Book trailer

Khu rừng trong chai: Ươm mầm tình yêu thiên nhiên cho trẻ

Published

on

Khu rừng trong chai – tác phẩm thiếu nhi mới nhất của nhà văn Huỳnh Trọng Khang truyền tải nhiều thông điệp ý nghĩa hướng đến trẻ em về việc bảo vệ môi trường.

Khu rừng trong chai kể về hành trình phiêu lưu của cậu nhóc An An, bắt đầu từ khi cậu được trao cho một hạt giống lạ. Mang theo giấc mơ về cây đậu thần khổng lồ, An An gieo hạt vào một cái chai thủy tinh. Trong thế giới bao bọc khép kín, hạt giống lặng lẽ nảy mầm, lớn lên, sinh sôi nảy nở tạo nên cả một khu rừng.

Thế rồi gần cả thế kỷ trôi qua, khu rừng trong chai dần rơi vào quên lãng, màu xanh của cây cỏ cũng dần mất đi, giờ đây chỉ còn trơ trọi những tòa nhà chọc trời, khói bụi độc hại, Trái đất chìm trong biển nước ngập mặn, liệu con người sẽ tiếp tục tồn tại như thế nào? Và liệu khu rừng năm xưa trong chiếc chai nhỏ bé sẽ xảy ra điều gì kỳ diệu?

Dạo bước đến Khu rừng trong chai cùng An An, độc giả không chỉ có thể khám phá vẻ đẹp muôn màu, mà còn là sức sống mãnh liệt của tự nhiên, dù bị giam hãm, lãng quên hay hủy hoại đến thế nào vẫn kiên cường gieo mầm hy vọng cho hành tinh xanh mãi.

Thiên nhiên đậm chất thơ và điện ảnh

Qua Khu rừng trong chai, có thể nhận thấy tác giả rất có ý thức trong việc xây dựng tính điện ảnh cho truyện. Tác phẩm mở đầu bằng một cảnh toàn, góc máy từ trên cao cho thấy nắng gắt, mây thưa, trời trong xanh. Sau đó, người đọc như cảm giác được chiều di chuyển chậm xuống phía dưới của máy quay để thấy cảnh lũ trẻ đang chơi bóng. Tiếp đến là âm thanh “ tiếng leng keng của xe kẹo kéo” xuất hiện. Một cảnh mở đầu đơn giản nhưng bài bản và trọn vẹn như một thước phim với đầy đủ hình ảnh, góc máy, âm thanh.

Đặc thù của sách thiếu nhi là câu văn miêu tả phải ngắn gọn, đơn giản; không được có quá nhiều câu phức, trúc trắc, dễ gây khó hiểu cho các bé. Đáp ứng đầy đủ những tiêu chí đó, văn phong trong Khu rừng trong chai đảm bảo yếu tố giản dị, dễ hiểu với độc giả nhỏ tuổi; nhưng đồng thời, vẫn có những liên tưởng, so sánh, nhân hóa mang đậm chất thơ ca để kích thích trí tưởng tượng cho trẻ. Hãy cùng đọc thử câu mở đầu của tác phẩm để cảm nhận rõ điều này: “Nắng lì lợm chưa chịu đi khỏi bầu trời, những đám mây oi nồng bứt rứt giãn nhau ra, để lộ bầu trời trong xanh hơn.” Có thể thấy, tác giả đã mang đến cho thiên nhiên vẻ đẹp thi tính bằng phép nhân hóa, những tính từ diễn tả cảm xúc.

Khu rừng trong chai được viết với kết cấu vòng tròn, thể hiện sự quay ngược thời gian về mặt ý niệm mang lại nhiều cảm xúc: trẻ thơ trở thành người lớn; và rồi, người lớn quay về thời thơ trẻ, như được sống lại lần nữa với hạt giống trong tay, quên đi bộn bề, hòa vào thiên nhiên.

Một thế giới kì lạ đong đầy cảm xúc của trẻ thơ

Thế giới của Khu rừng trong chai là thế giới được nhìn qua cặp mắt đong đầy cảm xúc, sự hiếu kì, và cả những lí giải ngộ nghĩnh của trẻ thơ. Điều đó thể hiện qua cách tác giả miêu tả về hạt giống nảy mầm:

“Trong chai, hạt giống giờ đã bớt bỡ ngỡ, mở mắt trông lên cái thành thủy tinh giờ là vòm trời của nó. Mà cái nóng cũng làm nó thao thức không ngủ được. Nó bức bối lột dần lớp áo chật chội khó chịu để lộ hẳn ra một mầm xanh lục hoàn hảo.”

Hoặc, qua cái nhìn về chiếc tàu hỏa giống như con bò rừng – hai đối tượng tưởng chừng chẳng có gì tương đồng nhưng qua sự liên tưởng của Huỳnh Trọng Khang khi hóa thân thành cậu bé An An thì ta có một câu so sánh thú vị, bất ngờ:

“Chỉ biết nó cứ chạy qua đây, ồn ào như con bò rừng bị cây lá quất roi, tăng hết tốc lực, phóng bạt mạng về phía trước.”

Bên cạnh đó, trong cách dựng hình ảnh của tác giả cũng có sự hài hước ở một số phân đoạn. Chẳng hạn như, đoạn mô tả An An cầm chiếc bình khổng lồ. Cái bình quá lớn khiến cậu bé như bị đồng hóa thành chính nó. Từ đây, tác giả triển khai cách miêu tả thú vị: không phải là miêu tả về một cậu bé đang khệ nệ khiêng chiếc bình nữa, mà là miêu tả về chiếc bình khổng lồ kì lạ, có những chi tiết nhỏ thừa ra bên ngoài giống như thuộc về một đứa trẻ.

Ba đón lấy cái bình, có vẻ khá nặng, như thế thì sẽ không dễ dàng rơi vỡ. Ba đưa cho An An ôm thử. Một lúc sau, người đi đường nhìn thấy một cái bình thủy tinh mọc ra đôi chân khẳng khiu đang khó nhọc lê bước. Cái bình vòng tay ôm bụng hệt như bà chửa. Chốc chốc, người đàn ông đi cùng lại cúi xuống thầm thì:

“Được không con?”

Cái binh hồn hển trả lời bằng một giọng trẻ con: “Nặng… nhưng… được!”

Nỗi bâng khuâng về tình trạng đô thị hóa lấn chiếm không gian xanh

Khu rừng trong chai không đơn thuần phản ánh xu hướng trồng cây trong chai đang thịnh hành của giới trẻ, giới văn phòng để môi trường công sở có thêm màu xanh. Thực tế, sự lựa chọn không gian để hạt giống sinh sống cũng phần nào mang tính ẩn dụ. Trong truyện, việc chăm sóc hạt giống để hạt ươm mầm, nở thành cây của cậu bé An An không hề dễ dàng mà gặp vô vàn thử thách. Hạt giống liên tục phải di cư sang nhiều “ngôi nhà” khác nhau: đầu tiên là mảnh vườn trước sân nhà An, rồi đến chai thủy tinh có nút bần; cuối cùng, nó chỉ có thể yên vị khi được trồng trong một cái bình khổng lồ. Vốn dĩ, vị trí ban đầu (mảnh vườn trước sân nhà) mới là không gian lí tưởng nhất cho hạt giống; nhưng rồi, để tránh chuyện bị ngoại cảnh tác động, hạt giống lại được trồng trong một không gian bó hẹp, khép kín. Tình tiết này cho thấy rằng rằng việc giữ gìn môi trường xanh, không gian cho cây cối trong đời sống tăng trưởng với tốc độ nhanh chóng khi nông thôn dần bị đô thị hóa là điều rất khó khăn.

Những hạt giống tràn ngập màu sắc là một trong những yếu tố mĩ thuật chủ đạo, thường xuyên được lặp lại trong nhiều tranh vẽ của Khu rừng trong chai. Quyển sách được in màu, bìa cứng dày dặn cùng hiệu ứng kim tuyến lấp lánh, tặng kèm 2 Bookmark ngộ nghĩnh và 3 Postcard xinh xắn khi mua sách.

Một quyển tranh truyện đầy sắc màu, hình ảnh dễ thương bắt mắt cùng câu chuyện hấp dẫn kì lạ, chắc hẳn sẽ lôi cuốn không chỉ các bạn đọc nhỏ tuổi mà ngay cả những bạn trẻ, các bậc phụ huynh cũng sẽ cảm thấy vô cùng thú vị và hào hứng khi theo dõi Khu rừng trong chai.

Trích đoạn

Bên trong bình thủy tinh lúc này đã ngập tràn sắc xanh của cây, những cái rễ bò lan dưới đáy, những cành nhánh xanh ri tỏa bóng. Ở trong bình, chúng tự quang hợp, hô hấp tạo thành những làn hơi nước mờ đục bám kín phía trên miệng bình như những cụm mây nhỏ. Và biết đâu chừng từ đó những hạt mưa li ti đã âm thầm rơi xuống tưới tắm lại cho khu rừng bên dưới. Một khu rừng tí hon không có tiếng chim hay tiếng sột soạt của những loài gặm nhấm nhỏ bé, nhưng bốn mùa trong bình còn rõ ràng hơn bên ngoài.

***

Thi thoảng An bắt gặp những quả nhỏ đỏ như kẹo ngọt, mọc đầy, rồi lại rụng xuống, hòa cùng thảm lá mục thành phân bón đất. Chúng sống và chết rồi lại tái sinh, không hay biết gì về thế giới bên ngoài bình, một thế giới với các tòa nhà cao tầng ngày một lúc nhúc như nấm mọc sau mưa, một thế giới bị bủa vây bởi tiếng ồn của động cơ xe máy, ô tô nhưng tuyệt nhiên đã vắng tiếng xình xịch của tàu hỏa. Không hiểu vì sao đoàn tàu bị bỏ hoang và nằm lại bên bìa rừng. Giờ đây chỉ còn đám trẻ con hay lên đó chơi và chim chóc vẫn thường về làm tổ. Đoàn tàu nằm dài như một con rồng mệt mỏi ngủ say bên cánh rừng dần dần hoang tàn.

***

Họ sẽ học bài học về tình yêu Trái đất này, rằng cho dù có bị hủy hoại đến đâu, chỉ cần một mầm xanh còn tồn tại, thì hành tinh vẫn sẽ còn cơ hội. Những đứa trẻ sẽ học bài học kiên cường từ những hạt mầm của khu rừng trong chai kỳ lạ, dù trong môi trường khép kín vẫn giữ được màu xanh tuyệt diệu. Và đến lượt mình, các em sẽ tự cầm những hạt giống trong tay và dựng xây những khu rừng tí hon như thế. Mà hàng triệu, hàng triệu khu rừng tí hon khi kết lại với nhau sẽ trải thành những vạt rừng xanh bất tận, như thế giới chưa từng có chuyện gì xảy ra.

Về tác giả

Huỳnh Trọng Khang

Sinh năm 1994, Huỳnh Trọng Khang là một trong những cây bút trẻ được kỳ vọng sẽ tạo “nội lực” cho thể loại tiểu thuyết. Năm 2016 anh cho ra mắt Mộ phần tuổi trẻ và một năm sau đó, đã được vinh danh tại giải Sách hay, hạng mục Phát hiện mới vào năm 2017.

Kể từ thành tích đã đạt được đó, mỗi năm anh đều cho ra những tác phẩm ấn tượng, có thể kể đến như Những vọng âm nằm ngủ (2018), Phật trong hẻm nhỏ (2020) và Bể trăng côi (2023). Ngoài tiểu thuyết, anh cũng chắp bút cho nhiều tác phẩm hướng đến thiếu nhi, như tập thơ Mephy! Mephy! hay truyện dài Bơ không phải để ăn, mới đây nhất là Khu rừng trong chai.

Nguyễn Nhân

  • Họa sĩ 9x tại Tp. HCM.
  • Đam mê minh họa sách thiếu nhi.
  • Thích trồng cây như An An của Khu rừng trong chai, đang có một khu vườn… toàn sen đá.
  • Gmail: nhan.illusart@gmail.com

Book trailer

Niên lịch miền gió cát bàn cách sống hòa hợp thiên nhiên

Published

on

Sách Niên lịch miền gió cát là ghi chép của Aldo Leopold - nhà sinh thái học hoang dã - về các con người tôn trọng thiên nhiên.

Aldo Leopold là nhà địa chất học, nhà môi trường học. Năm 1935, gia đình ông mua một trang trại cũ gần sông Wisconsin (Mỹ), trồng cây và cứu sống cánh đồng đã chết. Ông ghi nhận những thay đổi của sinh, thực vật trong quá trình phục hồi. Các bản thảo sau đó được tập hợp thành quyển Niên lịch miền gió cátxuất bản tháng 4/1948, một tuần sau khi tác giả mất do đau tim.

Niên lịch miền gió cát do Dương Mạnh Hùng chuyển ngữ. Sách Phương Nam phát hành. Ảnh: Phương Nam Book.

Sách gồm ba phần. Phần một là quan sát sinh vật thay đổi theo từng tháng tại trang trại ở Wisconsin. Phần hai là ghi chép hành trình khám phá đời sống hoang dã của ông trong 40 năm. Phần cuối là nhận định về việc bảo tồn thiên nhiên. Thông qua thể văn xuôi đậm chất hóm hỉnh kết hợp yếu tố lịch sử, khoa học, Leopold truyền tải ý nghĩa về mối liên hệ giữa con người với môi trường, hy vọng độc giả yêu, tôn trọng thiên nhiên.

Ông đề ra đạo đức môi trường tự nhiên (land ethic): "Một hành động là đúng đắn là khi hướng tới bảo tồn tính toàn vẹn, ổn định của cộng đồng sinh vật". Leopold viết: "Con người sẽ có ý thức bảo tồn khi tiếp xúc, hiểu, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên". Khi sống gần các sinh, thực vật, mỗi người sