ họ Trịnh, tuổi thanh niên với nghề gõ đầu trẻ ở Bảo Lộc và những năm tháng trốn lính lao đao hết Huế đến Sài Gòn, những nghi ngại đến từ hai phía và con người Trịnh Công Sơn trong những năm tháng hòa bình.

Cuốn sách được viết dưới nhiều thể loại văn học như truyện ngắn, tản văn, hồi ức, chuyện kể… hình thành nên một tác phẩm về một con người – con người Trịnh Công Sơn.

8. Như những dòng sông

Trong những năm 60 của thế kỷ trước, tên tuổi Trịnh Công Sơn thường xuất hiện trên những tạp chí uy tín ở nước ngoài như New York Times, Le Monde, Figaro… và báo chí Mỹ từng so sánh anh là một Bob Dylan của Việt Nam. Trong nhiều cuộc trả lời phỏng vấn báo chí trong cũng như ngoài nước, Trịnh Công Sơn chỉ nói đến những mơ ước của anh về quê hương, về bạn bè, về tình yêu… Anh không bao giờ đề cập đến chính trị, đơn giản chỉ vì anh không quan tâm đến chính trị.

Trong cuộc đời nổi tiếng khá sớm của mình, Trịnh Công Sơn đã trải qua rất nhiều kinh nghiệm về nhân tình thế thái, đã quen biết với vô số nhân vật tiếng tăm của cả hai chế độ. Trong tất cả các mối quan hệ ấy, anh chỉ nợ người đời ân tình mà không mang nợ vật chất. Anh vẫn e ngại những ngộ nhận, nhưng không bao giờ coi a là kẻ thù. Suốt một cuộc đời tha thứ và nhường nhịn, đó là những đức tính không phải ai cũng có thể có được.

9. Trịnh Công Sơn & Bob Dylan – Như Trăng Và Nguyệt?

Đã có nhiều sách viết về Trịnh Công Sơn và cố gắng giải mã những huyền thoại cũng như đưa ra cách hiểu về cuộc đời âm nhạc của người nhạc sĩ này. Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn hiện diện như thế nào ở góc độ một người nước ngoài, đặc biệt là một người Mỹ đã từng trải qua thời nhạc sĩ sống, thì cuốn sách này có lẽ là một trong số ít ỏi đã nói đến, và hơn thế, phân tích một cách chi ly mà bao quát.

Tác giả quyển sách này, John Schafer, là giáo sư dạy môn văn chương đối chiếu tại Đại Học Humboldt, California, từng viết nhiều bài nghiên cứu về văn chương Việt Nam. Ông đã chọn điểm nhìn so sánh giữa Trịnh Công Sơn và Bob Dylan, một so sánh tưởng chừng có lý để rồi chỉ ra rằng, đây là hai con người hoàn toàn khác nhau, cả về cá tính âm nhạc lẫn tâm thế.

Bob Dylan là hào quang trong lịch sử âm nhạc Mỹ của những năm chiến tranh Việt Nam, người đã dẫn đầu, bằng âm nhạc, phong trào chống chiến tranh và đòi quyền bình đẳng công dân ở Mỹ, vào năm 2011 đã có một buổi biểu diễn trong dịp kỷ niệm mười năm ngày mất của Trịnh Công Sơn. Nhưng Dylan là người như thế nào và âm nhạc của ông có gì để chia sẻ với những bản tình ca và ca khúc phản chiến của Trịnh?

Cuốn sách so sánh những bài hát, những trường liên tưởng nghệ thuật, và cặp đôi nhạc sĩ – ca sĩ ở cả hai bên để làm rõ lên rằng, dù đều là nhạc sĩ – thi sĩ nhưng Bob Dylan và Trịnh Công Sơn đã có những con đường khác nhau. Ảnh hưởng của Kitô giáo lên Dylan hay Phật giáo nơi Trịnh là những ánh sáng soi rọi cho các tác phẩm của họ, và sự trải nghiệm của mỗi người trong hoàn cảnh chiến tranh đưa đẩy họ đến vị trí tiêu biểu cho cảm thức của thế hệ.

Cuốn sách đặc biệt ở chỗ là tiểu luận của một giáo sư người Mỹ đã từng dạy học ở Huế những năm 1960, và được người bạn đời người Việt dịch, và có lời giới thiệu của một người yêu nhạc Trịnh Công Sơn bằng sự thông tuệ sâu sắc là giáo sư Cao Huy Thuần. Có thể nói, cuốn sách còn là cuộc gặp gỡ Trịnh Công Sơn từ ba lục địa, nơi nhạc Trịnh vẫn được hát và yêu thích như thuở nào.

Hết.

Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

KOMOaudio

Hành trình thay đổi đất nước của Sứ đoàn Iwakura

Published

on

By

Dựa trên chuyến đi của Đại đế Nga Peter đến các nước Tây Âu để học hỏi vào thế kỷ 19, Sứ mệnh Iwakura mở ra công cuộc Duy Tân Minh Trị đã làm thay đổi Nhật Bản một lần và mãi mãi với cuộc hành trình kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 – 1873).

Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ do công tước Iwakura Tomomi dẫn đầu, với khoảng 50 thành viên, gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau, như: Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Có tầm quan trọng bởi đây là lần đầu tiên mà một quốc gia phương Đông tự mình tham gia vào hệ thống thương lượng quốc tế, trong khi ở thời điểm đó vấn đề ngoại giao chỉ được giới hạn trong mối liên hệ giữa một nhóm người có chung một nền văn hóa hoặc về ngôn ngữ như Mỹ với bất cứ cường quốc châu Âu nào; hoặc các quốc gia nói tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Ý, hay tiếng Tây Ban Nha với nhau, nơi ngôn ngữ quốc tế không gây ra những sự bất tiện.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Một góc nhìn mới

Nói về chuyến Tây du khảo cứu quan trọng này, tư liệu từ phía Nhật Bản tương đối đầy đủ, chủ yếu nằm trong 5 tập Beto Kairan Jikki (Báo cáo về chuyến đi của đoàn đại sứ đặc biệt đến Mỹ và châu Âu) do sử gia Kume Kumitake và cũng đồng thời là người trải nghiệm thực địa viết nên.

Nó là một sự tổng hợp giữa nhật ký, thông tin nghe được từ các chuyến thăm, nhưng cũng có phần hạn chế bởi các quan điểm của người chắp bút. Vì vậy, Sứ đoàn Iwakura do Ian Nish chủ biên như một mảng khác để hoàn thiện thêm hành trình quan trọng này, đến từ góc nhìn của phía Tây phương.

Học giả, nhà nghiên cứu về Nhật Bản Ian Nish.
Nguồn: The Telegraph

Như Ian Nish chia sẻ, tác phẩm này được tổng hợp từ hội nghị ba năm họp một lần của Hiệp hội Nghiên cứu Nhật Bản ở châu Âu diễn ra vào năm 1997, trùng đúng kỷ niệm 125 năm chuyến đi diễn ra. Tại đó nhiều nhà nghiên cứu đã tìm về các tư liệu vẫn còn lưu trữ tại các quốc gia phương Tây, như nhật ký của các chính khách, báo chí địa phương, những lá thư trao gửi nội bộ giữa các đại sứ quán… có so sánh với tác phẩm của Kume Kumitake và báo chí Nhật Bản. Qua đó nhìn lại cuộc du khảo này trên phương diện lịch sử, chính trị và quan hệ quốc tế, cũng như làm rõ vai trò của sứ đoàn và phản ứng của phương Tây đối với sự kiện này.

Có thể thấy rằng thách thức đặt ra tương đối lớn, bởi lẽ nhiệm vụ của sứ đoàn Iwakura có tầm quan trọng đối với Nhật Bản hơn là các nước mà họ đến thăm, nên nguồn tư liệu có thể là không đầy đủ. Vì vậy trừ các quốc gia có tầm vóc lớn như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức… thì những trải nghiệm tại các nước nhỏ hơn như: Hà Lan, Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha… gần như không được đề cập trong các văn kiện còn lại. Một điểm bất ngờ của cuốn sách này là bài nghiên cứu về cuộc viếng thăm Thụy Điển của đoàn thám hiểm, với những tiết lộ mới được bật mí, những tưởng đã không tồn tại trong suốt nhiều năm.

Qua đó các nhà nghiên cứu đã làm rõ được nhiều yếu tố, mà một trong số đó là các mục tiêu của phía Nhật Bản. Theo đó ngoài việc giới thiệu với phương Tây những gương mặt lãnh đạo mới, kết thân với giới lãnh đạo phương Tây, tìm hiểu và đánh giá sự phát triển, nhận thức, các bài học của họ trong mọi lĩnh vực để tìm ra mô hình khả thi chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời thành quốc gia hiện đại; thì mong muốn đàm phán lại những hiệp ước từng ký tương đối bất lợi cũng được coi là một trong những vai trò được đặt lên hàng đầu trong chuyến đi.

Bởi lẽ, trước khi lên đường, vào năm 1858, Nhật Bản đã phải ký các Hiệp ước hòa bình và hữu nghị với Mỹ để mở cửa và thúc đẩy thêm giao thương thương mại. Sau đó Anh, Pháp theo chân và cũng đòi hỏi những điều tương tự. Các nước phương Tây như Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch… cũng ký một hiệp ước chung, dẫn đến một trong những mục đích lớn được các nhà nghiên cứu đặt ra là liệu có phải nó nhằm hướng đến việc xem lại các hiệp ước sao cho phù hợp hơn trước bối cảnh chế độ phong kiến đã bị phế truất, và chế độ mới của giai đoạn Minh Trị vừa mới bắt đầu.

Phái đoàn Iwakura (cánh trái) trong buổi tiếp kiến Tổng thống Pháp. Tranh minh họa của James E. Taylor

Do đó, có thể khẳng định động cơ của sứ đoàn thay đổi theo thời gian và theo suy nghĩ của những người có liên quan. Ngay từ ban đầu khi ở nước Mỹ, có thể thấy Iwakura có lần đề cập đến việc đàm phán một hiệp định mới với Tổng thống Grant bằng việc kêu gọi một sự xem xét của toàn liên minh bao gồm châu Âu cũng như Mỹ. Chính việc khước từ lời kêu gọi này mà nhiều khả năng nhiệm vụ đàm phán ở các quốc gia châu Âu lui lại, để việc thu thập thông tin được đưa lên một vị trí cao hơn.

Vì thế ở Anh, sứ đoàn có đôi lần nhắc đến yếu tố chỉnh sửa hiệp định, nhưng họ không muốn bản thân quyết định, mà chỉ chủ yếu muốn nghe quan điểm từ phía nước Anh hơn là thúc đẩy đi đến cuối cùng. Tại đây họ cũng gặp phải một yêu cầu kép là phải mở rộng cảng hơn nữa cho các tàu châu Âu và nhanh chóng khoan dung tôn giáo, chấm dứt diệt đạo. Điều này rồi sẽ liên tục trở lại ở các nước khác, như Hà Lan – nơi họ chịu sự chỉ trích mạnh mẽ trong việc dập tắt tôn giáo, hay các cuộc gặp với Liên minh Phúc Âm ở Đức, Thụy Điển.

Những người phụ nữ ăn mặc theo kiểu phương Tây đến Hoa Kỳ vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura.
Nguồn ảnh: Kameda Kinuko.

Dẫu vậy cũng theo các nhà nghiên cứu, góc nhìn hậu thế không nên khắt khe nếu những bước đầu trên trường ngoại giao quốc tế của sứ đoàn Iwakura có phần loạng choạng, bởi họ gần như không có điểm chung nào đối với phương Tây. Trong khi tiếng Nhật không phải là ngôn ngữ quốc tế, hệ thống tương tác văn hóa của Nhật cũng không gắn bó (mà còn kình chống) với thế giới quan Latin - Thiên chúa giáo… Vì vậy thất bại hay việc chưa đạt được những mục tiêu chính trị có phần dễ hiểu.

Điều này còn chưa kể đến tình hình rắc rối trong nội bộ nước Nhật khi sứ đoàn tiến hành các chuyến du khảo, cũng như những sự đối lập về nền tảng tư duy giữa các thành viên khi buổi chuyển giao giữa chế độ Phong kiến và Minh Trị Duy Tân vừa mới xảy ra trong thời gian ngắn.

Thay đổi ở Nhật Bản

Các bài viết lớn và được nghiên cứu nhiều nhất là ở ba cường quốc của thời bấy giờ gồm Hoa Kỳ, Anh và Pháp. Ở đó sứ đoàn nhìn thấy tinh thần tự do, phóng khoáng của Mỹ, sức mạnh từ cuộc cách mạng công nghiệp của Anh và sự phóng khoáng, tinh tế, thanh lịch tràn ngập nghệ thuật ở Pháp. Ở mỗi điểm dừng họ được chào đón một cách long trọng, được đón tiếp bởi những vị nguyên thủ hàng đầu đất nước, và quan trọng nhất là nhận ra được một thành công chung của các nước này dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, giáo dục, phát triển mạnh mẽ, và một thể chế chính trị dân chủ.

Phái đoàn Ngoại giao Nhật Bản trình tài liệu cho Tổng thống Mỹ Ulysses S. Grant. Tranh minh họa của James E. Taylor.

Ở các nước khác họ có những mối quan tâm riêng biệt hơn. Chẳng hạn ở Đức và Bỉ, sứ đoàn Iwakura quan tâm nhiều hơn đến sức mạnh quân sự cũng như cơ sở hạ tầng giao thông. Trong khi ở Ý, nghệ thuật và các nghệ nhân lại khiến cho họ mê mẩn hơn cả. Đây là tương quan có tính hai chiều, khi Bỉ cũng muốn Nhật Bản trở thành đối tác về mặt quân sự, để xuất khẩu vốn và làm giảm xuống ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế 1867. Cùng trong lúc đó, Ý muốn Nhật Bản mở rộng đường hơn cho những thương nhân ngành lụa, vì ý thức được vai trò quan trọng của vấn đề này…

Từ đó sau khi trở về phương Tây từ năm 1868, Nhật Bản đã có những bước tiến lớn mang tính nhảy vọt. Một trong số đó là việc coi trọng giáo dục kỹ thuật. Theo các thống kê, từ năm 1868 đến năm 1902, Nhật Bản đã cấp hơn 11.000 visa du học, biến đây trở thành “đợt thủy triều du học” đầu tiên đến từ châu Á.

Không ngừng ở đó, họ cũng thuê thêm hai vị chuyên gia xây dựng kế hoạch giáo dục tổng quát, từ đó hình thành đại học kỹ thuật. Vào giai đoạn này, chính quyền Minh Trị cũng thuê từ 500 cho đến 600 những người từ nước ngoài về làm việc cho chính phủ mình. Tính đến năm 1890, Nhật để thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật ở mọi lĩnh vực cũng như ngành nghề.

Hình minh họa châm biếm một samurai chui đầu vào nòng súng tại buổi đến thăm nhà máy sản xuất súng của Krupp. Hình ảnh Peter Pantzer cung cấp.

Những gì có được từ cuộc du khảo cũng có ảnh hưởng đến các quan điểm về mặt chính trị một cách sâu sắc. Theo đó, sau chuyến viếng thăm nước Nga, họ sớm nhận ra nếu Nhật Bản phải liên quan tới một quốc gia khác thì đó không phải là Triều Tiên mà chính là Nga. Vì vậy khi việc tranh cãi ác liệt về việc có nên tấn công nhắm vào Triều Tiên, phái chủ hòa gồm những thành viên đã từng tham dự chuyến du khảo này đã kịch liệt phản đối, từ đó thay đổi quan điểm của riêng chính phủ trong việc can dự vào các vấn đề mang tính bành trướng.

Điều này không chỉ đến từ nước Nga và các dự cảm bị xâm lược của những người Nhật, mà còn đến từ nước Pháp trước đó, khi họ nhận ra đế quốc lớn này thu được nhiều nguồn nguyên liệu lớn đến từ thuộc địa, nhưng còn quá sớm để đánh giá được tính hiệu quả của bước đi này. Chuyến thăm viếng này cũng làm thay đổi nhận thức về tự do tôn giáo, từ đó tạo những điều kiện thuận lợi để mở cửa Nhật Bản.

Bởi lẽ một trong những lý do ban đầu cho việc bức hại Kitô giáo ở Nhật là các nhà lãnh đạo lo sợ nó sẽ cho phép các nước phương Tây xâm chiếm Nhật Bản để bảo vệ những người đồng đạo. Thế nhưng bằng việc sứ đoàn không bị tổn hại khi mạo hiểm đi vào đất nước có tôn giáo đối nghịch, thì chính phủ Nhật Bản đã yên tâm rằng Kitô giáo không phải là đoàn quân tiên phong xảo quyệt của một cường quốc phương Tây. Từ đó tháo gỡ nút thắt của cả hai bên vốn đã tồn tại từ lâu.

Quãng đường đã đi của Sứ đoàn Iwakura. Nguồn Digital Museum of the History of Japanese in New York.

Qua cuốn sách này, thêm một lần nữa có thể khẳng định về tầm nhìn xa của riêng nước Nhật trong các chính sách canh tân thời Minh Trị, từ đó mở ra một chương sử mới trong lịch sử Nhật Bản. Không chỉ nhìn nhận từ phía chủ quan, Sứ đoàn Iwakura còn là góc nhìn đến từ khách quan để thêm lần nữa xóa tan huyền thoại về những vấn đề xoay quanh chuyến đi lịch sử, góp phần giải mã cho sự thành công cũng như tiến bộ một cách nhanh chóng của đất nước này đối với thế giới. 

Nguồn: Người Đô Thị | Minh Anh

Đọc bài viết

Book trailer

Hồi ức Phú Nhuận: Trải nghiệm hành trình đa chiều qua lịch sử của một quận đô thị độc đáo

Published

on

By

Hồi ức Phú Nhuận – tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận – không dừng lại trong phạm vi ghi chép dáng dấp cơ bản của một vùng đất, mà còn phần nào đó giúp người đọc nhận diện đời sống đô thị đất Sài Gòn, trong trăm năm qua.

Trong Hồi ức Phú Nhuận, Phạm Công Luận cố gắng ghi nhận dòng chảy thời gian đi qua một vùng đất bằng việc sưu tầm và viết lại những hồi ức tản mạn không chỉ của riêng tác giả – một người sinh ra và lớn lên gắn bó với vùng đất này, mà còn từ lời kể của nhiều cư dân Phú Nhuận qua các thế hệ.

Tinh thần Phú Nhuận xưa được tái hiện sống động

Phú Nhuận là một trong những quận nội thành quan trọng áp sát trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh. Sau hơn 300 năm hình thành và phát triển, từ xuất thân nhỏ bé là một vùng đất cằn cỗi, một gò đất hoang với vài hộ gia đình lưu dân tới khẩn hoang lập ấp, Phú Nhuận đã vươn mình trở thành một quận hoàn toàn đô thị hóa. Nơi đây có một cuộc sống đa dạng với nhiều sắc thái, có lịch sử ngang bằng với đô thị Sài Gòn, có một số nhân vật được trọng nể vì những đóng góp cho xã hội trên nhiều mặt và có những địa chỉ khiến người từ các nơi khác phải tìm đến…

Trong những bài viết của Hồi ức Phú Nhuận, tinh thần Phú Nhuận xưa hiện lên rõ nét qua những câu chuyện hoài niệm về các con đường ngày xưa, có con đường từng trải qua bảy lần thay tên (đường Nguyễn Văn Trỗi), có con đường từng đi ngang quán xá và trại lính (đường Võ Tánh ngày xưa, nay là Hoàng Văn Thụ); là những quán ăn, tiệm cà phê mà tác giả luôn mong “lớn nhanh để đĩnh đạc bước vào” nhưng “không bao giờ có cơ hội đó nữa vì tất cả đều đã đóng cửa qua thời gian”...

Chính vì những lẽ đó, Hồi ức Phú Nhuận tuy là kí ức riêng của tác giả nhưng lại bắt được dòng hơi thở chung của đời sống đô thị Sài Gòn xưa và nay.

Những trang viết giàu cảm xúc, đầy ắp tư liệu

Hồi ức Phú Nhuận gồm 60 bài viết về Phú Nhuận theo trục thời gian trải dài từ xưa đến nay, bao quát đủ mọi mặt trong đời sống của quận đô thị này, được tác giả chia thành chín phần: Mấy nẻo đường quen, Nơi chốn đi về, Dưới mái trường xưa, La cà quán xá, Giải trí và rèn luyện thân thể, Cơ sở làm ăn, Dập dìu tài tử giai nhân, Ôn chuyện xưa; và phần Phụ lục điểm qua sáu giai đoạn hình thành và phát triển của Phú Nhuận.

Với giọng văn trầm tĩnh, giàu cảm xúc và tư liệu đầy đặn, 60 bài viết như những thước phim ngắn được bật lên, lần lượt đưa người đọc tìm về những tinh túy đã từng hiện diện ở Phú Nhuận: có một số thứ dù còn tồn tại nhưng ít nhiều thay đổi qua thời gian, có một số thứ tuy đã biến mất nhưng vẫn ẩn tàng trong kí ức của người Phú Nhuận và trong những góc khuất của đời sống.

Tùy bút vốn là thể loại để người viết có thể tự do tung hứng theo cảm xúc. Nhưng ở Hồi ức Phú Nhuận, Phạm Công Luận đã viết không chỉ dựa vào cảm xúc đơn thuần mà còn có sự nghiên cứu, phóng chiếu với những tư liệu thực tế đúng như thao tác thường thấy ở nhà báo chuyên nghiệp.

Bộ sưu tập công phu về đời sống Phú Nhuận

Phạm Công Luận khảo sát về Phú Nhuận ở đủ mọi khía cạnh: lịch sử, văn hóa, tâm lý, lối sống, giải trí, kinh doanh… Qua đó, những giá trị Phú Nhuận đã từng tồn tại, nay trở lại trong ký ức và niềm thương cảm về thân phận một vùng đất mà mỗi người, mỗi thế hệ người dân đã gắn bó bằng những cách khác nhau.

Trong Hồi ức Phú Nhuận, tác giả còn cung cấp những thông tin thú vị mà nhiều khi chính người Phú Nhuận chưa hẳn đã biết: Nhà văn Hồ Biểu Chánh đã sống ở Phú Nhuận những năm cuối đời, sau khi ông mất, con đường có ngôi nhà ông ở (trước đây vốn là con hẻm), đã được đặt lại theo tên ông, trở thành đường Hồ Biểu Chánh như ngày nay; tiệm phở Bắc Huỳnh thuộc hàng cao cấp, dù chỉ tồn tại ngắn ngủi nhưng rất tiếng tăm, khi đột nhiên đóng cửa năm 1982 đã khiến nhiều người vô cùng tiếc nuối; đầu thế kỉ 20, nhà thuốc Ông Tiên ở Phú Nhuận là “nhà bào chế và kinh doanh thuốc Đông dược có tiếng trên toàn cõi Đông Dương”…    

Khi nhắc đến một vùng đất, không thể không đề cập đến những con người đã và đang gắn bó ở đó. Chính vì vậy, trong Hồi ức Phú Nhuận, Phạm Công Luận dành hẳn hai phần để viết về những người đã chọn Phú Nhuận làm nơi an cư: phần Dập dìu tài tử giai nhân dành cho giới nghệ sĩ, phần Ôn chuyện xưa dành cho những người Phú Nhuận trong kí ức tác giả.

Bên cạnh đó, cuốn sách còn có phần tranh của họa sĩ Phạm Công Tâm, Trương Ánh Mai cùng ảnh tư liệu phong phú từ nhiều nguồn khác nhau. Sự kết hợp hài hòa giữa những trang viết đa chiều, giàu cảm xúc và phần hình ảnh được đầu tư chăm chút khiến Hồi ức Phú Nhuận thực sự là món quà quý để người đọc tìm về di sản văn hóa của Phú Nhuận, để hòa điệu, tri ân những độc giả luôn nặng lòng với quận đô thị này.

Trích đoạn

Các nghệ sĩ của Sài Gòn một thuở, những bóng sắc huyền thoại, những danh ca một thời, những nhà văn nhà báo của nửa thế kỷ trước từng sống ở đây hầu như không còn ai ở lại cư xá này, trừ căn nhà 215D/16 năm xưa của nghệ sĩ Năm Châu, nay đã ngăn thành hai căn cho gia đình hai người con và đổi thành địa chỉ mới.

(Trích Cư xá của các nghệ sĩ)

Trong hơn 20 năm trước 1975, nhà hàng bò bảy món Ánh Hồng tuy tọa lạc trên con đường nhỏ ở Phú Nhuận nhưng tiếng tăm vang ra khắp Sài Gòn – Gia Định. Nhiều người, nhất là giới văn nghệ sĩ biết tiếng nhà hàng này, đã từng đến thưởng thức bảy món bò của bà Tư Lái, bếp chính. Tuy vậy, không mấy ai biết gốc gác của nó.

(Trích Nhà hàng bò bảy món Ánh Hồng danh tiếng Sài thành)

Về tác giả

Nhà báo Phạm Công Luận là tác giả của những tựa sách gây tiếng vang và được tái bản nhiều lần như Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Những lối về ấu thơ, Chú bé Thất Sơn. Không chỉ nổi bật trong thể loại tản văn, ông còn là một cây bút gạo cội sở hữu lượng tác phẩm dồi dào, mang đến cho độc giả nhiều tập sách chuyên khảo, hồi ký về Sài Gòn giàu giá trị như Sài Gòn – Chuyện đời của phố (5 tập), Phong vị báo xuân xưa, Sài Gòn – Ngoảnh lại trăm năm…

Đọc bài viết

KOMOaudio

Trò chuyện cùng tác giả “Ga thiền” về cách giúp trẻ giải tỏa căng thẳng

Published

on

Một mùa tựu trường nữa lại chuẩn bị bắt đầu. Bên cạnh việc sắm sửa sách giáo khoa, học cụ cho con; chuyện giúp con rèn luyện những kĩ năng về sức khỏe tinh thần có lẽ cũng là một trong những vấn đề được phụ huynh quan tâm hàng đầu.

