Trích đăng

Kiến trúc hiện đại Việt Nam cần được thế giới công nhận

Kiến trúc hiện đại miền Nam Việt Nam lấp đầy khoảng trống giữa chủ nghĩa công năng của Phong cách Quốc tế và nhiệm vụ tìm kiếm bản sắc, tinh thần vốn bị khuyết thiếu trong kiến trúc hiện đại trên toàn thế giới.

Published

on

Trích từ: Kiến trúc Hiện đại miền Nam Việt Nam
Tác giả: Mel Schenck
& Alexandre Garel
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2022

Kiến trúc hiện đại đại diện cho tinh thần của thời đại công nghiệp, bao hàm nhiều nhánh khác nhau, nên từ những ngôi nhà phong cách thảo nguyên của Frank Lloyd Wright ở Mỹ đến những tòa nhà kính cao tầng và nhà hộp kim loại hiện diện trên khắp thế giới ngày nay.

Trong ba thập kỷ từ sau khi Nhật Bản chiếm đóng Việt Nam trong Thế Chiến II, các kiến trúc sư ở miền Nam đã phát triển một phiên bản kiến trúc hiện đại phù hợp với khí hậu nhiệt đới, và qua đó phản ánh bản sắc văn hóa của một nước Việt Nam vừa giành độc lập.

Với số lượng khổng lồ và chất lượng đỉnh cao của các công trình hiện đại được xây dựng trên khắp miền Nam Việt Nam sau Thế Chiến II, đất nước này đã trở thành một trung tâm kiến trúc hiện đại tuy chưa được công nhận trên thế giới. Quan trọng hơn cả là khi tiếp nhận kiến trúc hiện đại vào văn hóa Việt, nó đã trở thành lối kiến trúc bản địa cho hầu hết các căn nhà ở khắp miền Nam Việt Nam.

Sự giao thoa giữa đặc và rỗng tạo ra một phiên bản kiến trúc sống động hơn và do đó, trở thành phong cách nổi bật của chủ nghĩa kiến trúc hiện đại.

Miền Nam Việt Nam đã phát triển phiên bản kiến trúc hiện đại của mình như thế nào, và tại sao nền văn hóa này lại dễ dàng đón nhận chủ nghĩa hiện đại?

Phong cách kiến trúc này thể hiện việc tìm kiếm một bản sắc Việt Nam độc lập vượt khỏi chủ nghĩa thực dân, kết hợp với lối kiến trúc truyền thống Việt Nam mà không sao chép, từ đó thể hiện cái nhìn hướng đến tương lai, thay vì nhìn về quá khứ của người dân miền Nam.

Vậy tại sao câu chuyện này trước đây chưa từng được nhắc đến?

Đối với người Mỹ, Việt Nam gợi nhắc đến một cuộc chiến là một đất nước. Và không ai nhận thấy trong lúc chiến tranh diễn ra, người Việt Nam cũng tất bật xây dựng các khu chung cư, nhà ở, công trình công cộng nhằm kiến thiết một quốc gia mới. Tất cả đã không dự đoán được phong cách kiến trúc này lại mang màu sắc chủ nghĩa hiện đại hơn là phỏng theo các thiết kế truyền thống Việt Nam, hay tiếp nối lối kiến trúc thuộc địa.

Sau ngày thống nhất đất nước vào năm 1975, miền Nam Việt Nam trước đây được cho là nền văn hóa suy đồi, và phản ánh cái gọi là chính quyền bù nhìn của người Mỹ. Vì vậy, bất cứ thứ gì phát triển từ đây, kể cả lối kiến trúc hiện đại miền Nam, cũng đều bị cho là không đáng được nghiên cứu. Cũng chính vì lẽ đó, các học giả và kiến trúc sư Việt Nam đã không có bất kỳ tác phẩm nào về thời kỳ kiến trúc này, mãi đến vài năm trở lại đây, các học giả Việt Nam mới bắt đầu nghĩ đến việc trình bày vấn đề này trước thế giới.

Quyển sách này ghi nhận thành tựu xuất sắc của người miền Nam trong việc phát triển một nền kiến trúc hiện đại Việt Nam độc đáo trên thế giới.

Kiến trúc hiện đại Việt Nam là một câu chuyện cần được thế giới công nhận, và sự công nhận này phải bắt đầu từ các kiến trúc sư, các nhà sử học, nhà giáo dục và những người đam mê kiến trúc trên thế giới, đặc biệt là cộng đồng kiến trúc tại Việt Nam. Độc giả của quyển sách này sẽ khám phá ra rằng kiến trúc hiện đại miền Nam Việt Nam sẽ lấp đầy khoảng trống giữa chủ nghĩa công năng của Phong cách Quốc tế và nhiệm vụ tìm kiếm bản sắc, tinh thần vốn bị khuyết thiếu trong kiến trúc hiện đại trên toàn thế giới.

Alexandre Garel và tôi tự hào giới thiệu ấn phẩm này nhằm mang lại sự công nhận xứng đáng cho những công trình kiến trúc hiện đại. Là kiến trúc sư người Mỹ cư trú tại Việt Nam từ năm 2006, tôi đã nghiên cứu kiến trúc hiện đại Việt Nam ngay từ lần chạm mặt đầu tiên và không khỏi ngạc nhiên về quy mô cũng như chất lượng của chúng ở Sài Gòn khi tôi ở đây những năm 1971-1972. Alexandre Garel sinh ra ở Pháp, sống tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011, anh đã ghi lại dấu ấn trong hoạt động sáng tạo của mình ở cả Việt Nam và Pháp với tư cách là phóng viên ảnh, nhiếp ảnh gia du lịch, và hơn thế nữa là một nhiếp ảnh gia kiến trúc. Alexandre đã trở thành nhiếp ảnh gia hàng đầu về di sản kiến trúc của thành phố Hồ Chí Minh và là một trong những người ủng hộ thành phố này nhiệt tình nhất. Tình yêu của anh ấy đối với đô thị và kiến trúc di sản được phản ánh qua những tấm ảnh đặc sắc trong tác phẩm này. Alexandre Garel cũng như tôi đều đam mê các công trình kiến trúc và di sản, đồng thời là những người đi đầu trong cộng đồng di sản kiến trúc đang phát triển ở Việt Nam.

Chúng tôi hy vọng rằng bộ sưu tập những công trình kiến trúc hiện đại Việt Nam tiêu biểu của mình có thể làm cơ sở cho các học giả Việt Nam và quốc tế trong quá trình tìm hiểu lịch sử kiến trúc Việt Nam. Do đó, quyền sách sẽ là phần mào đầu cho sự diễn giải và phân tích phê bình của người Việt về thời kỳ này. Tuy nhiên, quyền sách này tại thời điểm hiện tại trở nên giá trị hơn trong bối cảnh các di sản kiến trúc ở thành phố và nông thôn bị phá dỡ liên tiếp, bao gồm cả công trình theo kiến trúc hiện đại cũng như kiến trúc truyền thống Việt Nam và kiến trúc thuộc địa Pháp.

Đây không phải là một tác phẩm lịch sử mặc dù hoàn cảnh lịch sử miền Nam Việt Nam được mô tả sơ lược ngay từ đầu để làm sáng tỏ bối cảnh phát triển phong cách kiến trúc của các kiến trúc sư Việt Nam. Thông tin lịch sử về một số tòa nhà được đưa ra khi có liên quan đến quá trình phát triển thiết kế của chúng, nhưng chung quy, ngoài thời điểm khánh thành hoặc tên tuổi của kiến trúc sư thiết kế, thì những thông tin cụ thể khác của chúng sẽ không được cung cấp ở đây. Có một quyển sách hướng dẫn tuyệt vời về thành phố Hồ Chí Minh và các tòa nhà lịch sử của thành phố mang tên Exploring Saigon-Chợ Lớn: Vanishing heritage of Hồ Chí Minh City của Tim Doling, được Nhà xuất bản Thế Giới xuất bản năm 2019. Quyển sách này ban đầu được xuất bản với tên Exploring Hồ Chí Minh City năm 2014.

Tuy nhiên đây không phải là một tác phẩm học thuật, dù tác giả có xu hướng nghiêng về khía cạnh đó. Đối với một người không thạo tiếng Việt hay tiếng Pháp, việc nghiên cứu vấn đề này quả là một thách thức. Tuy được hai sinh viên kiến trúc Việt Nam hỗ trợ tìm nguồn tư liệu, song một nửa trong số đó vẫn không thể tiếp cận được. Sách xuất bản ở nước ngoài rất khó tìm mua, thậm chí nguồn tư liệu học thuật hàn lâm tối thiểu cũng không thể tìm thấy tại các thư viện trường đại học hay thư viện công cộng. Thật đáng ngạc nhiên khi đến gần đây vẫn chưa có tác giả Việt Nam hay quốc tế nào chú trọng đến kiến trúc thời kỳ này. Việc nghiên cứu phân tích phong cách kiến trúc này hẳn sẽ thuận lợi hơn nếu chúng tôi có được cơ sở nền tảng để thực hiện. Tuy nhiên, việc thiếu hụt nền tảng đó đã thúc đẩy việc nghiên cứu sơ bộ để xây dựng cơ sở dữ liệu hơn 400 công trình kiến trúc hiện đại ở miền Nam Việt Nam. Trong bài báo mang tên “Kiến trúc hiện đại của Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh” công bố vào tháng 8 năm 2017, hai nhà nghiên cứu kiến trúc Việt Nam Trương Thanh Hải và Vũ Thị Hồng Hạnh thuộc trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh đã cố gắng khảo sát và đánh giá các công trình kiến trúc hiện đại ở thành phố, dựa trên các giá trị được liệt kê làm tiêu chí đánh giá. Tuy vậy, chỉ mới có 40 công trình được nghiên cứu và liệt kê trong đó.

Do sự khan hiếm hồ sơ và tài liệu lưu trữ sẵn có, cũng như việc không thể tìm thấy đầy đủ những dữ kiện ngay cả khi chúng tồn tại, chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về những sai sót khó tránh khỏi trong quyển sách này. Nhìn chung, thời điểm xây dựng và tên tuổi của các kiến trúc sư đã được chứng thực bằng hai nguồn khác nhau. Khi có hai dữ kiện cùng lúc, nguồn đáng tin cậy nhất sẽ được sử dụng. Tên tuổi các kiến trúc sư và thời điểm xây dựng bị bỏ qua trong hầu hết các dự án trong tác phẩm này, khi dữ kiện không được tìm thấy hoặc giữa các nguồn có sự mâu thuẫn. Tôi cũng đã cố tránh việc suy đoán tên tuổi các kiến trúc sư dựa trên những công trình khác hoặc giả định phong cách của họ. Hầu hết các kiến trúc sư đều tham khảo ý tưởng của các đồng nghiệp khác, với sự tùy biến vừa đủ sao cho phù hợp với hoàn cảnh của từng dự án cụ thể. Những cụm từ thường dùng như “Ông lấy cảm hứng từ… vì thế thật nguy hiểm khi gán ghép công trình nào đó với tên tuổi một kiến trúc sư dựa trên những tiền lệ đã biết trước đây.

Quyển sách này dành cho cộng đồng kiến trúc Việt Nam và quốc tế, sinh viên thiết kế Việt Nam nói riêng và tất cả những ai đam mê kiến trúc trên thế giới nói chung, những người muốn tìm hiểu thêm về loại hình kiến trúc đặc biệt này. Quyển sách này là sự tổng hợp chuyên môn – nghiên cứu và lập danh mục các công trình kiến trúc dựa trên giá trị thẩm mỹ và giá trị xã hội của chúng.

Chúng tôi đã lựa chọn hơn 150 công trình kiến trúc hiện đại ở Việt Nam giữa thế kỷ XX để trình bày, trên cơ sở dữ liệu hơn 400 công trình và vẫn tiếp tục cập nhật các phát hiện mới mỗi ngày. Đây là một minh chứng cho sự tuyển lựa số lượng trong kiến trúc hiện đại Việt Nam, chứng tỏ người Việt Nam tiếp thu chủ nghĩa hiện đại hơn hầu hết các nền văn hóa khác trên thế giới.

Các phong cách kiến trúc nói riêng, đặc biệt là trong các tài liệu học thuật, không được xác định rõ ràng hoặc vẫn đang trong quá trình tranh cãi. Do đó, đây phải là một quyển sách mang tính nhất quán. Tôi đã cố gắng chắt lọc các định nghĩa thành các thuật ngữ đơn giản, dễ hiểu. Tuy nhiên, đến cuối cùng thì đây vẫn là quyển sách trình bày ý kiến của riêng tôi về những phong cách kiến trúc hiện đại, cũng như tác động của chúng với lịch sử kiến trúc. Một lần nữa, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về bất kỳ sai sót hoặc hiểu lầm không tránh khỏi trong tác phẩm này.

