Book trailer

Lực lượng Mãnh Hổ: Cuộc điều tra không khoan nhượng về tội ác chiến tranh năm 1967

Published

on

Tác phẩm Lực lượng Mãnh Hổ là một cuộc điều tra không khoan nhượng về tội ác chiến tranh năm 1967 ở miền Trung Việt Nam. Hai nhà báo thực hiện phóng sự này là Michael Sallah và Mitch Weiss đã được trao giải Pulitzer 2004.

Lực lượng Mãnh Hổ nằm trong danh sách những tác phẩm hay nhất năm 2006 theo bình chọn của các tờ báo như: Washington Post Book World, San Francisco Chronicle, Pittsburgh Post-Gazette và St. Louis Post-Dispatch.  

Tội ác bị chôn vùi suốt 30 năm của Lực lượng Mãnh Hổ

Vào buổi đầu của chiến tranh Việt Nam, năm 1965 Quân đội Mỹ đã thành lập một đơn vị chiến đấu có tính chất thử nghiệm với tên gọi “Lực lượng Mãnh Hổ,” tập hợp những người lính tinh nhuệ và gan dạ nhất.

Là trung đội viễn thám thuộc Sư đoàn Dù 101, Mãnh Hổ được trao rất nhiều quyền tự do, ít bị giám sát. Nhiệm vụ của họ là tìm nơi kẻ thù ẩn nấp để quân đội dội bom trúng mục tiêu. Họ được phép đến những nơi mà không có đội nào đến được, hòa làm một với rừng sâu, quên đi chính mình để thâm nhập vào tâm trí kẻ thù. Mỗi lần hành quân trong rừng của họ có thể kéo dài nhiều tuần liền.

Cuộc thử nghiệm này đã dẫn đến hậu quả khôn lường.

Những chuyện xảy ra trong suốt bảy tháng Mãnh Hổ sa chân xuống vực sâu là một cơn ác mộng. Lực lượng Mãnh Hổ đã gây ra vô số tội ác ghê gớm đối với dân thường ở vùng Quảng Ngãi – Quảng Tín trong suốt năm 1967. Lục quân Mỹ bắt đầu điều tra về tội ác chiến tranh của đơn vị này từ năm 1971. Cuộc điều tra kéo dài 4 năm sau đó và hồ sơ cho thấy lính Mãnh Hổ đã giết ít nhất 81 dân thường, vi phạm nhiều quy định quân đội. Cục điều tra của Lục quân Mỹ đã đề nghị kết án nhiều thành viên Mãnh Hổ. Nhưng tập hồ sơ bị lờ đi và rơi vào quên lãng suốt gần 30 năm.

Hai nhà báo đoạt giải Pulitzer vạch trần tội ác của Lực lượng Mãnh Hổ bằng nhiều nguồn tài liệu phong phú

Lực lượng Mãnh Hổ là thành quả của phóng viên Michael Sallah, Mitch Weiss và John Mahr từ nhiều năm điều tra, lần giở lại hồ sơ tuyệt mật, phỏng vấn những cựu thành viên Lực lượng Mãnh Hổ. Nhiều sự thật ghê gớm đã được tiết lộ trong loạt bài Buried Secrets, Brutal Truths (Bí mật chôn vùi, Sự thật tàn bạo) trên tờ Toledo Blade. Loạt bài này đã được trao giải thưởng Pulitzer hạng mục Báo chí năm 2004; từ nền tảng đó, Sallah và Weiss lại tiếp tục viết thêm quyển sách Lực lượng Mãnh Hổ đầy ắp tư liệu, giàu sức thuyết phục.

Xét về mặt nội dung, Lực lượng Mãnh Hổ có thể được chia làm hai phần. Phần đầu tiên thuật lại quá trình sa đọa của Mãnh Hổ khi trở thành đơn vị vô tổ chức và tàn nhẫn bậc nhất. Một cựu thành viên đã thuật lại với phóng viên rằng mục tiêu lúc bấy giờ của Mãnh Hổ là “hễ thấy gì động tĩnh là giết.”

Đến phần hai, cuốn sách thuật lại quá trình điều tra không khoan nhượng của sĩ quan Gustav Apsey sau 5 năm xảy ra cuộc thảm sát. Công việc của ông gặp nhiều khó khăn vì thiếu cơ sở dữ liệu. Thêm vào đó, do qui định của luật pháp, những người lính tàn bạo nhất lại là những người không phải chịu tố tụng vì họ đã rời khỏi quân đội. Lời khai của những thành viên miễn cưỡng chấp nhận trả lời trong cuộc điều tra cũng làm dấy lên sự nghi ngờ về mức độ tin cậy, một phần lí do là vì họ đã phải chịu di chứng hậu chấn thương về tinh thần. Khi phỏng vấn những cựu thành viên trong Lực lượng Mãnh Hổ và các nhân chứng người Việt, Sallah và Weiss đã cố gắng tìm hiểu lí do tại sao cuộc điều tra trước đây bị ngăn chặn, tại sao không có ai bị xét xử vì tội giết người.

Lực lượng Mãnh Hổ đặt ra nhiều câu hỏi nhân quyền đau đớn

Nhiều người lính trong Lực lượng Mãnh Hổ đã xuống tay giết người không chút nao núng khi cố gắng “giảm thiểu tối đa cảm xúc liên quan đến những sự kiện đang diễn ra.” Một người lính còn phát biểu rằng: “Vùng thung lũng này là nơi tồi tệ với tất cả chúng ta. Nhưng ta không cẩn phải chăm chăm nhìn thường dân để chọn mục tiêu. Chúng ta là Mãnh Hổ. Chúng ta thượng đẳng hơn.”  

Những thành viên trong Lực lượng Mãnh Hổ đều có số phận khác nhau, tất cả đều chỉ có điểm chung là thiện chiến. Sau khi rời khỏi Mãnh Hổ, có nhiều người vào tù ra khám, có nhiều người chết trẻ vì bị ung thư hay sơ gan, hoặc tự sát; một trong những người tàn ác nhất được miêu tả trong sách đã qua đời ở tuổi 34.

Lực lượng Mãnh Hổ được viết theo lối tường thuật ở ngôi thứ ba, kể lại những sự việc đã xảy ra như đang ở thì hiện tại mà không có bất kì bình luận xen giữa nào của phóng viên. Điều này đem lại cảm giác sống động, khách quan cho người đọc tương tự như trải nghiệm khi xem phim tài liệu không có lời bình theo phong cách direct cinema. Tuy vậy, khi các sự kiện càng được kể đơn giản thì càng có sức lay động.

Những câu chuyện thương tâm trong Lực lượng Mãnh Hổ có thể khiến người đọc bứt rứt; nhưng đồng thời, lại khó lòng buông sách xuống vì phải suy tư miên man về nhiều câu hỏi nhân quyền được đặt ra.   

Nhận xét của báo chí thế giới

“Hấp dẫn… Sallah và Weiss đã hoàn thành xuất sắc công việc khi kể lại không chỉ tổng quan câu chuyện chiến đấu mà còn cả những nỗi đau thường trực của các cá nhân.”

– Roger K. Miller | Pittsburgh Post-Gazette

“Tôi đã tường thuật về cuộc chiến kéo dài và chắc chắn rằng lời kể của các tác giả là đáng tin cậy… Lực lượng Mãnh Hổ bổ sung khía cạnh đáng sợ và sống động vào kiến thức của chúng ta về thảm kịch xảy ra ở Việt Nam cũng như sự hiểu biết của chúng ta về chính mình. Nhất định sẽ được đón nhận trong tương lai.”

– Stanley Karnow | Washington Post Book World

“Sallah và Weiss góp tiếng nói của họ cùng với những người lính Mãnh Hổ, người dân Việt Nam và những người thân yêu của họ. Thành quả là một câu chuyện hấp dẫn trải dài gần bốn thập kỷ và giúp định nghĩa lại Chiến tranh Việt Nam.”

– Bill Frogameni | Salon

“Mạnh mẽ… Cấu trúc xuất sắc và thật đáng kinh ngạc… Với Lực lượng Mãnh Hổ, Sallah và Weiss đã giành được vị trí bên cạnh Seymour Hersh (Chain of Command), Michael Herr (Dispatches) và Mark Bowden (Black Hawk Down) trong vai trò những nhà biên niên sử chiến tranh… Ngay lập tức thu hút sự chú ý và công bằng… Một bài thuyết trình xuất sắc và đầy đau đớn.”

– Joel Turpinseed | Minneapolis Star-Tribune

“Mạnh mẽ… Câu chuyện này được thể hiện lần đầu tiên dưới dạng loạt bài trên Toledo Blade, đã giành được giải Pulitzer cho Michael Sallah và Mitch Weiss. Quyển sách xứng đáng nhân đôi thành tích.”

– Ike Seamans | Miami Herald

“Đáng suy nghĩ… Sallah và Weiss đã cung cấp cho công chúng Mỹ câu chuyện được ráp nối này và bày tỏ lòng trắc ẩn đối với những người lính bị treo cổ đã phải chịu toàn bộ trách nhiệm về các sự kiện… Đây là một ví dụ sáng giá về cách báo chí có thể hoàn thành mục đích cao quý nhất là thông báo và vì thế đã trao quyền phán xét lại cho công chúng.”

– Edward Nawotka | San Francisco Chronicle

“Một câu chuyện hấp dẫn, một câu chuyện sẽ khiến người đọc vừa kinh hoàng vừa xấu hổ.”

– William Wineke | Wisconsin State Journal

“Một sự trình bày tuy rắc rối nhưng hấp dẫn về những gì có thể xảy ra khi một đơn vị quân đội tinh nhuệ chịu sự lãnh đạo kém và có mức độ thương vong cao… Các tác giả kể lại những chi tiết phức tạp theo phong cách báo chí trực diện khiến độc giả khó lòng đặt sách xuống”

– Robert Ruth | Columbus Dispatch

“Vừa nghiêm túc vừa xác đáng… Các tác giả đã truyền tải rất sinh động môi trường khắc nghiệt nơi những người lính bắt buộc phải tồn tại. Lực lượng Mãnh Hổ xuất hiện thật kịp thời.”

– Jack Kelly | American Heritage

“Rất lôi cuốn.”

– Dylan Foley | Denver Post

“Một câu chuyện hấp dẫn về con người trong chiến tranh, đúng thời điểm để nhìn lại các sự kiện ngày nay vì nó dẫn tới sự lo ngại sâu sắc.”

– George Herring, tác giả của Americas Longest War: The United States and Vietnam, 1950-1975

Về tác giả

Michael Sallah
Mitch Weiss

Hai tác giả Michael Sallah & Mitch Weiss được trao giải thưởng Pulitzer, thể loại Phóng sự Điều tra vào năm 2004 cho loạt bài về Lực lượng Mãnh Hổ trên tờ Toledo Blade. Họ cũng đã nhận được nhiều giải thưởng tiểu bang và quốc gia trong sự nghiệp.

Sallah từng được Hiệp hội các Nhà báo Chuyên nghiệp vinh danh là Phóng viên xuất sắc nhất ở bang Ohio. Ông hiện là biên tập viên mảng điều tra cho tờ Miami Herald.

Weiss đã cộng tác nhiều năm với Associated Press. Ông hiện là biên tập viên của tờ Charlotte Observer.

Book trailer

Bi cảm cái đẹp và cái chết trong tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê của văn hào Kawabata Yasunari

Published

on

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển của cố nhà văn Nhật Bản Kawabata Yasunari vừa được Phương Nam Book tái bản phát hành – khắc họa thái độ phản tỉnh của một người thực hành thiền định để đi đến giác ngộ về dục tính của chính mình và ý nghĩa của nhân sinh.

Người đẹp ngủ mê được Kawabata Yasunari viết và xuất bản vào năm 1961 khi ông 62 tuổi. Tác phẩm này dựa trên một kịch bản sân khấu kabuki với nhan đề Những mỹ nữ của Eguchi, công diễn khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Ông lão Eguchi 67 tuổi và nỗi lòng cô đơn trống trải

Tác phẩm kể về những lần ghé thăm của ông lão Eguchi, 67 tuổi, đến ngôi nhà đặc biệt với những trinh nữ xinh đẹp, tuổi chưa đến hai mươi, được gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, hoàn toàn khỏa thân trong tình trạng ngủ say. “Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây ‘giống như ngủ với một ông Bụt vô hình’. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được.”

Mỗi chương truyện là những lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà đặc biệt này. Mỗi lần, ông lại ngủ với những cô gái khác nhau. Màn đêm tối buông xuống, hơi thở êm dịu của những cô gái, gió thỉnh thoảng thổi qua mái nhà, tiếng sóng biển ầm ầm đập vào vách đá, Eguchi có những hồi tưởng, những hoài niệm khắc khoải khác nhau về những người đàn bà đã đi qua đời ông. Một ẩn dụ rõ ràng về sự tiếc nuối những văn hóa, những vẻ đẹp xưa kia ở Nhật Bản chỉ có thể gợi nhớ lại qua những khung cảnh, những hình ảnh tương tự, gần giống như thế.

