Trích đăng

Con bướm mắc kẹt trong đĩa thủy tinh

Con bướm nằm bất động trong đĩa, giống như người đang giả chết hay một bậc thầy về khoa nín thở.

Published

on

Trích từ: Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm
Tác giả: Le Thi Diem Thuy
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 4.2023
Đoạn trích nằm trong chương 1 “Xì-tốp!”.
Tiêu đề đoạn trích do BTV Bookish tự đặt.

– – –

Trong nhiều năm ròng, ông bà Russell đã sưu tập những con thú nhỏ bằng thủy tinh, chủ yếu là ngựa. Những con vật với cẳng chân thủy tinh khẳng khiu mà bạn có thể nhìn xuyên qua như nhìn một ô cửa sổ sạch sẽ. Sau khi chồng qua đời, bà Russell quyết định rằng bác Melvin, con trai ông bà, nên giữ một số con vật thủy tinh này, cùng với những thứ khác từng thuộc về cha bác.

Một chiều Chủ nhật nọ, mẹ con bác Mel tấp xe qua nhà và bác Mel gọi Ba với các chú ra phụ một tay. Cốp xe để mở của bác đang lèn chặt một chiếc tủ kính trưng bày. Sau khi hướng dẫn hai chú nhấc tủ khỏi cốp sao cho cẩn thận, bác Mel bảo Ba và hai chú còn lại khiêng ba thùng cạc-tông đang nằm trên băng ghế sau, xong xuôi bác khoát tay ra hiệu mọi người đi theo. Bà Russell đang giữ cửa trước cho họ và bác Mel dẫn Ba với các chú lên năm bậc thang so le để đi vào nhà. Họ khiêng tủ và ba cái thùng dọc hành lang dài và vòng ra phía sau ngôi nhà để đến căn phòng nơi bác Mel làm việc. Tôi theo sau họ, hai tay đút trong túi sau quần jean.

Văn phòng bác Mel nhỏ xíu và chật ních. Những chiếc thùng rỗng một nửa nằm trên sàn, còn những cái giá thì oằn mình dưới sức nặng của sách và hồ sơ xếp dựa vào tường. Giữa phòng đặt một chiếc bàn vuông lớn, mặt bàn bị bao phủ trong cơ man nào là bút, giấy, tiền lẻ, sổ biên lai và một khay đựng chìa khóa. Đằng sau bàn có một chiếc ghế xoay bọc da.

Bác Mel hướng dẫn các chú đặt tủ kính ở một góc phòng phía xa, để khi ngồi tại bàn, bác có thể ngước lên và nhìn vào bên trong tủ.

Chúng tôi đứng xem mẹ con bác Mel dỡ những thứ bên trong ba thùng cạc-tông ra và cẩn thận đặt chúng vào tủ kính. Đầu tiên chúng tôi thấy năm món đồ sứ màu trắng và xanh dương, sau đó đến những cuốn sách bìa da màu đỏ. Bác Mel xoay các bánh xe của một chiếc xe cứu hỏa đồ chơi trước khi đặt nó vào tủ. Mẹ bác tháo ra một chiếc tẩu vẫn còn vương sợi thuốc lá đưa cho bác và bác sẽ sàng đặt nó nằm nghiêng. Thứ cuối cùng ra khỏi thùng là những con thú thủy tinh. Có khoảng hai mươi con và chúng được xếp thành từng cặp, giống như những con vật trong một buổi diễu hành.

Chúng tôi được mời nhìn vào bên trong tủ kính. Trong lúc chúng tôi đứng săm soi các đồ vật, bà lão bảo Mel nhờ Ba truyền đạt lại cho tôi và bốn người chú rằng những thứ bên trong không phải để đụng vào.

Ba không nói gì với chúng tôi, chỉ hỏi: “Mọi người hiểu không?”, bốn người chú và tôi đáp: “Có”. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy những thứ bên trong chiếc tủ rất quý, không phải vì chúng trông có vẻ quý giá với chúng tôi, mà vì chúng tách biệt hẳn khỏi sự lộn xộn của phần còn lại căn phòng cũng như của ngôi nhà.

Khi chúng tôi rời khỏi văn phòng bác Mel, tôi để ý trên bàn bác có một con bướm màu nâu vàng nằm phía trên đầu một số giấy tờ. Tôi với người tới để chạm vào nó, nhưng thay vì lớp bột thường bay ra từ cánh bướm, những ngón tay tôi quét qua mặt kính lạnh. Tôi dừng lại chỗ ngưỡng cửa và liếc qua vai về phía cái bàn. Cái gì thế nhỉ?

Vào đầu và cuối mỗi ngày đến trường, hai học sinh lớp lớn sẽ đứng ở giữa đường đối diện cổng trường; họ cầm biển báo và bắt chéo chúng như những thanh kiếm trong chiến trận. Điều này có nghĩa là xe hơi – tất tần tật mọi chiếc – kể cả những chiếc buýt lớn màu vàng cũng phải dừng lại nhường cho bọn trẻ băng qua đường đến trường hay rời trường về nhà ở bất kỳ đâu.

Mỗi buổi chiều tôi đều chạy qua mấy tấm biển báo bắt chéo để gặp chú nào đó đến đón tôi về nhà bác Mel. Khi chúng tôi đi ngang tấm biển nền đỏ chữ trắng mà cha con tôi hay dừng lại trước mỗi buổi sáng, tôi sẽ chạm nhẹ những ngón tay vào thân cột và thầm thì: “Xin chào”.

Chú dẫn tôi vào nhà và tôi sẽ chạy ào dọc hành lang về phòng để thay bộ váy ngứa ngáy ra quần jean và áo phông. Thường tôi sẽ có một tiếng đồng hồ ở một mình trước khi Ba hoặc một trong số các chú về nhà và bắt đầu chuẩn bị bữa tối.

Lúc đầu tôi hay dành thời gian đó để tô màu hoặc nghiên cứu quyển sách tập đọc có hình hai cô cậu bé cùng con chó Spot của họ thích đuổi theo bóng nảy trên sàn. Nhưng sau hôm chúng tôi xem bác Mel cất đồ vào tủ kính, tôi lẻn vào văn phòng bác và dành thời gian đó trò chuyện với con bướm và bọn thú thủy tinh.

Tôi thấy con bướm màu nâu vàng vẫn nằm trên bàn bác Mel như trước, bên trong đĩa thủy tinh dày phía trên chồng thư và biên lai tiền thuê nhà. Khi nhấc đĩa lên, tôi thấy con bướm bị kẹt trong một vũng thạch màu vàng. Dù đã lật qua lật lại đĩa thủy tinh, tôi vẫn không tìm ra chỗ con bướm đã bay vào hay có thể thoát lại ra ngoài. 

Tôi giơ chiếc đĩa lên tai và lắng nghe. Thoạt tiên, tôi chỉ nghe thấy độc tiếng thở của chính mình, nhưng rồi tôi nghe một tiếng sột soạt mơ hồ, như tiếng đôi cánh chạm vào một ô kính cửa sổ. Tiếng sột soạt là một bài hát thầm thì. Đó là cách con bướm giao tiếp và tôi nghĩ mình hiểu được.

Tôi giữ chiếc đĩa trong hai lòng bàn tay khum lại và nhìn xuống con bướm, sau đó mang nó lại chỗ cửa sổ trông ra khu vườn sau nhà. Khi tôi giơ chiếc đĩa lên chỗ ánh nắng, nó rực lên màu vàng loá mắt, và tại trung tâm khối màu là hình dáng con bướm màu nâu đất đậm đà.

Tôi mang đĩa về bàn và đặt nó lại phía bên trên chồng thư và biên lai tiền thuê nhà. Nó đè xuống đám giấy tờ như cách mái đầu nặng trĩu suy tư của Ba đè xuống gối mỗi đêm và kéo ông vào những cơn ác mộng, trong khi điều ông mong mỏi chỉ là một giấc mơ ngọt ngào và hạnh phúc như vị que kem mít.

Một đêm nọ khi hai cha con đang nằm ngủ, tôi thầm thì vào tai Ba: “Con tìm thấy một con bướm đang gặp rắc rối”.
“Rắc rối gì?” Ba hỏi.
“Con bướm còn sống…”
“Tốt”, Ba nói.
“Nhưng nó bị kẹt”.
“Ở đâu?”
“Bên trong một đĩa thủy tinh”.
Ba không nói gì.
“Nhưng nó muốn thoát ra ngoài”.
“Làm sao con biết?”
“Vì nó nói với con thế này: ‘xườ-xườ/xườ-xườ’ ”.

Ba ngồi dậy, lắc qua lắc lại mái đầu nặng nề và gõ vào một bên tai rồi đến bên kia.

“Ba đang làm gì vậy?” Tôi hỏi ông.
“Ba phải tống hết những lời bướm biếc này ra khỏi đầu trước khi chúng lớn lên”, Ba đáp và nghiêng đầu sang một bên để các từ ngữ có thể chảy ra như nước.
“Aaa…” ông thở dài, day day dái tai. “Sạch hết tất cả bướm với biếc. Giờ thì Ba ngủ được rồi”.

Sáng hôm sau, tôi đi ra góc vườn sau nhà nơi các chú làm việc. Họ đang tỉa cây, nhổ cỏ dại và đổ thức ăn vào máng cho chim. Khi một chú hỏi vì sao mặt tôi trông nghiêm trọng vậy, tôi bảo chú ấy rằng mình cần giúp đỡ. Tất cả các chú đồng loạt ngưng tay và muốn biết có gì không ổn.