Nắm bắt được nhu cầu đó, Phương Nam Book đã phát hành bộ sách “Giúp trẻ làm quen với thiền” để hướng dẫn bé cách giải tỏa căng thẳng. Và Ga thiền là một tác phẩm nằm trong bộ sách này.

Ga thiền lấy ý tưởng về chuyến tàu của nội tâm mà thông qua đó, trẻ có thể học cách quan sát những toa tàu cũng chính là quan sát những suy nghĩ bận rộn, những cảm giác khó chịu và thất vọng của bản thân mình.

Bài phỏng vấn dưới đây do nhà báo Deborah Kalb thực hiện với Susan B. Katz – tác giả phần lời cho Ga thiền sẽ giúp bạn đọc phần nào hiểu rõ hơn những điều đặc biệt của tác phẩm cũng như phương pháp giúp trẻ giải tỏa căng thẳng.

Từ đâu cô có ý tưởng viết Ga thiền?

Trong khoảng 20 năm vừa qua, tôi đã tham dự các khóa tu thiền tại Trung tâm Thiền Spirit Rock với nhiều giáo viên khác nhau, trong đó có cô Sylvia Boorstein. Cách đây vài năm, trong một buổi pháp thoại, cô Sylvia có giảng là nên để những ý nghĩ trôi qua như đám mây.

Là một tác giả viết sách cho trẻ em, tôi quyết định truyền đạt lại khái niệm đó sao cho gần gũi với các em. Thế rồi, ý tưởng về một nhà ga xe lửa và cách vận dụng những từ ngữ để giảm tốc cho “chuyến tàu nội tâm” đến với tôi. Sau đó, tôi cũng nghĩ ra được tiêu đề Ga thiền bởi tôi thích âm điệu của nó (tiêu đề tiếng Anh của tác phẩm này là Meditation Station, có vần ở -tation – chú thích của người dịch).

Tôi đã có dịp làm việc với các sư thân cận thầy Thích Nhất Hạnh khi còn là Giám đốc Đối tác Chiến lược tại Facebook; nhờ đó, tôi quen được một sư cô trong đội ngũ của thầy; về sau, cô đã tham gia làm biên tập viên cho tờ tạp chí Shambhala. Thế là, tôi đưa bản thảo này cho cô và cô rất thích.  

Theo cô, những phương pháp nào là tốt nhất để dạy trẻ em về chánh niệm?

Chánh niệm có nghĩa là có mặt trong giây phút hiện tại, bất kể lúc đó bạn đang rửa chén, ăn uống, đi bộ hay nói chuyện với ai đó.

Một số phương pháp đơn giản nhất có thể áp dụng cho trẻ là:

1. Thở bụng:

Đặt tay lên bụng và hít hơi vào trong 3 giây, từ từ để không khí làm căng phồng bụng như quả bóng. Tạm dừng một giây trước khi thở ra, sau đó thở ra trong năm giây. Điều quan trọng là thời gian thở ra phải dài hơn thời gian hít vào vì nghiên cứu cho thấy chu trình này sẽ làm dịu hệ thần kinh giao cảm và làm nhịp tim chậm lại. Tóm lại, quá trình này giúp giảm mức độ căng thẳng;

2. Trò chuyện với trần nhà:

Các nhà giáo dục cho rằng khi đặt tên những cảm xúc của chúng ta rồi xem chúng là bạn, ta sẽ có thể làm giảm tác dụng của hiệu ứng “bộ lọc xúc cảm”.  Theo lí thuyết, khi ta làm bạn với cảm xúc của mình, ta sẽ có khả năng vượt qua nỗi lo lắng; đồng thời, tinh thần sẵn sàng chấp nhận những rủi ro cũng được nâng lên. Tôi bảo các bé nói với trần nhà (hoặc, với những bé nhút nhát hơn thì cứ thì thầm vào khuỷu tay), những câu nói như: “Xin chào, Nỗi Sợ, người bạn thân mến của tôi!”, hoặc “Chào buồi sáng, Quý Ngài U buồn.” Còn Chán Nản thì là một anh bạn to con. “A, cậu đã trở lại rồi, Cậu bạn Chán Nản, mừng cậu đến!” Nghe có vẻ ngớ ngẩn, nhưng một nửa trận chiến là dạy trẻ gọi tên và thừa nhận cảm xúc của mình. Không phán xét hay kháng cự. Trẻ càng nhận thức được những gì mình đang cảm thấy, thì kỹ năng sống sẽ càng được tăng cường để đối mặt trực diện với cảm xúc và những trải nghiệm thay đổi. Tóm lại, hãy làm bạn với những cảm xúc của mình và rồi những cảm xúc đó sẽ ít tác động đến bạn hơn.

3. Ở lại sân ga:

Phương pháp này lấy từ chính cuốn sách Ga thiền của tôi. Hãy bảo bé tưởng tượng rằng bé đang ở trong một nhà ga xe lửa. Khi có một ý nghĩ xuất hiện trong đầu cố lôi kéo bé đi, hãy cứ nhìn ý nghĩ ấy trôi qua. Vẫy chào tạm biệt chuyến tàu/ dòng suy nghĩ. Cảm nhận mặt đất bên dưới đang nâng đỡ bé. Hít vào và thở ra thật sâu. Chạm đầu ngón tay. Ngoe nguẩy ngón chân. Nương tựa vào chính cơ thể và hơi thở của mình sẽ giúp bé có thể nhẹ nhàng quan sát dòng suy nghĩ đang ngược xuôi trên đường ray mà không bị cuốn vào. Và ở đây, phương pháp nói xin chào (hay tạm biệt) một ý nghĩ cũng khá hữu dụng. Chẳng hạn như: “Chào cơn mộng tưởng dạo chơi công viên.”

4. Vận động:

Trẻ em vốn cần vận động. Khi ở nhà, trẻ có một lợi thế là có nhiều cơ hội để đứng dậy đi đây đó, chơi đùa. Tuy nhiên, những lúc trẻ cứ ngồi nhìn chăm chăm vào một thiết bị suốt khoảng thời gian dài, rất cần phải cho trẻ đứng dậy vận động. Trẻ có thể đã biết những tư thế yoga căn bản, bạn có thể chỉ thêm cho trẻ một số bài tập giãn cơ hay cân bằng để trẻ tập luyện. Có rất nhiều tư thế được đặt theo tên động vật càng khiến cho quá trình vận động trở nên hứng thú. Bé có biết đứng thăng bằng như một cái cây, hai tay dang ra làm cành không? Bé có biết vòng cánh tay để làm tư thế chim đại bàng? Rồi còn có tư thế mèo/ bò, cá heo, rắn hổ mang nữa. Danh sách vẫn còn rất dài. Một bài tập yoga/ giãn cơ đơn giản cho “não nghỉ giải lao” có thể sẽ giúp trẻ tập trung trở lại. 

5. Bé đang cảm thấy gì?

Phương pháp này khuyến khích trẻ vận động năm giác quan quay trở lại thời điểm hiện tại. Không cần phải lo lắng về câu hỏi kiểm tra ngày mai (ý tôi là vẫn cần học bài, nhưng đừng lo sợ) hay nghĩ ngợi về khoảnh khắc xấu hổ khi học online trên Zoom vào ngày hôm qua. Ngay bên ngoài, có thể là trong vườn nhà bạn hay công viên địa phương, hãy chơi trò săn tìm những âm thanh tự nhiên. Bạn cũng có thể chơi trò “Tôi thấy” với trẻ để trẻ rời mắt khỏi màn hình và tương tác với gia đình. Trẻ có thể nhắm mắt lại và đoán những mùi hương quen thuộc trong bình (hoặc trên bông gòn) không? Những mùi dễ sẽ là: quế, thông, chocolate hoặc bỏng ngô. Tiếp đến là vị giác, hãy đặt một viên M&M hoặc nho khô lên lòng bàn tay trẻ. Trẻ có thể ngửi nhưng chưa được nếm. Sau đó, bảo trẻ cho thức ăn vào miệng và để hương vị được vị giác hấp thu từ từ. Nhai thật chậm, tận hưởng hương vị. Chánh niệm vốn đòi hỏi chúng ta phải dừng chậm lại, để trở thành một phần của trải nghiệm.

Thực hiện phỏng vấn: Deborah Kalb
Hoàng Đức Nhiên dịch

Đọc bài viết

Cafe sáng