Việc ngủ cạnh những cô gái trong ngôi nhà đặc biệt đã khiến tâm tưởng ông lão Eguchi tìm ra những cung bậc cảm xúc hết sức khác thường trong khi vẫn tôn trọng quy định của ngôi nhà. “Nàng ngủ, nàng không nói, nàng chẳng thấy khuôn mặt ông, chẳng nghe giọng nói ông... Và số phận ông nàng cũng chẳng mảy may biết đến”. Hơn hết, nhân vật chính cô đơn trong chính tâm thức của mình. “Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông”.

Điểm cốt lõi của tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê bắt nguồn từ nhân vật chính tự chiêm nghiệm về chính con người thực sự của mình. Ở hành trình đó, tác giả Kawabata Yasunari đã tạo ra các cuộc gặp gỡ, sự quan sát của ông lão Eguchi về vẻ đẹp thể xác của các cô gái. Tác phẩm không chỉ đơn thuần tràn ngập những mỹ từ như “bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ…”, mà là sự suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai, lãng quên cuộc sống hiện tại. Phải chăng, hình ảnh của một đời sống xã hội đầy tổn thương khiến con người ta dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, nỗi tiếc nhớ xót xa những tháng ngày chưa sống mà đã qua đi.

Bi cảm cái đẹp và cái chết

Càng về sau, tác giả Kawabata Yasunari đi sâu vào bản thể và ký ức xa xăm nhất của nhân vật chính, Eguchi tìm lại được những cảm xúc tinh thần thuần túy. Ông lão tin rằng, ở trong ngôi nhà đặc biệt này, chắc có những lão già không những buồn rầu nhìn lại thời trai trẻ nay đã xa xưa mà còn tìm cách lãng quên những điều xấu xa, những việc độc ác đã làm dọc theo chiều dài cuộc đời họ. Nhìn từ khía cạnh này, Eguchi nhiều lần xuất hiện cảm giác rằng những người đẹp ngủ mê phải chăng là sự hiện thân của một vị Bụt nào đó, trong các truyền thuyết xưa cũ.

Cũng trong tác phẩm này, Kawabata nhận định: “Trên thế gian không có gì cao quý bằng con người. Trong loài người không có gì vinh dự bằng thân thể trong trắng của người nữ. Tuy nhiên, để chiếm đoạt, sở hữu nó người ta phải phá hủy sự trinh khiết đó”Người đẹp ngủ mê chính là thứ cảm giác không thể nhầm lẫn mách bảo ta rằng Kawabata đã khéo léo sử dụng vẻ đẹp của ngôn từ cần thiết cho tác phẩm. Đỉnh điểm, ông đã khắc họa thành công cái đẹp của tấm thân trần – nó dường như trở thành biểu tượng cao quý của tính nữ vĩnh hằng, dù có được sở hữu trong tay thì vẫn muôn đời là bí mật.

Tác phẩm Người đẹp ngủ mê đã giúp cho tác giả Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel Văn học năm 1968 với lời ca ngợi của Viện Hàn Lâm Thụy Điển rằng: “Ông là người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uất của hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người”.

Một điểm đặc biệt, ở chương cuối, ông lão Eguchi trong cơn mộng mị nửa tỉnh nửa mê đã gợi nhớ về hình ảnh người mẹ của mình. Người đàn bà đầu tiên: “Mẹ”. Ý nghĩ này bất ngờ xẹt qua đầu ông như tia chớp. “Không phải mẹ thì ai vào đấy nữa”. Ý thức và lý trí ông đã tê liệt, và hình như nước mắt ứa ra từ khóe mắt già nua. Ông chỉ còn nhớ được đã mò mẫm tìm vú mẹ rồi lăn ra ngủ những ngày thơ ấu. Cũng giống như ông lão Eguchi nhớ về mẹ, đứa con dù lớn vẫn là con của mẹ. Có lẽ, cảm thức cô đơn trong chính tác phẩm văn chương của Kawabata thường phản ánh từ chính cuộc sống thời thơ ấu mồ côi từ năm 2 tuổi và cái tuổi trẻ thấm đẫm nước mắt của chính tác giả.

Sau tất cả, tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê đem lại những cảm xúc thẩm mỹ độc đáo, đồng thời để lại nhiều khoảng trống, nhiều băn khoăn để độc giả tự khám phá bằng trình độ thưởng thức của mình. Người đẹp ngủ mê chứa đựng nhiều đối cực: tuổi già – tuổi trẻ, cái đẹp – cái chết, tội lỗi – trong sạch, tha hoá – nguyên sơ… Vì vậy, Kawabata Yasunari dẫn dắt độc giả qua tầng tầng lớp lớp ngữ nghĩa vận động không ngừng, tạo nên sự khác biệt trong cảm nhận khi đọc tác phẩm.

Nếu một vài độc giả cảm thức tác phẩm thanh hay tục đều xuất phát từ hình tượng nghệ thuật phức tạp, ngôn từ đa nghĩa. Đôi khi, độc giả sẽ có những cảm xúc kinh hãi vì những suy nghĩ xấu xa của ông già Eguchi. Hay bạn sẽ thương xót cho vẻ đẹp của thân xác những người đẹp ngủ mê đang bị làm ô uế… Song dù sao, người đọc cần một trí tuệ sáng suốt, thấy đúng, thấy rõ những sai lầm của nhân vật chính để từ đấy lĩnh hội được các giá trị đích thực chân – thiện – mỹ của tác phẩm.

Trích đoạn

“Ngay vào thời điểm này trong năm, hai hay ba hoa mẫu đơn mùa đông nở dưới mặt trời ấm áp bên chân hàng rào cao bằng đá của một tu viện cổ ở Yamato. Những đóa trà hoa trắng nở trong vườn gần mái hiên ngôi nhà Shisendo. Vào mùa xuân, ra đời những chùm hoa đậu tía, những đóa đỗ quyên trắng ở thành phố Nara và ở Đền Trà Hoa ở Kyoto, những cánh hoa trà rụng đầy vườn.”

“Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin”.

“Dù say ngủ, nàng vẫn sống, nói cách khác, ý thức nàng bị vùi sâu trong giấc ngủ đậm đặc nhưng thân xác nàng vẫn sinh động trong nữ tính của mình.”

Về tác giả

Chân dung văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari năm 1969

Kawabata Yasunari (1899–1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên 2 tuổi. Từ đó, ông và chị sống lần lượt cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Kawabata Yasunari là tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel Văn học (năm 1968).

Những sáng tác văn chương, những tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata Yasunari, qua thời gian vẫn luôn đem lại hấp lực mạnh mẽ đối với nhiều nhà phương Đông học trên khắp các châu lục, có sức lôi cuốn rộng rãi độc giả trên thế giới, phản ánh nhiều phương diện của văn hóa Nhật cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật.

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

Lớn lên trên đảo vắng – Cuộc phiêu lưu kịch tính của gia đình Robinson

Published

on

Lớn lên trên đảo vắng

Trên đường sang châu Mỹ lập nghiệp, gia đình Robinson không may bị đắm tàu và trôi dạt vào một hoang đảo. Tại đây, họ đã phải bắt đầu một cuộc sống mới đầy gian khó, khi phải tự làm nhà, săn bắn, trồng trọt, thuần hóa thú hoang… Mỗi ngày với họ đều là một chuyến phiêu lưu kỳ thú nhưng cũng không kém phần nguy hiểm. Với sự ưu đãi của thiên nhiên và tinh thần kiên cường vượt qua nghịch cảnh, gia đình Robinson không chỉ sống sót mà sau nhiều năm lưu lạc trên đảo vắng, họ còn xây dựng được cho mình một cơ ngơi đáng kể.

Dưới ngòi bút miêu tả chân thực của tác giả Johann David Wyss, Lớn lên trên đảo vắng không chỉ bày ra trước mắt độc giả vẻ đẹp của một thế giới tự nhiên hoang sơ, trù phú mà còn là lời ca ngợi những đức tính tuyệt vời của con người. Đó là tinh thần phiêu lưu dũng cảm, sự thông minh tài trí, tính cần cù chăm chỉ và lòng tốt, sự quan tâm giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Nhờ vậy mà đây đã trở thành một trong những tác phẩm được yêu thích nhất của trẻ em trên toàn thế giới, còn nhiều lần được dựng thành phim cũng như chuyển thể thành truyện tranh và trò chơi điện tử.