Với những ngón tay uốn cong tạo thành một vòng tròn không đều, tôi giải thích rằng có một con bướm bị kẹt trong đĩa thủy tinh, và khi ta cầm chiếc đĩa giơ lên chỗ ánh sáng – bây giờ hai cánh tay tôi đang rướn về phía mặt trời – con bướm sẽ rực lên màu nâu vàng.

Tôi nhờ các chú giúp tôi giải thoát cho con bướm.

“Không thể nào được!”
“Con bướm đó tự chuốc lấy rắc rối khi bay vào một cái đĩa”.
“Nhưng đây là rắc rối mà bọn chú đành bó tay”.
“Đúng vậy, bọn chú có biết gì về bướm bị kẹt trong kính đâu. Chú chưa bao giờ thấy cái gì giống như thế ở Việt Nam”.
“Nhưng nghe không kinh khủng sao ạ?” tôi hỏi.
“Hẳn là giờ nó đã chết rồi, con bướm ấy”.
“Không thể làm gì nhiều với một con bướm chết”.
“Không ạ, cháu nghe nó sột soạt cánh. Nó muốn thoát ra ngoài!”
“Nghe này con gái, không con bướm nào có thể sống sót bên trong đĩa thủy tinh. Thậm chí nếu cơ thể nó còn sống, chú chắc là hồn nó đã bay đi từ đời tám hoánh”.
“Đúng vậy, chú cũng nghĩ thế. Không còn hồn vía nào bên trong đĩa thủy tinh đó”.
“Nếu không có hồn vía, sao con bướm có thể khóc lóc kêu cứu ạ?” tôi hỏi.
“Nhưng ở đất nước này việc khóc lóc đâu có nghĩa lý gì? Đêm nào Ba con cũng khóc trong vườn mà có ích lợi gì đâu”.
“Chỉ mất công tưới nước cho bãi cỏ của bác Mel”.
“Không có gì cả”.
Nói rồi họ quay trở lại làm việc.

Con bướm khóc nhè từng có thời bay lượn, nhưng bọn thú thủy tinh xếp cạnh nhau trên những ngăn tủ trưng bày của bác Mel chưa từng được chạy đi đâu cả. Chúng chưa từng có những móng guốc dày và nặng, loại có thể hất tung bụi và để lại vết hằn sâu hoắm trên những bờ sông ngập bùn. Chúng chưa từng đá bất cứ thứ gì hay cắn bất kỳ ai, dù chỉ để đùa vui. Chúng chưa từng cọ người vào thân cây hay lăn trên mặt đất với bốn chân quất vào không khí. Bọn chúng có những cái chân mà tôi có thể nhìn xuyên qua và những cái miệng thủy tinh nhỏ chưa từng hé ra để ăn hay uống. Bọn chúng chưa từng ngủ và chân chưa từng cong xuống. Bờm chúng cứng đờ. Một cơn gió nhẹ nhất cũng có thể xô chúng nghiêng ngả và trừ phi tôi sắp xếp lại, nếu không chúng vẫn sẽ nằm mãi như thế. Chúng là những con vật ngớ ngẩn nhất mà tôi từng gặp. Chúng thậm chí còn không biết mình đang bỏ lỡ những thứ gì.

Khi vào văn phòng bác Mel, tôi sẽ mở cửa tủ kính và giữ nguyên như vậy để bọn thú hít thở chút không khí. Tôi luôn chạm vào chúng. Tôi mang chúng đến bậu cửa sổ và để chúng ngồi trên gờ cửa đầy nắng, bên cạnh con bướm vàng óng của tôi. Tôi kể chuyện cho bọn chúng nghe. Tôi kể về đám bồ câu sống phía trên nhà Bà Sáu. Tôi ngồi xổm trên sàn phòng, bắt chước cách đám bồ câu đậu trên rìa mái nhà, chờ mổ những bụm cơm nguội mà Bà Sáu rải ra sân. Tôi đứng dậy và tạo thành tiếng chim bồ câu sà xuống những hạt cơm. Tôi kể về những con gà trống chạy cùng tôi dọc bãi biển và để lại những vết xước lạ lùng trên cát ướt. Tôi lấy bút và một mảnh giấy từ bàn bác Mel rồi vẽ bảng chữ cái hình gà trống cho bọn thú thủy tinh xem. Tôi kể chúng chuyện Má đã hứa rằng khi đủ lớn, tôi có thể đón tàu hoả vào thành phố với Má và bà sẽ dẫn tôi đi xem chợ lớn. Tôi giải thích rằng chợ thì lớn hơn cái tủ mà chúng đang sống, lớn hơn ngôi nhà bác Mel, lớn hơn cả khu vườn phía sau.

Tôi kể cho chúng nghe về bức ảnh con tàu đã đưa cha con tôi và bốn người chú đi tẩu thoát. Ai đó đứng trên boong chiếc tàu thủy đến đón chúng tôi đã chụp bức ảnh này. Tôi không biết tông tích người chụp hay làm thế nào mà một chú đã có được nó. Trong bức ảnh, tàu chúng tôi giống như chiếc tàu đồ chơi đang dập dềnh trong một bát nước lớn với đầy ắp những con người nhỏ tí xíu. Chúng tôi nằm trong số những người đó, nhưng tôi không phân biệt được ai với ai vì hết thảy mọi người đều bé tẹo. Những khuôn mặt nhỏ, những mái đầu nhỏ, những cánh tay nhỏ đang rướn tới để chạm vào những bàn tay nhỏ. Có lẽ những người Mỹ trên chiếc tàu thủy đã cười nhạo chúng tôi. Có lẽ đó là lý do mà họ mất khá nhiều thời gian để hạ thang xuống. Có lẽ trước hình ảnh bé tẹo của chúng tôi, họ đã cười ngặt nghẽo đến mức lăn quanh boong như những viên bi bị đổ. Họ phải đỡ nhau đứng dậy và nhớ lại tên của chính mình – Glen, Mike, Ron – và nơi họ đến – Abilene, Texas, Youngstown, Pennsylvania, Tacoma, Washington – trước khi để chúng tôi leo lên và giới thiệu tên mình – Lan, Cường, Hoàng – và nơi chúng tôi đến – Phan Thiết, Bình Thuận.

Tôi kể cho bọn chúng nghe những chuyện gì không quan trọng. Chuyện có thể diễn ra trong sân nhà chúng tôi ở Việt Nam hay trên boong tàu hải quân đã đón chúng tôi từ biển cả hay trên chiếc võng ở trại tị nạn Singapore hay trong bụng chiếc máy bay đã chở chúng tôi đến California; chuyện có thể diễn ra giữa trưa nóng nực hay buổi tối mát lạnh hay trong thời tiết lạ lùng từ một trong những cơn ác mộng của Ba; chuyện có thể thoảng mùi nước mắm hay mùi bánh hamburger hay mùi hoa nhài; chuyện có thể là lời mô tả về một giấc mơ của tôi hay một con chó tôi thấy hay một đứa con trai tôi nhớ; chuyện có thể nói về mái tóc của Má toả mùi ấm áp vào ban đêm hay cầu trượt sân chơi cảm giác lạnh lẽo vào buổi sáng hay cỏ trong khu vườn sau nhà cù vào mắt cá chân tôi nhột nhạt; chuyện có thể nói về tất thảy những gì đã xảy ra với cha con tôi và bốn người chú, xảy ra ‘Một cách đột ngột’, ‘Nhiều năm về trước’, và ‘Ở một nơi nào đó xa xôi’, – như trong những chuyện cổ tích mà thứ Sáu nào cô giáo cũng đọc cho cả lớp nghe.

Bọn thú thủy tinh không chớp mắt. Chúng không hề cười. Chúng không bao giờ nhướng một bên mày hay nghiêng đầu khi lắng nghe. Chúng không gật đầu đồng tình hay giậm chân xuống đất phản đối. Chúng không đặt câu hỏi. Chúng dường như không muốn biết bất cứ thứ gì. Tôi trở nên chán ngấy việc nói chuyện với chúng và cảm thấy rằng nếu bị phơi dưới nắng quá lâu, chúng có thể vỡ tan.

Tôi kéo căng gấu áo phông và nhấc bọn chúng khỏi gờ cửa sổ, đặt từng con vào chiếc áo đóng giả cánh buồm của mình. Khi đem chúng về tủ, tôi có thể cảm thấy những cái chân khẳng khiu của chúng chọc vào người mình qua lần vải áo. Tôi sẽ sắp xếp bọn thú theo thứ tự cao, thấp, cao, y hệt như mẹ bác Mel đã xếp chúng cho bác lúc đầu. Tôi đóng lại cửa chiếc tủ kính trưng bày với bọn thú thủy tinh đang nhìn về phía trước. Chúng không hề nhớ tôi là ai. Khi tôi trốn trong khoảng trống nhỏ giữa chiếc tủ và bức tường, chúng không một lần quay đầu lại hay ấn mặt vào cửa tủ kính để tìm tôi. Các chú không biết rằng không phải con bướm, mà đúng hơn là bọn thú thủy tinh mới không có hồn vía.

Con bướm nằm trong túi áo ấn vào người tôi khi tôi đi xung quanh văn phòng bác Mel. Tôi thích sức nặng của nó. Tôi thích nó như tôi thích đứng tại khu vườn sau nhà, mắt nhắm và hai tay đút vào túi, trong lúc từ từ quay mặt về phía mặt trời. Màu sắc của con bướm lúc tôi giơ nó lên chỗ ánh sáng giống như mùi vị mặt trời vào những ngày đó, khi tôi đứng tại khu vườn sau nhà và thè lưỡi ra.

Một chiều thứ Sáu nọ của tháng Mười Hai, một tuần trước kỳ nghỉ lễ Giáng sinh, tôi đã cố gắng giải thoát cho con bướm. Kết cục là bác Mel bảo cha con tôi và bốn người chú thu dọn đồ đạc ra khỏi nhà. Ba nói đó không phải lỗi của tôi, cũng chẳng phải lỗi của ai hết. Ba bảo chuyện thường tình ấy mà.

Ngày hôm đó tôi đã kể cho bọn thú thủy tinh nghe về giấc mơ đêm hôm trước của mình. Trong mơ, tôi đánh cắp một trong những tấm biển báo băng qua đường từ người cầm biển ở trường và mang về nhà bác Mel. Tôi kéo lê tấm biển xuôi theo hành lang dài và dựng đứng nó lên như cột buồm một con tàu. Ba và bốn chú đang ngủ. Tôi đánh thức họ dậy và bảo họ trèo lên trên tấm biển. Tôi cột họ vào thân trụ để họ không rơi ra; trong lúc họ đứng chờ, tôi chạy từ phòng này sang phòng khác và bật lên toàn bộ vòi nước trong nhà.

Tôi kể cho bọn chúng nghe rằng dòng nước cuồn cuộn trong giấc mơ đã nhấc cha con tôi và bốn chú ra khỏi nhà, xuống năm bậc thang, đi vào phố, ngang qua trường tôi học và khu chơi bi-a của các chú, rồi vượt quá những toà chung cư in hệt nhau mà bên trong có những căn phòng trắng loá. Khi chúng tôi giong buồm qua những con đường trên tấm biển báo, tôi giơ cái đĩa thủy tinh giống như chiếc kính viễn vọng lên mắt và qua cơ thể con bướm, tôi thấy Má đang đứng trên một bãi biển xa xăm.

Bọn thú thủy tinh kiên nhẫn lắng nghe nhưng không có ý kiến gì về giấc mơ của tôi. Tôi nhấc chúng khỏi bậu cửa sổ và mang trở về chiếc tủ trưng bày. Tôi đóng tủ lại rồi leo lên chiếc ghế xoay bọc da của bác Mel và cứ thế xoay vòng tròn. Tôi xoay người đến hoa mắt trong lúc nhớ lại khuôn mặt Má trong giấc mơ và cố nghĩ cách giải thoát con bướm của tôi khỏi chiếc đĩa thủy tinh.

Khi ghế ngừng quay, tôi để ý thấy mấy mảnh kính vỡ trên ngăn dưới cùng của một kệ sách gần tủ trưng bày. Tôi leo xuống chiếc ghế xoay và đi lại chỗ tủ sách. Con bướm đang nằm trong túi và nó trì áo tôi xuống khi tôi khom mình nghiên cứu những mảnh kính vỡ. Đó là một khung ảnh.

Khung kính đã vỡ tan nhưng bức ảnh bên dưới trông còn nguyên vẹn. Bác Mel và mẹ mình thời còn trẻ đang mỉm cười qua lớp kính vỡ. Vòng tay của họ quanh người nhau khá là chặt và tôi cảm thấy ôm như vậy thì thật khó thở, nhưng họ có vẻ thích điều đó. Mũi họ hồng hào và bóng lưỡng. Răng bà lão hồi đó sáng và đều một cách khó tin, còn những lọn tóc xoăn của bác Mel thì rực lên trong nắng. Tôi thấy hai mẹ con bác trông rất khoẻ khoắn.

Giống như cha con tôi, mẹ con bác Mel đang đứng ở một nơi đầy tuyết và tựa người vào chiếc xe hơi xanh dương. Trên nền tuyết thấp thoáng một cái bóng, hẳn là nó thuộc về người chụp ảnh.

Mắt tôi liếc lên cái tẩu thuốc nằm nghiêng trong tủ kính, trong nõ tẩu vẫn còn nhét vài sợi thuốc lá.

Tôi đứng dậy khỏi bức ảnh và nhìn quanh phòng, nó có cảm giác thật đông đúc. Trên các kệ nhồi nhét những chồng giấy lộn xộn, còn trên sàn la liệt những thùng sách đầy một nửa trong những tư thế kỳ quặc vì bị đẩy tới đẩy lui trong lúc bác Mel đi lại xung quanh. Những chiếc thùng rỗng thì bị dựng đứng lên.

Mắt tôi quét qua bốn bức tường trong văn phòng bác Mel trước khi đậu lại ở khoảng trống giữa tủ kính trưng bày và bức tường gần cửa. Tôi đi đến đó và dùng tay đo đạc nó, đầu tiên ấn một lòng bàn tay vào tường rồi đến lòng bàn tay kia.

Vẫn dán mắt vào khoảng trống, tôi lùi người khỏi bức tường cho đến khi đứng cạnh cái bàn ở giữa phòng. Tôi lấy chiếc đĩa ra khỏi túi áo và giữ nó trong lòng bàn tay khum lại. Tôi lắc nhẹ nó và cảm nhận sức nặng của nó trong tay mình.

Con bướm nằm bất động trong đĩa, giống như người đang giả chết hay một bậc thầy về khoa nín thở.

Tôi giơ chiếc đĩa lên tai và lắng nghe. Trái tim tôi đang đập và sẽ không chịu im lặng. Tôi giang cánh tay giơ chiếc đĩa ra xa, lắc đầu, rồi đưa nó về lại gần tai.

Ở đó có một tiếng động mơ hồ, như một bức màn nhẹ tênh, hầu như trong suốt đang khẽ lay động lao xao trên cửa sổ.

Tôi siết chặt những ngón tay quanh chiếc đĩa, giang cánh tay ra sau xa hết mức có thể, nhắm vào giữa khoảng trống nhỏ có bề ngang bằng ba gang tay đó, tôi dứ người lấy đà và vung cánh tay về trước, làm chiếc đĩa bay vèo.

Chiếc đĩa bay nhanh và mạnh nhưng không đáp xuống nơi tôi đã dự định mà đâm xuyên qua cửa tủ kính trưng bày. Đầu gối của bọn thú thủy tinh oằn xuống. Khi chúng ngã, một số con mất đầu trong khi cơ thể những con khác gãy làm đôi. Cơ thể vỡ vụn của một số con đã bảo vệ những con khác khỏi cảnh nát bấy hoàn toàn. Một số con nằm nghiêng và nhìn ra ngoài cửa sổ.

Chiếc đĩa đập vào phần sau tủ, dội vào đám đồ sứ trước khi bắn ngược trở lại phòng. Văn phòng bác Mel bị lấp đầy trong những âm thanh mà bọn thú tạo ra.

Ba và các chú giật tung cánh cửa.

Tôi đang xoay tròn trên ghế, mắt quét khắp trần để tìm con bướm.

“Xườ-xườ/xườ-xườ”.
“Xì-tốp!/Xì-tốp!”
“Xườ-xườ /xườ-xườ”.
“Xì-tốp!”

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Tiếng gọi âm nhạc đã đến với Elvis Phương như thế nào?

Tôi biết đi xin một cây đàn guitar đã bể hết phần thùng đàn phía sau và chỉ còn lại duy nhất một dây, để bỏ hàng giờ đứng trước tấm gương trong phòng tắm mà vặn vẹo làm bộ điệu và hát những bài hát của tuổi thơ.

Published

on

By

Trích từ: Dòng Đời
Tác giả: Elvis Phương
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 8.2023

– – –

Tôi chào đời ở Dầu Tiếng, Thủ Dầu Một, sinh vào đầu năm Tây ngày 01 tháng 02 năm 1945, nên mang oan thêm một tuổi ta là tuổi Thân. Người đời thường bảo: “Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi, còn tôi luống những ngậm ngùi tuổi Thân”. Nghiệm lại, tôi thấy câu này không hợp với mình lắm vì tôi đã may mắn nhận được rất nhiều ưu đãi trong đời. Có chăng là bên cạnh những vinh quang nghề nghiệp, sự thương yêu và niềm vui mà khán thính giả đã thương mến dành cho suốt mấy chục năm nay, nhiều lúc tôi cũng đành ngậm ngùi trên phương diện tình cảm của chính mình.

Sinh ra trong một gia đình có tất cả mười một người con: ba trai, tám gái. Người anh Cả của tôi mất khi còn rất nhỏ nên tôi đã trở thành anh Hai của một cậu em trai và tám cô em gái. Trong tám cô em gái thì thật tình là cô nào cũng hát được mà lại còn hát hay, nhưng chỉ có hai cô trở thành ca sĩ, một là Riri Hoa – ca sĩ trước năm 1975, sau này có gia đình và đã thôi hát. Kế đến là cô em áp út, ca sĩ Kiều Nga bây giờ.

