Trích đăng

Nếp trên bản đồ ẩm thực dân gian Việt Nam

Nếp là một nguyên liệu chính làm nên vô vàn món xôi, bánh, chè ở khắp các vùng miền, tăng thêm sự phong phú cho ẩm thực dân gian Việt Nam.

Published

on

Trích từ: Thơm thảo xôi chè
Tác giả: Trần Thị Hiền Minh
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 4.2023

Là đất nước nông nghiệp, ngoài hai vựa lúa lớn là đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam còn có những vùng canh tác lúa ở Đông Bắc, Tây Bắc, Trung bộ, Đông Nam bộ. Gạo góp cho kho tàng ẩm thực Việt Nam rất nhiều món ăn hằng ngày và hàng trăm món bánh làm từ bột gạo. Nếp là một nguyên liệu chính làm nên vô vàn món xôi, bánh, chè ở khắp các vùng miền, tăng thêm sự phong phú cho ẩm thực dân gian Việt Nam.

Không ít tỉnh, thành đã tạo ra những loại gạo, nếp đặc trưng cho vùng miền. Riêng về nếp, có thể nói đặc tính nếp của từng vùng miền đôi khi buộc người chế biến phải lựa chọn đúng mới tạo ra hương vị chuẩn cho món ăn.

Bắc bộ

Nếp cái hoa vàng

Đến Hà Nội mà được mời dùng xôi hay bánh chưng, bà con miền Nam thường được nghe kèm lời giới thiệu “xôi này được nấu, bánh chưng này được gói bằng nếp cái hoa vàng đấy” như để đảm bảo độ ngon của xôi, của bánh, dù có để 4 – 5 ngày vẫn dẻo mềm, không bị “lại gạo”.

Tên “nếp cái hoa vàng” (còn gọi là nếp ả hay nếp hoa vàng) được người làm nông đặt dựa trên đặc tính của giống nếp này khi lúa trổ đòng thì phấn hoa có màu vàng. Đây là gạo nếp ngon được trồng nhiều ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Hạt nếp cái hoa vàng tròn đầy, màu trắng đục nhưng khi đồ xôi, làm bánh thì hạt nếp trở nên trong, dẻo, vị nếp ngọt, hương thơm lâu nên từ các bà nội trợ gia đình đến người làm hàng bán đều thích chọn sử dụng. Nếp cái hoa vàng đã được một số địa phương chọn làm giống nếp đặc sản, tạo thành vùng chuyên canh và xây dựng thương hiệu như nếp cái hoa vàng Kinh Môn (Hải Dương), nếp cái hoa vàng Gia Miêu ngoại trang tại xã Hà Long, huyện Hà Trung (Thanh Hóa).

Bên cạnh nếp cái hoa vàng, ở đồng bằng Bắc bộ còn có nếp nhung và nếp bắc. Nếp nhung hạt tròn đều cũng được chuộng để nấu xôi, làm bánh bởi nếp có độ dẻo, mùi thơm dịu tỏa ra ngay khi đang nấu xôi, bánh. Gạo nếp nhung xay thành bột còn được chuộng làm bánh dày, bánh đúc bởi tính hơi nở nhưng dẻo bột, làm cho bánh khi nguội vẫn giữ được độ mềm. Nếu như nếp cái hoa vàng và nếp nhung chủ yếu dùng nấu xôi, làm bánh; thì nếp bắc còn được dùng để nấu chè, đặc biệt là chè con ong cần hạt nếp thật dẻo nhưng không bị dính nát khi nấu.

Nói đến nếp trong ẩm thực dân gian ở Bắc bộ, không thể bỏ qua một số loại nếp nổi tiếng ở các vùng Tây Bắc và Đông Bắc.

Những thửa ruộng bậc thang trải khắp Tây Bắc và Đông Bắc trông như những bức tranh phong cảnh tuyệt mỹ khiến khách du lịch ngất ngây, nhất là vào mùa lúa chín. Chính trên những thửa ruộng tuyệt mỹ ấy, bà con vùng cao đã bỏ công khó nhọc trồng những loại gạo nếp dẻo thơm, ngọt bùi. Có những nơi bà con chỉ dùng nếp nấu cơm, khách du lịch đến ăn cơm nếp vài ngày cũng không thấy ngán nên hỏi han, rồi mua về nấu thử hoặc làm quà.