Tiếp theo đây chúng ta sẽ thảo luận về các thuật ngữ kiến trúc. Tôi đã cố gắng tìm tiếng nói chung của độc giả quyển sách này và lược bỏ càng nhiều thuật ngữ kiến trúc càng tốt. Các kiến trúc sư Việt Nam có thể không hiểu một số thuật ngữ tiếng Anh, dù họ có lẽ cũng có các thuật ngữ tương tự bằng tiếng Việt. Tuy nhiên, sẽ có một số biệt ngữ không thể thiếu trong việc mô tả kiến trúc, và chúng sẽ được định nghĩa ngay dưới đây. Những thuật ngữ này rất hữu ích để giải thích sự phong phú trừu tượng của kiến trúc hiện đại Việt Nam.

Thuộc tính kiến trúc (Architectonic): Trong kiến trúc cổ điển, các kiến trúc sư sử dụng các tác phẩm điêu khắc và chi tiết trang trí mang tính đại diện. Vì kiến trúc hiện đại mang tính trừu tượng nên các kiến trúc sư thêm vào các thành phần có giá trị kiến trúc, đặc biệt là những thành phần chức năng như bồn cây, hoặc các thành phần có tính chất tô điểm nhưng không phải là chi tiết trang trí. Chúng được coi là thuộc tính kiến trúc vì có hình thái kiến trúc trừu tượng.

Mức độ chi tiết (Articulated, articulation): Trong khi hầu hết các tòa nhà cao tầng theo Phong cách Quốc tế của kiến trúc hiện đại thế giới đều có lớp vỏ bề mặt bằng kính và kim loại nhẵn bóng, thì kiến trúc hiện đại Việt Nam lại phô bày rất nhiều điểm nhấn ở mặt tiền, vì vậy chúng tôi cho rằng kiến trúc hiện đại Việt Nam thường có tính chi tiết cao. Cấu trúc vỏ kép (chúng tôi sẽ định nghĩa rõ hơn kỹ thuật này ở phần sau) và việc áp dụng thành phần lam gió (brise-soleil) đem đến bố cục đa dạng giữa các khoảng hở và phần nhô ra ở mặt tiền khiến cho công trình trở nên hấp dẫn với mức độ chi tiết cao.

Lam gió (Brise-soleil): Phong cách kiến trúc hiện đại của kiến trúc sư người Pháp gốc Thụy Sĩ Le Corbusier thường chuộng ô khối, kỹ thuật này bao gồm các bức tường lửng vuông góc với tường bao ngoài của mặt tiền nhằm ngăn cản ánh nắng mặt trời làm nóng phần tường bao ngoài. Brise-soleil là một thuật ngữ tiếng Pháp dùng để chỉ các thành phần chắn nắng, và dù do Le Corbusier khởi phong, kỹ thuật này lại được các kiến trúc sư Brazil, Ấn Độ và Việt Nam sử dụng hiệu quả hơn cả nhằm giảm thiểu tác động của ánh nắng vùng khí hậu nhiệt đới. Trong cuốn sách này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ lam gió cho bất kỳ thành phần chắn nắng nào, bao gồm cả những thành phần ở mặt ngoài tòa nhà hoặc được gắn trên các bức tường bao ngoài, chẳng hạn như tấm thông gió.

Bố cục (Composition): Các tòa nhà hình thành từ bố cục tương tự như tác phẩm âm nhạc hay nghệ thuật. Vào thời cổ đại, cấu tạo bắt nguồn từ những tiền lệ, quy tắc và trật tự. Kiến trúc hiện đại đã mượn ý tưởng và triết lý về việc kết hợp các bộ phận và lắp ráp chúng thành một bố cục mang tính trừu tượng hài hòa với đầy đủ chức năng. Khi các phong cách kiến trúc hiện đại toàn cầu theo đuổi sự tối giản với bố cục đơn giản, thì kiến trúc hiện đại Việt Nam lại cầu kỳ hơn và do đó, bố cục hài hòa là mục tiêu cơ bản của thiết kế Việt Nam.

Thành phần kiến trúc (Element): Bố cục thường do các thành phần khác nhau của tòa nhà cấu thành nên, chẳng hạn như cột và dầm. Kiến trúc hiện đại Việt Nam cầu kỳ hơn khi các kiến trúc sư bổ sung nhiều thành phần kiến trúc khác trong bố cục, nhất là các thành phần giúp giảm thiểu sự tác động của khí hậu nhiệt đới như phần mái đua hay lam gió.

Mặt tiền (Facade): Hình thức kiến trúc tạo nên các tòa nhà gồm nhiều mặt quay ra các hướng mà các kiến trúc sư thường gọi là mặt đứng. Mặt tiền chính thường là hướng ra vào hoặc hướng mặt đường.

Nhà phố (Shophouse): Nhà dãy, nhà liền kề hay nhà phố đều là các khái niệm dùng để chỉ dãy nhà chung vách, thường được gọi là vách ngăn. Những ngôi nhà không chung vách ngăn được gọi là nhà biệt lập, điều đó có nghĩa là các ngôi nhà này có một khoảng lùi so với ranh giới lô đất. Nhà phố là thuật ngữ phổ biến trên khắp Đông Nam Á, dùng để chỉ các dãy nhà sát vách dù chúng có hoặc không chung vách ngăn. Tầng trệt của chúng hầu như luôn được dùng làm cửa hàng bán lẻ hoặc bán buôn, quán cà phê, nhà hàng hoặc nhà xưởng quy mô nhỏ, còn không gian sinh hoạt thì nằm ở các tầng trên. Các cửa hiệu thời thuộc địa, đặc biệt là các cửa hàng ở khu người Hoa Chợ Lớn đều chung vách ngăn. Các nhà thầu người Pháp cũng xây dựng nhà dãy vào đầu những năm 1950 ở Sài Gòn, chúng được gọi là “nhà tập thể” chung vách ngăn. Tuy nhiên, từ những năm 1960, nhà phố không còn chung vách nữa, thay vào đó chúng là những thực thể cấu trúc khép kín dành cho các hộ gia đình đơn lẻ, mặc dù có thể có vài thế hệ thành viên sống chung một nhà. Đôi khi các phòng còn được cho thuê, nhưng chúng vẫn được coi là nhà phố. Do đó trong cuốn sách này chúng tôi quyết định sử dụng thuật ngữ“nhà phố” cho các trường hợp như trên.

Tính bản địa (Vernacular): Có một chương mang tựa đề “Kiến trúc bản địa trong mảng nhà ở và biệt thự Việt Nam” sẽ cắt nghĩa rõ ràng hơn về thuật ngữ “tính bản địa”. Học giả Paul Oliver, người đã phổ biến tính bản địa trong kiến trúc, nhấn mạnh khái niệm này“được sử dụng rộng rãi để chỉ kiến trúc bản xứ, bộ lạc, dân gian, thôn quê và truyền thống”. Tuy nhiên, định nghĩa về kiến trúc bản địa đã được mở rộng trong thời gian gần đây, bao hàm cả kiến trúc nhà ở trong thời đại ngày nay. Vì khái niệm này rất cần thiết trong nhận định miền Nam Việt Nam là một trung tâm của kiến trúc hiện đại, nên định nghĩa ngắn gọn được đưa ra ở đây là: Kiến trúc bản địa chỉ các công trình được xây làm nhà ở tại thời điểm hiện tại trong một khu vực văn hóa nhất định. Do đó, chúng là những ngôi nhà của người dân địa phương tiêu biểu cho lối kiến trúc chủ đạo trong một khu vực văn hóa.

Việc phân định các tầng nhà trong quyển sách này tuân theo hệ thống phân tầng ở Bắc Mỹ mà nhiều nước châu Á cũng sử dụng. Vì vậy, tầng trệt là tầng một, và tầng ngay trên tầng trệt là tầng hai. Trong khi đó, người dân miền Nam Việt Nam lại sử dụng hệ thống phân tầng của châu Âu nên các tòa nhà bắt đầu từ tầng trệt, còn tầng một là tầng nằm ngay phía trên.

Ngoài ra, trong cuốn sách này, tên gọi Sài Gòn được dùng trước mốc năm 1976, còn tên gọi thành phố Hồ Chí Minh được sử dụng sau khi Sài Gòn đổi tên vào tháng 7 năm 1976. Tất cả địa chỉ công trình trong sách đều ghi tên đường phố, quận huyện và tỉnh thành theo đơn vị hành chính hiện nay. Hầu hết đường phố Sài Gòn mang nhiều cái tên khác nhau trong suốt quá trình lịch sử. Cuốn sách hướng dẫn của Tim Doling được nhắc ở trên, sẽ cung cấp đầy đủ lịch sử tên đường ở nơi đây.

Tôi và nhiếp ảnh gia Garel rất biết ơn những người đã hỗ trợ chúng tôi trong việc nghiên cứu và chụp ảnh các công trình trong cuốn sách này. Tôi vô cùng cảm kích kiến trúc sư Lê Thị Trà Giang, người đầu tiên cung cấp tài liệu kiến trúc Việt Nam cho tôi, và cô cũng là người đã khuyến khích tôi thực hiện cuốn sách này. Ngoài ra, kiến trúc sư Đàm Huỳnh Quốc Vũ của công ty Kientruc O cũng đã dành nhiều giờ thảo luận với tôi về kiến trúc hiện đại và bản sắc Việt Nam.

Nhà sử học Tim Doling là nguồn cảm hứng lớn lao khi tôi vinh dự được ông dẫn đi tham quan các công trình trong cuốn sách hướng dẫn về thành phố Hồ Chí Minh và Chợ Lớn vào năm 2012. Tôi hy vọng tác phẩm này có thể được xem như một lời tán dương nho nhỏ về quyển sách uyên bác của ông.

Nhà báo người Mỹ Paul Mooney, người có nhiều năm sinh sống và làm việc ở châu Á đã cần mẫn đọc hết bản thảo này và đưa ra nhiều nhận xét sâu sắc cũng như đề xuất biên tập.

Hai sinh viên kiến trúc Nguyễn Hạnh Uyên và Hoàng Yến Nhi đã đem đến các dịch vụ nghiên cứu vô giá thông qua sự bảo trợ của Quỹ Huỳnh Tấn Phát. Tại đây, tôi đã vinh dự được dẫn dắt một buổi hội thảo hằng tuần dành cho sinh viên nhằm nâng cao kỹ năng thuyết trình cũng như cập nhật các thuật ngữ quốc tế về kiến trúc cùng quy hoạch. Mục đích là để giúp các sinh viên này có cơ hội hợp tác với các chuyên gia thiết kế và xây dựng quốc tế. Tôi đã học hỏi được nhiều điều từ các bạn hơn những gì họ học được từ tôi, bao gồm cả các cuộc thảo luận giúp trau dồi lập luận trong quyển sách này. Giám đốc tổ chức – bà Huỳnh Xuân Thảo, và điều phối viên điều hành – bà Phạm Thụy Thanh Tuyền đã cung cấp các nguồn lực và hỗ trợ để phân công và quản lý các nghiên cứu sinh, cũng như khuyến khích hoàn thành quyển sách này.

Từ cộng đồng học thuật, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn đến Tiến sĩ Harold G. Nelson, đồng tác giả quyển sách Cách thiết kế (The Design Way), vì đã chỉ dẫn tôi hướng đi đúng đắn liên quan đến chủ nghĩa khu vực phản biện (critical regionalism). Tiến sĩ Caroline Herbelin, trợ lý giáo sư lịch sử tại Đại học Toulouse – Pháp, người đã tận tâm trả lời những câu hỏi của tôi về quyển sách lịch sử kiến trúc thuộc địa Pháp và kiến trúc hiện đại của cô, bao gồm cả những thông tin cần thiết về ảnh hưởng của kiến trúc hiện đại tại Việt Nam.

Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến tất cả thành viên “Nhóm Kiến trúc Hiện đại Việt Nam” vì thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, và sau đó là Phó Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quỹ Huỳnh Tấn Phát trao học bổng cho những sinh viên tài năng thuộc chuyên ngành kiến trúc quy hoạch trong khu vực thành phố Hồ Chí Minh, nhằm góp phần tạo nên một thế hệ kiến trúc sư giỏi chuyên môn và có trách nhiệm với cộng đồng – những đóng góp của họ với trang Facebook của nhóm. Sự tham gia của họ trong dự án này đã giúp làm tăng nhận thức và sự nhiệt tình của cộng đồng đối với di sản hiện đại đa dạng của Việt Nam. Một nhà đồng sáng lập của nhóm này, kiến trúc sư Trần Hoành, đã chỉ cho tôi thấy sự khác biệt quan trọng giữa kiến trúc hiện đại Việt Nam thời kỳ hoàng kim và kiến trúc hiện đại đương đại từ năm 1975. Tom Hricko, một nhà đồng sáng lập khác của nhóm, đã luôn động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện dự án sách này. Một thành viên khác của nhóm anh Thanh Nguyen, con trai kiến trúc sư hiện đại Việt Nam tài năng Nguyễn Văn Hoa, là người có trí nhớ đáng kinh ngạc về các công trình kiến trúc và kiến trúc sư miền Nam Việt Nam thời bấy giờ. Chúng tôi đặc biệt biết ơn anh vì đã cho phép chúng tôi xuất bản hai bản vẽ trong bộ sưu tập của cha anh, cũng như một bức ảnh trong đó. Anh cũng ân cần đọc qua bản thảo và đề xuất một số thay đổi hữu ích trong đó. Chúng tôi cũng vô cùng biết ơn kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn, con trai của kiến trúc sư lỗi lạc Ngô Viết Thụ, vì đã cung cấp những thông tin quan trọng về cha mình cùng những công trình của ông. Thành viên Lê Quốc đã phiên dịch và hỗ trợ Alexandre Garel trong suốt quá trình chụp ảnh các tòa nhà.