Khán giả và bạn bè thân quen mỗi khi hỏi tôi quê quán ở đâu, câu trả lời của tôi thường là: “Tôi là người đẹp Bình Dương, nhưng đấng sanh thành tôi là người Hương Sơn, Hà Tĩnh”. Ba má tôi vào Nam lập nghiệp và sinh ra tôi ở Thủ Dầu Một, nên tôi được lớn lên trong Nam, chưa có dịp nào về thăm lại quê hương của ba má. Những ngày thơ ấu, tôi đã sống và lớn lên qua câu hò của má: “Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh”. Hy vọng một ngày gần đây, tôi sẽ thực hiện được điều ao ước đó của mẹ hiền là “...về Hà Tĩnh”. Thời đó, ba tôi làm nghề thầu khoán, một nghề được coi là kiếm tiền dễ dàng và má tôi – người suốt đời chỉ biết sống vì chồng con, giữ vai trò một người vợ, người mẹ đảm đang suốt ngày lui cui trong nhà, săn sóc từng bữa ăn giấc ngủ cho chồng, cho con mặc dù trong nhà đã có người giúp việc.

Elvis Phương năm 1981

Còn tôi, cho đến bây giờ đã hơn nửa đời người, vẫn hoàn toàn không hiểu tại sao tôi lại không chọn một cái nghề có dính dáng đến phim ảnh như đạo diễn, diễn viên, quay phim, chụp hình... Vì ngay từ lúc 6 tuổi tôi đã mê xem phim, từ những phim hoạt họa cho đến những phim do người thật đóng như Charlot, Laurel và Hardy, Les trois stooges... Những phim cao bồi miền viễn tây lúc đó chỉ có các tài tử như Randolph Scott, Roy Rogers, Gene Autry...

Từ lúc phim ảnh còn đen trắng cho đến lúc có những phim màu xuất hiện và lần lần đến thời kỳ của màn ảnh đại vĩ tuyến (tức CinemaScope), lại cộng thêm màu Technicolor; thậm chí đến những phim ca nhạc thần thoại của Ấn Độ chiếu thường trực ở rạp Long Phụng, tôi đều không bỏ qua phim nào cả. Nhưng thưa quý vị, một cuốn phim cao bồi Brésil mà tôi rất yêu thích, đã xem đi xem lại đến năm lần ở rạp chớp bóng Nam Quang (góc đường Lê Văn Duyệt và Trần Quý Cáp, tức nằm xéo với chợ Đũi) đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời tôi về sau.

Tôi còn nhớ rõ ràng đó là một phim cưỡi ngựa bắn súng, có cái tên rất dễ nhớ là O’cangaceiro. Phim cao bồi nào cũng thường giống nhau về cốt truyện, nghĩa là lúc nào vai chính cũng là một anh hùng có nhiệm vụ trừ gian diệt bạo và cuối cùng thường lặng lẽ ra đi một mình một ngựa, để lại thương nhớ trong lòng của người đẹp nào đó trong thành phố anh đã đi qua. Phim O’cangaceiro này cũng vậy. Anh chàng vai chính là một tên cướp nhưng sau đó quay về con đường chính đạo và đã chống lại chính đồng bọn của mình khi họ định đánh cướp một ngôi làng bé nhỏ và nghèo nàn. Và trong lúc nổ súng, anh đã giết chết người cha nuôi là chúa đảng băng cướp đó. Cuối cùng, anh đã từ chối tình yêu của một cô gái trong làng và lầm lũi ra đi với cõi lòng nặng trĩu một nỗi ân hận vì lỡ tay giết chết cha nuôi.

Elvis Phương trước dancing Au Baccara năm 1973

Tuy đại khái giống nhau về phương diện truyện phim, nhưng điều mà tôi nhận thấy là phần nhạc đệm của các phim cao bồi thì hoàn toàn không có bài nào giống bài nào. Riêng bộ phim O’cangaceiro này có một bài nhạc, lúc thì có lời, lúc chỉ có nhạc không, và điểm đặc biệt nữa là lúc anh chàng vai chính ra đi thì bài nhạc này được trỗi lên qua tiếng kèn khẩu cầm (harmonica) réo rắt, cộng thêm hình ảnh hào hùng của chàng vai chính. Và hình ảnh cuối phim lẫn tiếng khẩu cầm đã khắc sâu vào tâm trí của đứa bé mê ciné là tôi.

Kể từ ngày đó, âm thanh của bài hát trong phim không lúc nào dứt trên miệng tôi, thậm chí vài hôm sau tôi đã xin tiền má để mua cho được một chiếc khẩu cầm nhỏ hiệu Piccolo (loại bỏ túi rất nhỏ), và ngày ngày cứ tập thổi theo giai điệu của bài hát phim O’cangaceiro.

Cũng kể từ ngày đó, tôi lại thích hát hơn xem ciné, hay tham gia những trò chơi của tuổi trẻ cùng lứa với mình. Tôi không còn thích đánh đáo, tạt hình, bắn bi, đá banh, đá dế, đá cá lia thia, u bắt mọi, tắm sông... như trước kia nữa. Tôi biết đi xin một cây đàn guitar đã bể hết phần thùng đàn phía sau và chỉ còn lại duy nhất một dây, để bỏ hàng giờ đứng trước tấm gương trong phòng tắm mà vặn vẹo làm bộ điệu và hát những bài hát của tuổi thơ như: Ai bảo chăn trâu là khổ, Tết trung thu... Tôi vừa gảy đàn vừa lắc lư để cảm nhận sự sung sướng chạy rần rần trong mạch máu.

Elvis Phương lúc 9 tuổi

Vì sự đòi hỏi của công việc nên ba tôi giao thiệp rất rộng, gần như trong nhà ngày nào cũng có khách khứa tiệc tùng, đủ các khách hàng, cả tây lẫn ta. Mỗi lần như thế, y như rằng tôi bị lôi ra trình diễn trước quan khách một nhạc phẩm duy nhất La Marseillaise – quốc ca của Pháp. Thoạt đầu tôi còn hăng hải trình diễn nhưng sau đó mỗi lần thấy khách khứa là tôi tìm cớ trốn lui. Ba tôi là một người hào phóng, nhất là với bạn bè, cứ hết tiệc này đến tiệc nọ và có lần cao hứng đã nhận lời thách đố để xây tặng cho bạn một căn nhà. Má tôi nhiều khi khuyên nhủ nhưng ông nhất định làm ngơ vì ông luôn coi bạn bè là trên hết, còn với con cái thì ông rất nghiêm khắc, đứa nào đứa nấy sợ ông một nước. Dù ba thường bắt tôi ra trình diễn bài tủ là quốc ca Pháp khi có bạn bè của ông đến nhà chơi, nhưng sau này khi lớn lên, biết tôi mê ca hát thì ông lại nhất định cấm đoán và chỉ muốn tôi đi học để ra trường làm ông nọ, ông kia hoặc nối nghiệp nghề thầu khoán của ông.

“Cái nghề ca hát ba lăng nhăng làm sao mà kiếm tiền được, đừng hòng đòi đi hát, không nghe người ta nói ‘xướng ca vô loài’ hay sao?” Ba tôi thường nói như vậy mỗi khi bắt gặp tôi đang mân mê cây đàn hoặc say sưa theo dõi những chương trình nhạc ngoại quốc trên đài phát thanh. Ông đã cố ý ngăn ngừa không cho tôi theo nghề ca hát từ bé.

Nhưng mặc ba cấm thì cấm, tôi vẫn lén lút nghe nhạc và lẩm bẩm hát theo. Âm nhạc đã trở thành hơi thở của tôi từ khi còn thơ dại. Mơ ước của tôi khi đó là có cho riêng mình một cái radio nhỏ chạy bằng pin, và ước mơ đó đã trở thành sự thật. Thật khó lòng diễn tả được niềm xúc động khi được nâng niu chiếc radio trong tay lúc ấy, kể từ đó tôi và chiếc radio đã trở thành vật bất ly thân. Đi đâu tôi cũng mang kè kè theo bên mình, nhất là khi leo lên giường ngủ thì càng không thể thiếu người bạn thân thiết này, để được những âm thanh dìu dặt, mê hoặc dẫn lối vào giấc ngủ say, không mộng mị.

Dù đã bị cảnh cáo nhiều lần, nhưng tật ôm radio nghe nhạc suốt ngày đêm đã trở thành đam mê mà tôi không bỏ được. Cho đến một hôm, đang say sưa với tiếng nhạc phát ra từ chiếc radio nhỏ bé, bên cạnh những chồng sách vở trong phòng học thì ba tôi bước vào đứng sau lưng tôi lúc nào không hay. Khi tôi nhận ra thì đã quá muộn, chiếc radio nhỏ bé thân yêu bị ba tôi giựt lấy và đập xuống sàn nhà vỡ nát. Hồn vía lên mây, tôi chưa kịp có phản ứng gì thì đã bị ông tặng cho mấy bạt tai đích đáng. Má tôi chạy vào can nhưng cũng không làm giảm bớt sự nóng giận của ông. Tôi đã sung sướng đón nhận chiếc radio như thế nào thì giờ đây đau khổ và tiếc rẻ chừng ấy khi ngắm nhìn hình thù méo mó, vỡ nát của nó trên sàn nhà. Sau đó, tôi cố gắng lắp ráp lại chiếc radio vỡ với hy vọng mong manh là có thể cứu vãn được, nhưng đành chịu thua.