Johann David Wyss (28/5/1743 - 11/1/1818) sinh ra ở Bern, Thụy Sĩ. Ông vốn là mục sư nhưng sau này đã trở thành một tác giả nổi tiếng. Được truyền cảm hứng từ tác phẩm Robinson Crusoe của Daniel Defoe, nhưng Wyss muốn viết một câu chuyện chứa đựng những bài học thú vị, bổ ích về cuộc sống thiên nhiên hoang dã dành riêng cho trẻ em, nên đã cho ra đời tiểu thuyết Lớn lên trên đảo vắng. Tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Đức năm 1812, và sau đó hai năm, đã được dịch sang tiếng Anh, rồi lần lượt là nhiều thứ tiếng khác.

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

Năm tuần trên khinh khí cầu – Chuyến du lịch độc đáo xuyên qua châu Phi hoang dã

Published

on

Năm tuần trên khinh khí cầu

Năm tuần trên khinh khí cầu kể câu chuyện về ba người Anh với tham vọng băng qua châu Phi, từ Đông sang Tây, trên một chiếc khinh khí cầu. Tiến sĩ Samuel Fergusson, nhà khoa học thông tuệ, là trưởng đoàn, đồng hành cùng ông có người hầu cận trung thành Joe và anh bạn thợ săn thiện xạ Dick Kennedy. Bộ ba dấn thân vào biết bao cuộc phiêu lưu hấp dẫn và không kém phần kỳ lạ: chạm trán với người bản địa và những loài động vật nguy hiểm, gặp sự cố với khinh khí cầu, đồng thời phải vật lộn với những bất lợi về thời tiết. 

Xuyên suốt cuốn sách Năm tuần trên khinh khí cầu, tác giả Jules Verne đã mô tả một cách sinh động những đặc điểm về hệ thực vật, động vật, địa lý và con người châu Phi qua con mắt của thế kỷ XIX. Được xuất bản lần đầu vào năm 1863, Năm tuần trên khinh khí cầu là sự kết hợp tuyệt vời của các yếu tố như nhân vật thông minh, sáng tạo, những kiến thức khoa học và công nghệ đi trước thời đại, đặc biệt là cốt truyện đầy hấp dẫn hé lộ viễn cảnh về một thế giới chưa được biết tới, tất cả đã làm nên chất phiêu lưu đặc trưng và tạo tiền đề cho những tác phẩm sau này của Jules Verne.

Tác phẩm văn học Năm tuần trên khinh khí cầu. Ảnh: Đinh Tị Books

Ngày 31/1/1863, Năm tuần trên khinh khí cầu chính thức ra mắt và ngay lập tức nổi tiếng khắp nước Pháp và sau đó là toàn thế giới. Mọi người đều hết sức kinh ngạc khi độc giả có cảm giác được trải nghiệm thực tế những điều trong sách. Một độc giả còn gửi thư tới nhà xuất bản để hỏi: “Tôi rất mong nhận được một câu trả lời từ ngài, Tiến sĩ Samuel Fergusson thật sự có thể ngồi trên khinh khí cầu để bay xuyên qua châu Phi ư…”

Năm tuần trên khinh khí cầu do Đinh Tị Books phát hành. Bản dịch đầy đủ từ dịch giả Ngụy Thanh Tuyên giúp truyền tải trọn vẹn tinh thần của bản gốc. Bởi, dịch giả Ngụy Thanh Tuyên đã có kinh nghiệm chuyển ngữ thành công rất nhiều tác phẩm cả kinh điển, trong số đó có thể kể đến Hai vạn dặm dưới đáy biển 80 ngày vòng quanh thế giới.

Trích đoạn

“Samuel thân mến ạ!” Người thợ săn nói. “Dự án gì đó của anh thật điên rồ! Nó không khả thi! Nó chẳng có vẻ gì là nghiêm túc hay thực tế hết!”

“Tại sao lại không?”

“Chà, vì rủi ro, vì trở ngại đủ kiểu.”

“Về chuyện trở ngại,” Fergusson nghiêm giọng nói. “Trở ngại tồn tại là để ta vượt qua. Còn rủi ro và nguy hiểm ư? Ai dám tự vỗ ngực tuyên bố ta đây chẳng bao giờ gặp nguy? Chúng ta chỉ nên thấy hiện tại qua tương lai mà thôi, vì tương lai chẳng qua chỉ là hiện tại xa hơn một chút.”

Đọc bài viết

Cafe sáng