Nếp Tú Lệ

Nếp ở Tây Bắc nổi tiếng sớm là nếp Tú Lệ được trồng ở thung lũng xã Tú Lệ, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, xếp vào một trong những loại nếp ngon nhất nước ta. Nếp Tú Lệ tròn mẩy hạt, khi đồ chín cho hạt xôi trắng bóng trông hấp dẫn, xôi rất dẻo nhưng tơi hạt. Bà con Yên Bái bảo đồ xôi bằng nếp Tú Lệ không cần phải thêm đỗ (đậu), thêm dừa gì cả, ăn xôi nếp thôi để cảm nhận đúng vị ngọt tự nhiên, mùi thơm mát như thể tinh túy núi rừng hòa vào trong từng hạt nếp. Ăn rồi còn muốn mang theo, thế là bà con gói cho nắm xôi, để từ sáng đến tối mà xôi vẫn dẻo.

Nếp nương

Nếp nương là đặc sản của Điện Biên. Nếu như các loại nếp ở Bắc bộ có đặc trưng hạt ngắn, tròn thì nếp nương Điện Biên lại là hạt thon dài, chắc. Nếp nương Điện Biên chưa nấu đã có mùi thơm thoang thoảng. Bà con Điện Biên bảo do được trồng trên nương, uống nước núi rừng mà lớn, có bao nhiêu hương thơm rừng núi thì hạt gạo ôm hết bấy nhiêu, nên nếp nương Điện Biên cũng là đặc sản nổi tiếng của vùng Tây Bắc. Người dân ở đây thường dùng nếp nương đồ xôi ngũ sắc ăn kèm với thịt nướng, cá nướng chấm chẩm chéo. Nếp nương nấu xôi trông như xôi khô nhưng khi ăn mới cảm được hết vị ngọt, độ dẻo, thơm của hạt nếp.

Nếp cẩm

Loại nếp đặc sản nữa của vùng Tây Bắc phải kể là nếp cẩm, hạt nếp to tròn có màu tím thẫm, pha chút màu vàng nhạt ở bụng hạt. Không phải nơi nào cũng có thể trồng được gạo nếp cẩm. Lai Châu, Điện Biên được cho là nơi có thể trồng ra loại nếp cẩm chất lượng nhất. So với các loại gạo nếp khác ở Tây Bắc thì gạo nếp cẩm nổi trội hơn về mặt dinh dưỡng nên được dùng như một loại thực phẩm bồi bổ, tăng cường sức đề kháng và kích thích tiêu hóa. Khi nấu thành xôi, nếp cẩm có màu tím thẫm, mùi thơm ngào ngạt đặc trưng. Những năm gần đây, xôi nếp cẩm được kết hợp với sữa chua nguyên chất đã tạo nên món ăn thơm ngon được nhiều người ưa chuộng.

Nếp Pì Pất

Tuy không nổi tiếng và phổ biến bằng, nhưng các loại nếp vùng Đông Bắc đang góp mặt trong danh mục nếp để làm các món xôi, chè, bánh Việt Nam là nếp Gà gáy Mỹ Lung và nếp Pì Pất. Nếp Gà gáy Mỹ Lung của người Mường ở huyện Yên Lập (Phú Thọ) có màu nửa trắng, nửa trong đồ xôi dẻo mà lại không dính tay. hương thơm ngọt bùi. Người nào từng ăn qua nếp Gà gáy sẽ không quên được vị ngọt mộc mạc ấy. Nếp Pì Pất được người dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng trồng. Nếp Pì Pất có mùi thơm từ khi còn là hạt thóc, đến khi xát thành gạo, mùi thơm động trong từng hạt trắng. Nếp Pì Pất đồ xôi mềm nhưng không nát hạt, bột nếp thơm, làm được nhiều loại bánh.

Nam bộ

Ở Nam bộ, lúa nếp được trồng nhiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nếp cũng được các bà nội trợ dùng nấu xôi, gói bánh tét, bánh ú, làm nhiều loại bánh dân gian, còn dùng nấu nhiều loại chè. Những loại nếp được biết, được chuộng nhất ở Nam bộ phải kể đến là nếp ngỗng, nếp sáp, nếp than.

Nếp ngỗng

Nếp ngỗng thường được dùng để nấu xôi. Hạt nếp ngỗng dài, thuôn tròn, màu trắng sữa; khi nấu chín, hạt nếp nở vừa, dẻo mềm, thơm dịu, để nguội xôi vẫn dẻo thơm. Nếp ngỗng mà làm xôi vị, nấu chè khoai môn, chè đậu trắng, chè hạt me… thì ngon hết biết, có thể ăn quên thôi.

Nếp sáp

Nếp sáp được trồng trên vùng đất màu mỡ, giàu phù sa của vùng Đồng Tháp Mười, tạo nên nếp mẩy hạt, thon dài, đầy tròn với màu trắng sữa, mặt nếp mịn với hương thơm tự nhiên. Tính chất hạt nếp đúng như tên gọi, khi nấu chín tới, nếp dẻo vừa phải như sáp, tỏa ngát hương thơm, vị ngọt hậu, đặc biệt ngon khi nấu xôi, chè, gói bánh tét, bánh chưng, bánh ủ. Nếp sáp dường như hợp với các loại đậu xanh, đậu phộng nên các món xôi đậu xanh, xôi đậu phộng nấu bằng nếp sáp đều làm nên vị bùi, với mùi thơm đặc biệt.

Xôi nếp than nhân đậu xanh nước cốt dừa

Xôi nếp than nhân đậu xanh nước cốt dừa là một món ăn dân dã thơm ngon khó tả, cách chế biến nhiều công đoạn nhưng không quá khó làm. Nguyên liệu chính làm nên món ngon này là nếp than, loại nếp được trồng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nếp than ở Nam bộ và nếp cẩm Tây Bắc đều có màu sắc đặc biệt hơn các loại nếp khác. Nhưng ở hai vùng địa lý khác nhau rất nhiều về địa hình, điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng,… dẫn đến sự khác nhau về sinh trưởng của mỗi loại lúa nếp, hình dáng và màu sắc hạt nếp cũng khác nhau đôi chút. Hạt gạo nếp cẩm có màu tím thẫm, bụng màu vàng nhạt, hình dáng to tròn trong khi gạo nếp than có hạt nhỏ dài và màu đen gần như kín cả hạt.

Xôi xoài Thái Lan

Nông dân đồng bằng sông Cửu Long cũng trồng thêm giống nếp Thái đề làm phong phú nguồn nguyên liệu cho các bà nội trợ sử dụng, khi cần nguyên liệu đặc biệt để làm những món như xôi xoài Thái Lan thì nấu nếp Thái là “chuẩn bài”.

Trung bộ

Nếp ngự Sa Huỳnh

Bắc bộ, Nam bộ có lắm loại nếp ngon, nổi tiếng, Trung bộ có vẻ khó canh tác nên không nhiều lúa nếp. Tuy vậy, góp mặt trong danh mục nếp ngon Việt Nam thì Trung bộ có nếp ngự được trồng ở vùng ven biển Sa Huỳnh (huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi). Tương truyền loại nếp này khi xưa dẻo thơm nức tiếng, được mang tiến vua nên gọi là nếp ngự. Dẫu Trung bộ khí hậu khá khắc nghiệt, nhưng nông dân vùng Sa Huỳnh cũng trồng được giống nếp này vào vụ đông- xuân và vụ mùa, khoảng thời gian dịu mát trong năm. Tự tin với chất lượng hạt nếp kết tinh dinh dưỡng từ đất ven biển và nắng gió khơi xa tụ vào, địa phương đã giúp người dân xây dựng thương hiệu “nếp ngự Sa Huỳnh”.

Người dân ở đây bảo khi cây lúa vừa làm đòng, họ đã ngửi được hương thơm nếp ngự lan tỏa trong gió. Gặt về gánh nếp thơm, chà xát rồi vẫn còn thơm. Xôi nếp ngự vừa chín tới, mùi xôi dẻo thơm phức thật kích thích bao tử. Với đặc tính như vậy, nếp ngự thường được dùng để gói bánh tét, chế biến nhiều loại bánh thơm ngon; đặc biệt dùng nấu xôi đậu đen, làm bánh nổ, bánh rò vào dịp Tết. Tết ở Quảng Ngãi không thể thiếu các món xôi và bánh làm từ nếp ngự, trông mộc mạc nhưng hương thơm dân dã, thanh khiết như tấm lòng thành kính dâng lên tổ tiên.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC

Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.

Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.

Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.

Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.

Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.

Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.

Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.

Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.

Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.

Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.

Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.

Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.

Đọc bài viết

Trích đăng

Lancaster và York: Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

GIỚI THIỆU

Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.

Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.

Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.

Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.

Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.

Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.

Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.

Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?

Alison Weir

Surrey

tháng Hai 1995

Đọc bài viết

Trích đăng

Vào bếp nấu chè trôi nước ngũ sắc đưa ông Táo về trời – Trích “Thơm thảo xôi chè”

Published

on

Vào ngày 23 tháng Chạp hằng năm, ông Công ông Táo sẽ cưỡi cá chép lên Trời để báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng đế tất cả những điều tai nghe mắt thấy ở trần gian cả việc tốt lẫn việc xấu và những gì chưa làm được. Từ đó, Thiên đình sẽ đưa ra thưởng phạt rõ ràng cho từng gia đình. Xuất phát từ tín ngưỡng đó, lễ đưa ông Công ông Táo về trời (hoặc gọi ngắn gọn là đưa ông Táo về trời) luôn được tiến hành trọng thể.