Elvis Phương với ba ở Vũng Tàu

Ba tôi đã làm mất đi người bạn thân đầu đời và tận diệt niềm vui bé nhỏ của riêng tôi. Sau đó tôi đành phải nghe ké radio chung của gia đình, bị lệ thuộc vào sở thích của những người thân trong nhà mà lúc đó chương trình nhạc ngoại quốc ít khi được nghe tới. Tuy ba tôi rất khó tính trong việc giáo dục con cái, nhưng tôi vẫn một lòng kính phục ông trên cương vị cột trụ của gia đình. Một tay ông đã gầy dựng và mang lại cho gia đình tôi một cuộc sống tuy không phải là quá giàu có, nhưng sung túc và đầy đủ.

Giờ đây ngồi nhớ lại những ngày niên thiếu, tôi nhớ về ba, một người cha bận rộn trong công việc thương trường nhưng rất khe khắt trong việc dạy dỗ con cái. Với lòng thành kính, tôi luôn suốt đời mang ơn ba, vì ông có khe khắt thì tôi mới nên người, dù ở bất cứ môi trường nào.

“Con đã được sống bằng những mơ ước của đời mình. Dù rời nhà từ lúc 16 tuổi, nhưng từ thời niên thiếu đến khi trưởng thành, sự dạy dỗ của ba đã là kim chỉ nam cho đời con. Sống lăn lộn với bạn bè, giữa đời sống của vũ trường, những sân khấu ca nhạc, của ánh đèn mầu, giữa những vui buồn, những thăng trầm và cám dỗ, mà đến giờ đây, khi đã ngoài 70 tuổi đời, con vẫn tự hào là đã sống đúng nghĩa một đời.”

Elvis Phương tại Nhà Thờ Đá Phát Diệm, Việt Nam, năm 1998

Bao nhiêu thú vui: cờ bạc, đam mê hút xách, rượu chè, trai gái, môi trường sống đầy cám dỗ của tuổi trẻ... nhưng tôi đã tránh được tất cả để sống thật sự với mơ ước và đam mê ca hát của mình. Trong đầu óc non nớt của tôi lúc đó nào có nghĩ như ba: nghề nào sẽ tốt cho bản thân mình, cho gia đình mình, nghề nào được trọng vọng? Nhưng tôi chắc chắn được một điều là mình rất mê âm nhạc, nghe tiếng nhạc là tôi thấy yêu đời, thấy tâm hồn nhẹ nhõm lâng lâng. Lúc nào, giờ nào tôi cũng có thể nghe được, nhiều lúc tôi còn mang cả radio vào trong toilet để nghe nhạc... Tiếng gọi của âm nhạc đến với tôi từ thời thơ ấu, nhìn lại những người thân trong họ hàng chung quanh, tôi nhận thấy mình chẳng hề chịu ảnh hưởng “văn nghệ” của bất kỳ ai, do đó tôi nghĩ: Mình sinh ra đời để được ca, được hát mà thôi.

Tôi mê âm thanh từ hồi còn bé xíu, khi coi những hoạt họa câm, tiếng nhạc hoặc âm thanh kèm theo những động tác của đủ loại thú vật trong phim khiến tôi thích thú vô cùng. Tôi đã bỏ những thú vui của trẻ con cùng trang lứa mà suốt ngày chỉ muốn sống với âm thanh và tiếng nhạc. Má tôi tuy không ngăn cấm nhưng cũng không khuyến khích nhiều. Sau này khi tôi hơi lớn thêm một chút và thấy tôi cứ ca hát suốt ngày, bà thường chỉ cười và nói: “Khi nào con hát cho má nghe được bài Đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh thì lúc đó má sẽ cho con đi hát”. Má tôi rất thích bài hát này, suốt thời thơ ấu tôi thường nghe má ngâm và hát những bài ca quen thuộc về quê hương Hà Tĩnh khi ru các em tôi ngủ.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tại sao bọn trẻ không “vui vẻ” cho người lớn đỡ phiền?

Tại sao mỗi khi chúng ta cố dỗ bọn trẻ là y như rằng chúng nó càng làm dữ hơn? Rõ ràng ý định của chúng ta là vỗ về bọn trẻ. Để dạy chúng rằng chút xóc nảy tí tẹo trên đường đời vẫn có thể vượt qua mà không cần phải lao cả xe xuống mương.

Published

on

By

Trích từ: Nói sao khi trẻ không nghe lời
Tác giả: Joanna Faber, Julie King
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 7.2023

– – –

Mường tượng về cuộc sống của mình sau này – khi có ngôi nhà và những đứa trẻ của riêng mình – chúng tôi đoán chắc bạn sẽ mường tượng ra một cuộc sống với loạt khoảnh khắc đẹp như mơ.

Hễ đối mặt với xung đột hay đau khổ là ta lại muốn quay về với cảnh tượng hạnh phúc mình từng vẽ ra trong đầu. Thế nhưng, những nỗ lực quả cảm nhất và hữu ích nhất của ta những mong sẽ giúp ích hoặc sẽ khắc phục vấn đề – hóa ra lại khiến sự việc càng trở nên rối rắm.

Tại sao mỗi khi chúng ta cố dỗ bọn trẻ là y như rằng chúng nó càng làm dữ hơn? Rõ ràng ý định của chúng ta là vỗ về bọn trẻ. Để dạy chúng rằng chút xóc nảy tí tẹo trên đường đời vẫn có thể vượt qua mà không cần phải lao cả xe xuống mương. Mọi thứ rồi SẼ ỔN thôi! Ấy thế nhưng thông điệp lọt vào tai bọn trẻ lại rất khác: “Con đừng hòng có thứ con muốn và bố thì cóc quan tâm, bởi vì cảm xúc của con đâu quan trọng đến nỗi phải bận tâm”. Thành ra, nỗi đau khổ tăng lên gấp bội – cộng dồn vào nỗi thất vọng ban đầu về việc hết sạch thanh ngũ cốc – là cảm giác lẻ loi trống vắng mà bạn cảm thấy nhưng rồi nhận ra không ai quan tâm đến việc bạn đang buồn thế nào.

Thật ra, đối với người lớn, thanh ngũ cốc chỉ xếp hạng chót trong bảng xếp hạng thảm họa toàn cầu. Nhưng đối với đứa trẻ đang thất vọng tràn trề, thứ quà vặt thiếu hụt đó gây ra nỗi buồn vô hạn không thua kém bất kỳ thảm họa xinh xẻo nào ập xuống mỗi ngày trong quá trình trưởng thành của người lớn chúng ta. Việc này khó chịu sánh ngang với chuyện chị đồng nghiệp xấu tính cứ lấy bút của bạn dùng mãi mà không chịu trả, đúng không? Đừng cằn nhằn nữa! Việc nhỏ xíu xiu ấy mà! Còn chuyện bạn của bạn đem vấn đề sức khỏe cá nhân của bạn đi rêu rao khắp nơi thì sao? Bạn phản ứng thái quá rồi đấy. Đừng nhạy cảm thế chứ! Hay như chuyện anh thợ sửa xe tính tiền sửa hộp số quá đắt nhưng chỉ một tuần sau cái hộp số đó lại hỏng, nhưng anh ta kiên quyết không hoàn tiền cho bạn thì thế nào? Ơ hay, cuộc sống là thế! Khó chịu thì được ích gì.

Đừng nổi cáu nhé. Chúng tôi chỉ đang cố giúp bạn thôi, bằng cách giải thích cặn kẽ lý do tại sao bạn sai khi cảm thấy bực bội trong người.

Đúng là tức điên lên được khi những thất vọng của chính ta được cho là chẳng đáng kể trong kế hoạch lớn lao thì chớ, lại còn bị vo viên rồi ném đi. Khi ai đó cố gắng xoa dịu ta bằng cách giảm nhẹ những rắc rối nọ thì ta lại cảm thấy nghẹn lòng, bức bối hơn – thậm chí trong lòng còn dấy lên làn sóng giận hờn mới, phải trút lên người đang cố xoa dịu mình. Đám trẻ ở nhà cũng không khác chúng ta là mấy.

Ngay cả chuyên gia được đào tạo chuyên môn bài bản vẫn có thể vô tình làm cho trẻ đau khổ hơn thêm.

Chúng ta sốt sắng muốn dạy trẻ hình thành một góc nhìn nào đó – rằng con không được suy sụp trước mỗi một điều bé tí ti trong cuộc sống. Chẳng phải một trong những nhiệm vụ của phụ huynh là giúp con nhận ra điều quan trọng với điều không quan trọng sao? Đúng! Nhưng sai thời điểm! Thời điểm bạn buồn vì đôi giày mới mua bị đánh cắp không phải là thời điểm bạn muốn ai đó lên tiếng nhắc nhở rằng phải biết ơn vì bạn vẫn còn đôi chân. Đến khi bạn mất đôi chân vì bệnh tật, bạn càng không muốn người khác xuất hiện để nhắc nhở rằng bạn thật may vì có những người còn không có chân nào nữa kìa. Chắc chắn, sẽ có một thời điểm nào đó tốt hơn để nêu quan điểm, nhưng ngay lúc này, bạn sẽ đánh giá cao chút lòng thấu cảm chân thành hơn là một lời động viên sáo rỗng.

Hiểu một cách trí tuệ, chúng ta biết rằng không nên cố khuyên người khác thôi đau khổ ngay đúng thời điểm họ đang khốn khổ. Thế nhưng, chúng ta vẫn bị thôi thúc mạnh mẽ phải giảm thiểu hay loại bỏ cảm giác tiêu cực ở con mình, vì lợi ích của con lẫn lợi ích của chúng ta. Khi con trẻ kể lại chuyện không vui của con, rất tự nhiên chúng ta liền cố thuyết phục con rằng sự việc thật ra không tệ đến vậy. Chúng ta phản ứng bằng tâm trạng bực bội, thất vọng, và thế là, trước khi mọi người liên quan kịp biết điều gì đang diễn ra thì tất cả đã bị cuốn vào vòng xoáy tức giận. Càng cố dập lửa, lửa càng bùng cháy dữ dội. Hóa ra, chúng ta đang đổ dầu chứ không phải đổ nước vào lửa.