Với sự hỗ trợ thu thập thông tin về thời điểm xây dựng hay tên tuổi các kiến trúc sư của các thành viên nhóm “Saigon – Chợ Lớn Then & Now” và “Đài Quan sát Di sản Sài Gòn – Saigon Heritage Observatory Group”, chúng tôi xin phép gửi lời cảm ơn đến Tim Doling, người khởi xướng và đồng quản trị các nhóm trên, thay mặt cho các thành viên trong nhóm.

Xin gửi lời cảm ơn đến Brian Letwin, giám đốc điều hành kiêm đồng sáng lập Saigoneer, người ủng hộ nhiệt thành các nhóm Facebook trên, vì đã xuất bản hai bài báo về kiến trúc hiện đại Việt Nam của tôi vài năm trước.

Sẽ có ngày Alexandre và tôi không khỏi hối tiếc khi nhận ra mình đã sơ suất bỏ sót một vài người quan trọng ở mục này vì mải lo cho việc xuất bản tác phẩm đến tay bạn bè, công chúng. Chúng tôi hy vọng đây sẽ là một bước tiến quan trọng ghi nhận thành tựu của người dân miền Nam trong việc phát triển nền kiến trúc hiện đại Việt Nam độc đáo trên thế giới.

Đây là phiên bản thứ ba của quyển sách này. Phiên bản đầu tiên là ấn bản quốc tế được xuất bản dưới dạng sách bìa mềm in màu được xuất bản vào tháng 4 năm 2020. Phiên bản thứ hai được Nhà xuất bản Thế Giới xuất bản dưới dạng sách bìa mềm đen trắng bằng tiếng Anh phát hành vào tháng 5 năm 2020. Phiên bản thứ ba là ấn bản tiếng Việt do Công ty Cổ phần Sách Phương Nam xuất bản vào năm 2022. Một vài thiếu sót cũng đã được sửa chữa, bổ sung trong ấn bản Việt ngữ này.

Mel Schenck
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2021

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC

Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.

Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.

Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.

Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.

Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.

Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.

Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.

Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.

Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.

Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.

Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.

Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.

Đọc bài viết

Trích đăng

Lancaster và York: Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

GIỚI THIỆU

Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.

Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.

Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.

Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.

Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.

Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.

Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.

Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?

Alison Weir

Surrey

tháng Hai 1995

Đọc bài viết

Trích đăng

Vào bếp nấu chè trôi nước ngũ sắc đưa ông Táo về trời – Trích “Thơm thảo xôi chè”

Published

on

Vào ngày 23 tháng Chạp hằng năm, ông Công ông Táo sẽ cưỡi cá chép lên Trời để báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng đế tất cả những điều tai nghe mắt thấy ở trần gian cả việc tốt lẫn việc xấu và những gì chưa làm được. Từ đó, Thiên đình sẽ đưa ra thưởng phạt rõ ràng cho từng gia đình. Xuất phát từ tín ngưỡng đó, lễ đưa ông Công ông Táo về trời (hoặc gọi ngắn gọn là đưa ông Táo về trời) luôn được tiến hành trọng thể.

Trong ngày này, các gia đình thường làm lễ tiễn ông Táo về trời bằng cách thả cá chép. Ngoài ra, mọi người cũng làm mâm cỗ cúng để bày tỏ lòng thành kính với Táo Quân. Trong Thơm Thảo Xôi Chè, nghệ nhân bánh dân gian Trần Thị Hiền Minh đã khéo léo chia sẻ công thức nấu chè trôi nước ngũ sắc, một món ăn vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng và rất thích hợp để bày mâm cỗ cúng ông Táo. Cùng Phương Nam Book tìm hiểu cách làm món này nhé!