Trong ngày này, các gia đình thường làm lễ tiễn ông Táo về trời bằng cách thả cá chép. Ngoài ra, mọi người cũng làm mâm cỗ cúng để bày tỏ lòng thành kính với Táo Quân. Trong Thơm Thảo Xôi Chè, nghệ nhân bánh dân gian Trần Thị Hiền Minh đã khéo léo chia sẻ công thức nấu chè trôi nước ngũ sắc, một món ăn vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng và rất thích hợp để bày mâm cỗ cúng ông Táo. Cùng Phương Nam Book tìm hiểu cách làm món này nhé!

CHUẨN BỊ NGUYÊN LIỆU
500g bột nếp
100g khoai lang tím
150g bí đỏ
300g khoai lang trắng
Nước cốt lá dứa, nước lá cẩm
400g đậu xanh bóc vỏ
150g đường cát
10g muối
100ml nước cốt dừa
Phần nước cốt dừa:
300ml nước cốt dừa
700ml nước dão dừa
20g bột gạo
20g bột bắp
5g hành lá
800g đường cát (nấu chè)
150g đường cát (nấu nước cốt dừa)
100g mè trắng
3g muối
100g gừng sẻ

THỰC HIỆN

Sơ chế:
• Mè rửa sạch, rang hoặc nướng trong lò nướng nhiệt 150 độ C đến khi vàng thơm.
• Gừng gọt vỏ, rửa sạch, xắt khoanh mỏng.
• Khoai lang, bí đỏ luộc chín, giã nhuyễn, để riêng từng phần. Chia bột thành 5 phần bằng nhau. Mỗi phần nhồi khoai lang và màu tương ứng cho hòa quyện.
• Dùng nước ấm nhồi với bột nếp đã trộn kỹ theo từng màu, nhồi nhanh tay để bột dẻo. Khi bột gần mịn đều, thêm nước từ từ tránh làm nhão bột, rồi để bột nghỉ 30 phút.
• Đậu xanh vo sạch, ngâm nở 2 giờ, vo lại cho hết nước chua rồi nấu chín, giã nhuyễn. Xào đậu xanh với 100ml nước cốt dừa và 100g đường trên lửa vừa, thêm 10g muối vào cho đậu béo bùi, đậm vị hơn. Khi đậu xanh không dính tay thì tắt bếp, cho hành lá cắt nhuyễn vào trộn đều. Vo viên đậu bằng cỡ trái chanh nhỏ.

Gói viên chè:
• Chia đều bột nếp, mỗi viên khoảng 30g, gói nhân đã chuẩn bị sẵn.
• Bắc nồi nước sôi luộc các viên chè. Khi chín viên chè sẽ nổi lên mặt nước, nấu thêm 2 phút cho viên chè chín kỹ rồi vớt ra ngâm vào nước lạnh.

Nấu chè:
• Cho 2 lít nước vào nồi cùng với 600g đường và vài lát gừng, bắc lên bếp nấu sôi.
• Cho các viên chè vào nồi nấu sôi chừng 5 phút để viên chè thấm đường và vị gừng, nhắc xuống.

Nấu nước cốt dừa:
• Cho nước dão dừa, đường cát, bột gạo, bột bắp, muối và vài cọng lá dứa vào nồi khuấy đều rồi mở bếp ở mức lửa nhỏ, nấu đến khi sôi, khuấy đều tay.
• Tiếp theo chế thêm nước cốt dừa, để hỗn hợp sôi lại, tắt bếp liền.

YÊU CẦU THÀNH PHẨM
• Nước đường trong, ngọt thanh, thơm dịu mùi lá dứa.
• Các viên chè dẻo mềm, không bị nứt hay nhão bề mặt.

Khi ăn, múc chè ra chén, chan nước cốt dừa vào, rắc thêm ít mè rang.

Chè trôi nước ngũ sắc không chỉ đẹp mắt mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự đầy đủ, may mắn và sự hòa hợp của năm mới. Khi thưởng thức, bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt thanh của đường, vị béo của nước cốt dừa và độ dẻo dai của vỏ bánh trôi kết hợp hài hòa với nhân đậu xanh thơm ngon.

Thơm Thảo Xôi Chè là món quà dễ thương dành tặng những ai đam mê nấu nướng bởi nó không chỉ đẹp về hình thức mà còn hấp dẫn về nội dung. Ngoài việc hướng dẫn tỉ mỉ các công thức nấu, tác giả còn khéo léo thuật lại cuộc phiêu lưu ẩm thực qua hành trình tìm kiếm các sản vật quý địa phương. Cuốn sách dù đơn sơ, mộc mạc nhưng đã phần nào truyền tải thành công tình yêu nghề của người đầu bếp và trên tất cả là sự tinh tế của nền ẩm thực nước nhà.

Mời bạn tìm mua sách tại đây. Nếu có làm theo các công thức trong sách thì bạn nhớ chia sẻ cho Bookish biết với nha!

Chúc bạn một mùa Tết bình an và sung túc bên gia đình.

Đọc bài viết

Cafe sáng