PHẢI LÀM GÌ BÂY GIỜ?

Thế đấy, chẳng ích gì khi cố gắng giúp con nhìn vào mặt tươi sáng của vấn đề, hoặc bảo con nên chấp nhận và ngừng than vãn bởi vì vấn đề của con nào có tệ gì đâu. Làm gì bây giờ? Cứ ngồi tọt vào ghế sofa đeo tai nghe chống ồn chăng? Hiển nhiên, chúng ta NÓI hay LÀM gì cũng chỉ khiến cho mọi thứ trở nên tồi tệ hơn, đúng không?

Chúng tôi rất vui vì bạn đã đặt ra câu hỏi này! Và xin giới thiệu đến bạn các mẹo hay sau đây có thể áp dụng mỗi khi con bạn tuột cảm xúc.

Mẹo #1: Thừa nhận cảm xúc bằng lời nói

Thay vì tranh cãi, bảo rằng con thật ngốc, hoặc con sai rồi, hoặc con vô lễ, hoặc con phản ứng thái quá, hãy dừng lại và tự hỏi: Con mình đang cảm thấy gì? Con bực mình, con thất vọng, con tức giận, con khó chịu, con buồn, con lo lắng, hay con sợ hãi?

Bạn nắm vấn đề rồi chứ?

Bây giờ hãy chứng tỏ cho con thấy là bạn đã hiểu sự tình. Chúng ta đang tìm kiếm điều gì? Đó là lời nói mà bạn muốn chia sẻ bằng cảm xúc chân thành, bằng lòng thấu cảm thật sự với một người bạn. Nghe điên rồ quá nhỉ. Ôi, con đang thất vọng lắm nhỉ! Ừ, tình huống này khó chịu thật đấy! Hình như lúc này con đang rất khó chịu với anh trai, với cô giáo, hay với bạn của con.

Mẹo #2: Thừa nhận cảm xúc bằng chữ viết

Việc viết ra giấy có sức mạnh nào đó khiến con trẻ cảm thấy như con đang được tôn trọng. Ngay cả trẻ còn rất nhỏ tuổi, chưa biết đọc, vẫn rất vui sướng khi những suy nghĩ của con được cha mẹ viết ra và đọc lại cho con nghe. Nên viết thành một danh sách – danh sách những điều ước, danh sách đi mua sắm, danh sách những nỗi lo hoặc những nỗi bất bình.

Mẹo #3: Thừa nhận cảm xúc bằng tranh vẽ

Tranh vẽ cũng là chiêu an ủi thần kỳ khi con trẻ gặp phải cảm xúc mạnh. Tin tốt là bạn không cần phải là họa sĩ. Những hình vẽ ngay đơ vẫn có tác dụng như thường! Đôi khi con trẻ muốn tham gia, tự tay vẽ ngay cho cha mẹ thấy cảm xúc buồn bực hay tức giận của con bằng bút chì, phấn hoặc bút màu sáp. Ngay cả hạt ngũ cốc cũng có thể dùng để phác họa khuôn mặt buồn thiu, cho con biết cha mẹ hiểu con đang có cảm giác thế nào.

Mẹo #4: Tưởng tượng điều bạn không thể làm trong thực tế

Khi con trẻ muốn một thứ gì đó mà chúng ta không thể đáp ứng cho con, thế là ta nhất định phải giải thích cho con lý do tại sao con không thể có điều đó. “Mẹ đã nói với con rồi, bây giờ chúng ta không thể đi bơi được con à, vì hôm nay là ngày hồ bơi đóng cửa. Khóc lóc cũng chẳng ích gì”. Kiểu lập luận thế này hiếm khi thuyết phục được con. Nhưng con sẽ vui lên ngay nếu bạn nói, “Ồ, mẹ ước gì bể bơi mở cửa suốt đêm luôn. Cho mẹ con mình tha hồ bơi lội dưới ánh trăng!”

Lần tới, hễ thấy mình muốn phát ngôn một thực tế lạnh lùng, gay gắt, hãy dành chút thời gian tìm cách thay đổi lời nói. Hãy nói với con là bạn ước gì mình có đũa thần để biến ra một bồn tắm đầy kem, hoặc bạn ước có robot xuất hiện giúp bạn dọn dẹp, hoặc thật tuyệt biết bao nếu có một chiếc đồng hồ đóng băng thời gian để con được chơi thêm 100 giờ nữa.

Mẹo #5: (Hầu như) im lặng thừa nhận cảm xúc

Đôi khi chỉ cần tỏ ra đồng cảm là đủ. Hãy chống lại thôi thúc nói đạo lý với con, đặt câu hỏi hoặc đưa ra lời khuyên cho con. Thay vào đó, bạn chỉ cần lắng nghe con, kèm theo những âm thanh ổ, ừm, à!

Đúng, nhưng…

Rõ ràng, có những lúc con trẻ cảm thấy rất tồi tệ. Chiếc bánh quy tuột khỏi tay con, rơi xuống sàn vỡ thành từng mảnh, rồi liền bị con chó đang chầu chực ăn mất. Mà đó là chiếc bánh quy cuối cùng. Hộp bánh hết trơn rồi! Vừa học xong phần thừa nhận cảm xúc, chúng ta liền chuyển sang giải cứu cảm xúc bằng cách chống lại ý muốn cằn nhằn con, “Trời, cầm như thế kiểu gì bánh chả vỡ! Lẽ ra con phải biết trước chứ”. Thay vì thế, chúng ta thủ thỉ một cách đồng cảm, “Ồ, con muốn ăn chiếc bánh quy đó quá chừng mà! Con không muốn Speedy ăn mất đâu nhỉ. Nó nhanh quá mà! Nó biết phải ăn ngay không thì sẽ mất. Ước gì mẹ có đũa thần để biến ra một hộp bánh quy khác ngay lập tức! Chúng ta nên làm gì bây giờ! Con có muốn giúp mẹ viết chữ BÁNH QUY vào danh sách đồ cần mua không? Hãy viết chữ bánh quy thật to vào nhé. Để ở chỗ nào mà chúng ta vẫn có thể nhìn thấy nó ấy”.

Mà này, đây đúng là giải vô địch lý lẽ kiểu con nít. Bạn vừa ngăn một cuộc khủng hoảng bánh quy, vừa vận động con nâng cao tinh thần hợp tác vừa khuyến khích con học đánh vần. Nhưng đôi khi rất khó để hiểu cảm xúc của con. Làm sao chúng ta có thể nhận thấy trước việc con bất chợt khó chịu hay tức giận. Chúng ta cứ tưởng mình sẽ có cuộc trò chuyện vui vẻ, hợp lý hợp tình, thế mà đùng một cái, chúng ta lại rơi vào cơn xoáy kịch tính. Chuyện quái gì vừa xảy ra vậy nhỉ?

Chà, quý độc giả thân mến, để tiện cho bạn, sau đây chúng tôi sẽ tổng hợp danh sách những kiểu tương tác điển hình có thể khiến đôi bên đang yên đang lành bỗng nảy sinh xung đột trong nháy mắt. Bí kíp là hãy nhận biết lúc con trẻ đương có biểu hiện cảm xúc mạnh ngay cả khi con không thể hiện rõ ràng.

Những biểu hiện cảm xúc mập mờ

1. Khi cứ tưởng con đặt câu hỏi

“Sao mẹ không đem trả em bé đi?”

“Con cần phải mặc quần à?”

“Con phải làm bài văn này thế nào đây?”

Câu hỏi trực tiếp xứng đáng nhận câu trả lời trực tiếp... đúng không?

“Bởi vì em ấy là một thành viên của gia đình mình!”

“Mẹ nói con rồi, ngoài kia 20 độ đấy!”

“Ờm, trước tiên con cần lập dàn ý”.

Thế nhưng, đôi lúc câu trả lời thẳng vào trọng tâm lại khiến con trẻ kích động hơn. Dù có thể con không biết định nghĩa của “câu hỏi tu từ”, nhưng chắc chắn con đang hỏi bằng câu hỏi tu từ đấy. Sẽ hữu ích hơn nếu bắt đầu cuộc trò chuyện bằng cách ghi nhận cảm xúc đằng sau câu hỏi.

“Em bé giành nhiều sự chú ý quá! Đôi khi con cảm thấy mình mất đi vị trí là người duy nhất trong nhà được quan tâm”.

“Ồ, con ước gì trời ngoài kia ấm hơn! Để con mặc quần đùi cho thoải mái!”

“Bài tập làm văn này có vẻ hơi quá sức con. Nó gồm nhiều phần, thật khó biết phải bắt đầu từ đâu”.

Bằng cách chấp nhận cảm xúc đằng sau câu hỏi của con cũng đủ làm dịu bớt xung đột và giúp con chấp nhận nỗi thất vọng hoặc vượt qua nỗi lo âu. Hoặc có khi như thế vẫn chưa đủ. Chính vì vậy mà chúng tôi viết Chương hai và Chương ba về cách tương tác và giải quyết vấn đề. Nhưng trước khi bạn lướt qua, hãy ghi nhớ rằng tất cả các mẹo đều bắt đầu từ đây – thừa nhận cảm xúc! Chúng ta cần thiện chí để giải quyết xung đột mà không gây chiến, và thừa nhận cảm xúc là cách để tạo thiện chí.