CHUẨN BỊ NGUYÊN LIỆU
500g bột nếp
100g khoai lang tím
150g bí đỏ
300g khoai lang trắng
Nước cốt lá dứa, nước lá cẩm
400g đậu xanh bóc vỏ
150g đường cát
10g muối
100ml nước cốt dừa
Phần nước cốt dừa:
300ml nước cốt dừa
700ml nước dão dừa
20g bột gạo
20g bột bắp
5g hành lá
800g đường cát (nấu chè)
150g đường cát (nấu nước cốt dừa)
100g mè trắng
3g muối
100g gừng sẻ

THỰC HIỆN

Sơ chế:
• Mè rửa sạch, rang hoặc nướng trong lò nướng nhiệt 150 độ C đến khi vàng thơm.
• Gừng gọt vỏ, rửa sạch, xắt khoanh mỏng.
• Khoai lang, bí đỏ luộc chín, giã nhuyễn, để riêng từng phần. Chia bột thành 5 phần bằng nhau. Mỗi phần nhồi khoai lang và màu tương ứng cho hòa quyện.
• Dùng nước ấm nhồi với bột nếp đã trộn kỹ theo từng màu, nhồi nhanh tay để bột dẻo. Khi bột gần mịn đều, thêm nước từ từ tránh làm nhão bột, rồi để bột nghỉ 30 phút.
• Đậu xanh vo sạch, ngâm nở 2 giờ, vo lại cho hết nước chua rồi nấu chín, giã nhuyễn. Xào đậu xanh với 100ml nước cốt dừa và 100g đường trên lửa vừa, thêm 10g muối vào cho đậu béo bùi, đậm vị hơn. Khi đậu xanh không dính tay thì tắt bếp, cho hành lá cắt nhuyễn vào trộn đều. Vo viên đậu bằng cỡ trái chanh nhỏ.

Gói viên chè:
• Chia đều bột nếp, mỗi viên khoảng 30g, gói nhân đã chuẩn bị sẵn.
• Bắc nồi nước sôi luộc các viên chè. Khi chín viên chè sẽ nổi lên mặt nước, nấu thêm 2 phút cho viên chè chín kỹ rồi vớt ra ngâm vào nước lạnh.

Nấu chè:
• Cho 2 lít nước vào nồi cùng với 600g đường và vài lát gừng, bắc lên bếp nấu sôi.
• Cho các viên chè vào nồi nấu sôi chừng 5 phút để viên chè thấm đường và vị gừng, nhắc xuống.

Nấu nước cốt dừa:
• Cho nước dão dừa, đường cát, bột gạo, bột bắp, muối và vài cọng lá dứa vào nồi khuấy đều rồi mở bếp ở mức lửa nhỏ, nấu đến khi sôi, khuấy đều tay.
• Tiếp theo chế thêm nước cốt dừa, để hỗn hợp sôi lại, tắt bếp liền.

YÊU CẦU THÀNH PHẨM
• Nước đường trong, ngọt thanh, thơm dịu mùi lá dứa.
• Các viên chè dẻo mềm, không bị nứt hay nhão bề mặt.

Khi ăn, múc chè ra chén, chan nước cốt dừa vào, rắc thêm ít mè rang.

Chè trôi nước ngũ sắc không chỉ đẹp mắt mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự đầy đủ, may mắn và sự hòa hợp của năm mới. Khi thưởng thức, bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt thanh của đường, vị béo của nước cốt dừa và độ dẻo dai của vỏ bánh trôi kết hợp hài hòa với nhân đậu xanh thơm ngon.

Thơm Thảo Xôi Chè là món quà dễ thương dành tặng những ai đam mê nấu nướng bởi nó không chỉ đẹp về hình thức mà còn hấp dẫn về nội dung. Ngoài việc hướng dẫn tỉ mỉ các công thức nấu, tác giả còn khéo léo thuật lại cuộc phiêu lưu ẩm thực qua hành trình tìm kiếm các sản vật quý địa phương. Cuốn sách dù đơn sơ, mộc mạc nhưng đã phần nào truyền tải thành công tình yêu nghề của người đầu bếp và trên tất cả là sự tinh tế của nền ẩm thực nước nhà.

Mời bạn tìm mua sách tại đây. Nếu có làm theo các công thức trong sách thì bạn nhớ chia sẻ cho Bookish biết với nha!

Chúc bạn một mùa Tết bình an và sung túc bên gia đình.

Đọc bài viết

Cafe sáng