2. Khi cứ tưởng con muốn xin lời khuyên

Xem ra chúng ta vừa được trao cho cơ hội vàng để chia sẻ sự khôn ngoan “có một không hai” trên đời của mình.

Tại sao nghe xong con lại đùng đùng bỏ đi và đóng cửa đánh sầm thế?

Hãy cưỡng lại thôi thúc cho lời khuyên ngay lập tức. Hãy cân nhắc xem có phải con đang bộc lộ cảm xúc, và phản ứng tốt nhất chính là bắt đầu thừa nhận cảm xúc của con. Nhưng cảm xúc đó là gì? Chúng ta hãy phỏng đoán chút nào.

Bạn có thể thấy phụ huynh trong cuộc trò chuyện này đã đưa ra một đề xuất. Nếu bạn dành nhiều thời gian để chấp nhận cảm xúc của con, có thể con sẽ dễ dàng tiếp nhận lời đề nghị mà bạn đưa ra một cách trang trọng. Vấn đề là đúng thời điểm! Nếu chúng ta bắt đầu trò chuyện bằng câu “Tại sao con không thử?”, thì nhiều khả năng con sẽ gân cổ lên cãi, hoặc đùng đùng bỏ đi. Con trẻ cần cảm thấy được thấu hiểu rồi mới sẵn sàng xem xét giải pháp.

3. Khi con phản ứng thái quá

“Em gì mà bé tí tẹo. Khi không được đáp ứng là khóc nhè”

“Con ghét thầy giáo!”

“Mẹ không bao giờ cho phép con làm điều con thấy vui!”

Bản năng mách bảo chúng ta phải điều chỉnh lại cung cách ứng xử và phát ngay cho con liều thuốc thực tế:

“Con phải kiên nhẫn với em hơn. Khi bằng tuổi em, con cũng thế mà”.

“Con không được ghét thầy giáo. Con phải biết là may mắn lắm con mới được học lớp thầy đấy”.

“Đừng lố bịch. Con chỉ lỡ một bữa tiệc thôi mà. Còn rất nhiều bữa tiệc khác”.

Thế mà, bằng cách này hay cách khác, tất cả những phản hồi kiểu trên đều khơi mào cơn thịnh nộ nơi con hơn là khiến con bình tĩnh lại. Hãy ghi nhận cảm xúc đằng sau những phát ngôn khó chịu của con. Dưới đây là một số kiểu mào đầu cuộc trò chuyện có khả năng giảm nhiệt và dọn chỗ cho những đối đáp văn minh hơn:

“Có em lẽo đẽo bên cạnh không phải lúc nào cũng dễ chịu. Em hay giật đồ của con, và thường hét toáng lên mỗi khi thất vọng”

“Hình như hôm nay thầy giáo đã làm gì đó khiến con thực khó chịu!”

“Nghe như bữa tiệc này vô cùng quan trọng đối với con. Mẹ ước gì chúng ta có thể ở hai nơi cùng một lúc”.

Không phải mọi tình huống đều đòi hỏi sự thừa nhận cảm xúc!

Nghe bạn nói như thể tất tần tật mọi thứ đều dính líu đến cảm xúc. Thật mệt mỏi làm sao! Liệu chúng tôi sẽ vượt qua một ngày như thế nào đây?

Bạn đã nắm bắt được mấu chốt vấn đề! Chúng ta biết rằng khi cảm xúc mạnh dâng trào, ta thường có thể tránh xung đột và tiết kiệm năng lượng nếu chịu xử lý cảm xúc trước. Tất nhiên, sau đó bạn sẽ có dư thời gian sống cuộc đời mình mà không còn bị cảm xúc kịch tính đeo bám.

Khi con trẻ đặt câu hỏi mà con thật sự muốn có câu trả lời thì câu hỏi sẽ như thế này:

Bạn không cần phải đáp dông dài, “Hình như con đang thất vọng và không biết cách phát âm tập hợp những mẫu tự vừa lạ vừa khó hiểu”. Bạn chỉ việc đọc dứt khoát: “con cá”.

Nếu học sinh lớp bạn hỏi:

Bạn không cần phải sa vào bài diễn văn nhiều hàm ý, “Hmm, ánh sáng trong nhà có thể khiến ta trầm cảm nặng, nhất là khi ngồi dưới cả rừng bóng đèn huỳnh quang”. Bạn chỉ việc trả lời ngắn gọn: “Có!”

Khi con trẻ thắc mắc:

Bạn không nhất thiết phải thăm dò cảm xúc. “Ôi trời, ý nghĩ đáng sợ quá nhỉ”.

Cứ thoải mái cung cấp thông tin: “Không, cọp chỉ có trong sở thú thôi!” Hoặc, nếu có cọp đang lảng vảng trong khu phố thật thì bạn có thể nói: “Có! Nếu trông thấy cọp thì con hãy bình tĩnh và chầm chậm bước lùi lại”.

Nhiều người tham gia hội thảo đã chia sẻ với chúng tôi rằng mỗi khi tìm cách thừa nhận cảm xúc của con, sẽ hữu ích khi tưởng tượng bản thân đang nói chuyện với một người bạn đồng vai phải lứa. Khi nói chuyện với người đồng vai phải lứa, tự nhiên chúng ta dễ trở nên đồng cảm mà không phủ nhận cảm xúc của đối phương, cũng không muốn chất vấn, lý luận hay cho lời khuyên dông dài. Nhưng ngay cả khi giao tiếp với người lớn, đôi khi bản năng cũng dễ khiến ta thất bại trong cách cư xử.

Câu chuyện của Joanna

Cách đây không lâu, tôi nhận được điện thoại từ một người bạn, cô ấy vừa mới nhận được giấy chẩn đoán xét nghiệm. Cô ấy nói với tôi, “Em lo quá, tệ nhất là bệnh có nguy cơ biến chuyển thành ung thư”. Lập tức bản năng mách bảo tôi nói cô ấy hãy gạt bỏ nỗi sợ ấy đi. Không phải thế đâu. Tuyệt đối đừng nghĩ như vậy! Trong đầu tôi cứ quay quắt với suy nghĩ đó. Cuối cùng, tôi trả lời, “Thật khó mà vác nỗi lo nặng trĩu đó”.

Bạn tôi liền bùng nổ, “ĐÚNG VẬY! Rồi chị biết người ta nói gì với em không? Họ bảo em thậm chí không cần nghĩ về nó! Quá lố bịch phải không chị? Làm thế nào để không nghĩ về nó chứ?”. Tôi đồng ý rằng quả là lố bịch khi bảo ai đó đừng nghĩ về con voi màu hồng trong phòng. Cả hai chúng tôi đều bật cười. Tôi không thừa nhận với cô ấy rằng chính tôi cũng định nói ra những lời giống hệt mấy người “lố bịch” nọ.

Khi chấp nhận cảm xúc tiêu cực của người gặp chuyện không may, tức là chúng ta đang tặng cho cô ấy một món quà. Ít nhất có một người khác trên thế giới hiểu cô ấy đang phải trải qua điều gì. Cô ấy không đơn độc.

Thừa nhận cảm xúc không chỉ là một thủ thuật hay kỹ thuật. Đó là một công cụ có thể làm biến chuyển các mối quan hệ. Nó không đảm bảo rằng bọn trẻ sẽ vui vẻ dắt chó đi dạo, sẽ đánh răng hoặc đi ngủ đúng giờ, nhưng nó tạo ra bầu không khí thiện chí mà trong đó tất cả mọi việc đều trở nên dễ dàng hơn và dễ chịu hơn. Nó cũng đặt nền tảng để con trẻ phát triển khả năng quan tâm và chấp nhận cảm xúc của người khác.

Nhưng bạn không cần phải nghe theo lời của mỗi chúng tôi. John Gottman, nhà nghiên cứu nổi tiếng về tâm lý học trẻ em, đã xuất bản sách về nghiên cứu của mình. Trong nhiều năm, ông đã quan sát và so sánh các bậc cha mẹ có các phong cách giao tiếp khác nhau với con mình. Kết quả cho thấy những đứa trẻ được cha mẹ thừa nhận cảm xúc thường định hình nên những phẩm chất mạnh, bất kể chỉ số IQ của các con, bất kể cha mẹ các con thuộc tầng lớp xã hội hay trình độ học vấn thế nào. Các con có khả năng chú ý lâu hơn, làm bài kiểm tra tốt hơn và đạt thành tích học tập tốt hơn. Các con ít gặp vấn đề về hành vi hơn – hòa thuận hơn với giáo viên, phụ huynh, và bạn cùng lớp. Các con có khả năng đề kháng các bệnh truyền nhiễm tốt hơn, thậm chí ít hormon căng thẳng hơn trong nước tiểu. Vì vậy, xem ra nếu muốn con trẻ có lượng nước tiểu chất lượng cao (cha mẹ nào mà không muốn chứ?) chúng ta nên thừa nhận cảm xúc của con!

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Chốn giải trí ở Phú Nhuận trước 1975

Cơ sở vật chất ở rạp này xập xệ, ghế gỗ lung lay và khai mùi nước tiểu cũng không ngăn được khán giả, nhất là học trò vào xem phim, đặc biệt là trong dịp hè. Rạp Văn Cầm trở thành ký ức khó quên của vài thế hệ người Phú Nhuận.

Published

on

By

Trích từ: Hồi ức Phú Nhuận
Tác giả: Phạm Công Luận
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 8.2023

– – –

Là thôn, làng, sau thành thị xã Phú Nhuận thuộc quận Tân Bình tỉnh Gia Định, Phú Nhuận vẫn có những hoạt động không hề kém cạnh các địa phương khác ở Sài Gòn trong lãnh vực giải trí.

Cái nôi của ba đoàn cải lương và gánh hát mang tên “Phú Nhuận”

Thời Pháp thuộc, năm 1930, làng Phú Nhuận đã có đoàn hát cải lương được lập ra ở đây. Đó là đoàn Phước Trung Nam của bà Hai Vân, một đoàn nhỏ chuyên hát tuồng Tàu. Gánh này được lập từ xác gánh Đồng Bào Nam của cô Tư Sự. Nghệ sĩ cải lương gạo cội Ba Vân sau chuyến đi diễn ở xứ Bắc trở về đã đi theo hát cho đoàn Phước Trung Nam này. Các đào kép trong đoàn có: kép Ba Giáo dân Bạc Liêu, cô Ba Ngọc Anh làm đào chánh đóng cặp với Ba Vân, đào Hai Vàng ở Mỹ Luông – Long Xuyên, đào Ba Hường (vợ của Ba Tâm, sau đổi tên là Bạch Hường) cũng khá nổi tiếng thời đó, kép Hai Đại ở bên gánh Đồng Bào Nam qua. Thầy tuồng của đoàn là ông Nguyễn Công Mạnh, một soạn giả nổi tiếng, và ông Bảy Phát. Ông Bảy người Bến Tre, cũng đã viết nhiều tuồng, nhất là các loại tuồng về chiến tranh, có các màn bắn súng, đi dây. Gánh Phước Trung Nam không sống được lâu, sau khi gánh rã, đào kép kéo qua gánh Vương Huỳnh cũng được lập trong năm 1930 (theo Nghệ sĩ Ba Vân, Hồi ký kể chuyện cải lương, NXB TP.HCM, 1988).

Sau gánh cải lương Phước Trung Nam, cho đến giai đoạn từ 1954-1975, ở Phú Nhuận hình thành hai đoàn cải lương được xem là đại ban trong giới sân khấu cải lương, đó là đoàn Thủ Đô của ông bầu Ba Bản và đoàn cải lương Hương Mùa Thu của soạn giả Thu An và vợ là nghệ sĩ Ngọc Hương.

Chị Kim Nga, một thành viên trên trang facebook “Phú Nhuận ngày xưa" cho biết, trong những năm 1979-1981, nghệ sĩ Hữu Lợi có lập gánh hát nhỏ lấy tên là gánh Phú Nhuận, chỉ hát vòng vòng trong quận. Gánh hát đi tới đâu là mấy bà nội, bà ngoại xách giỏ trầu theo để coi. Mấy năm đó, dù cuộc sống đang khó khăn nhưng giới mê cải lương còn có được thú vui giải trí này. Chị kể: “Mỗi lần gánh chú Hữu Lợi về hát ở chùa Phú Thạnh trên đường Huỳnh Văn Bánh là tôi phải tranh thủ học bài xong sớm để tối còn đi coi hát. Mới đầu còn xách thùng đạn của ba đem theo để... ngồi. Riết rồi leo lên mấy ngôi mộ ngồi cho cao để coi cho sướng mà không ngán gì hết!”. Đó là ký ức vui về một gánh hát lấy tên Phú Nhuận ít ai biết.

Rạp hát ở Phú Nhuận

Rạp Văn Cầm: Là một rạp bình dân, giá vé rẻ nên đông khách, đa số là thanh thiếu niên. Rạp thường xuyên chiếu nhiều loại phim dù có chậm hơn so với các rạp ở Sài Gòn. Phim Hollywood đang trong thời điểm vàng son, với những phim cao bồi viễn Tây và phim La Mã rất được yêu thích khi cho chiếu ở đây. Ông chủ rạp có chiêu thu hút khách qua đường là trước mỗi suất chiếu đều cho máy phát qua loa phóng thanh tiếng hát ca sĩ Hoàng Oanh (lúc đó đang rất được ưa chuộng) sang phía chợ Phú Nhuận đông đúc. Khoảng đầu thập niên 1970, rạp bội thu vì nhiều người mua vé xem phim đánh đấm võ thuật Hồng Kông, như các phim có Lý Tiểu Long, Trần Tinh, Ngũ hổ tướng có Khương Đại Vệ, Địch Long, Trần Quang Thái... Khán giả muốn xem phải xếp hàng mua vé tới tận đường Cô Bắc, Cô Giang.

Cơ sở vật chất ở rạp này xập xệ, ghế gỗ lung lay và khai mùi nước tiểu cũng không ngăn được khán giả, nhất là học trò vào xem phim, đặc biệt là trong dịp hè. Rạp Văn Cầm trở thành ký ức khó quên của vài thế hệ người Phú Nhuận.

Rạp Cẩm Vân do ông Đội Có xây nên, cho mướn hát bội, hát cải lương và chiếu phim. Theo cuốn 300 năm Phú Nhuận: mảnh đất – con người – truyền thống, khoảng năm 1945, rạp này được cất bằng vách ván, cột gỗ, có mái cao, trước một bãi đất trống. Rạp bị cháy trong một trận đánh giữa quân kháng chiến với thực dân Pháp lúc 10 giờ đêm. Quân kháng chiến đột nhập vào rạp, khống chế gia đình người gác dan, quấn vỏ xe cũ dưới các chân cột, chất ghế gỗ chung quanh tường, gài từng chùm lựu đạn rồi tưới xăng châm lửa. Rạp cháy sập, sau được dựng lại. Khoảng thập niên 1950, rạp có hát cải lương với các tuồng Tàu do ban Đồng Ấu đóng, đoàn cải lương có nghệ sĩ Kim Cương diễn. Thời trước 1975 còn có đồ án làm Thương xá Cẩm Vân nhưng chưa hoàn thành.

Ngoài ra, các đình chùa cũng có đoàn cải lương, hát bội đến diễn, như đình Phú Nhuận, đổi Phú Hữu. Đền Phú Hữu, còn gọi là đình Ông Cọp, là nơi đoàn cải lương Hồ Quảng Huỳnh Long diễn hằng đêm với các nghệ sĩ nổi tiếng: Hữu Lợi, Đức Lợi, Bửu Truyện, Ngọc Đáng, Thanh Thế...

Vũ trường và phòng trà

Trước năm 1975, Phú Nhuận có hai vũ trường và phòng trà có tiếng, không kém các tụ điểm giải trí ở Sài Gòn.

Khiêu vũ trường Victoria Dancing: Có gắn máy lạnh ở số 429 Võ Di Nguy (nay là đường Phan Đình Phùng). Ở đây mời được nhiều ban nhạc chơi nhạc khiêu vũ đúng sở thích của khách và có ban kích động nhạc chơi khá tưng bừng, sôi động. Ca sĩ Trúc Mai, từng cộng tác độc quyền ở đây, rất được ái mộ vì cô ít khi có mặt tại các vũ trường mà chỉ xuất hiện trên băng tần số 9 Đài THVN. Ngoài ra, còn có các ca sĩ khác. Vũ trường được báo chí giới thiệu là có nhóm vũ nữ được xem là điêu luyện, không gian ấm cúng, thoải mái, mát mẻ, xe cộ của khách có chỗ đậu và trông coi cẩn thận, giá ăn, uống và ticket rất hợp lý.

Bộ ba nghệ sĩ sáng lập phòng trà Tùng Lâm & Lệ Liễu ở Phú Nhuận: Duy Mỹ, Kim Vui và Tùng Lâm.
Nguồn: TLTG.

Phòng trà Tùng Lâm & Lệ Liễu: Cuối thập niên 1950, trước khi tham gia cùng tam ca Sao Băng, có một thời gian ngắn nghệ sĩ Duy Mỹ kết hợp với ca sĩ – diễn viên điện ảnh Kim Vui và Tùng Lâm để diễn ca nhạc. Bộ ba này rất được khán giả yêu thích tại phòng trà Tùng Lâm & Lệ Liễu, nằm ngay góc đường Thái Lập Thành – Chi Lăng (nay là Phan Xích Long - Phan Đăng Lưu). Ca sĩ đẹp trai Duy Mỹ thường được khán giả yêu cầu hát nhạc ngoại quốc tại đây. Theo nhà văn Hồ Trường An, đến năm 1962, ông đến phòng trà này và nghe Kim Vui hát với dáng vẻ lộng lẫy: “Chị ưa diện áo đầm hở vai hở ức bằng nhung đen, mang găng tay đen kéo dài khỏi khuỷu tay, tóc uốn quăn nhưng chưa xõa xuống vai. Trông chị rất giống Rita Hayworth trong phim Gilda. Đôi lúc chị mặc áo nhiều tầng xếp, đeo khoen tai to như cô đào loại Vamp: Jare Russell trong cuốn phim L'Ardente Gitane hoặc cô đào Viviane Romance trong phim Carmen.” Tại đây, ca sĩ Phương Dung đã có những đêm diễn đầu tiên trong sự nghiệp ca hát.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Cafe sáng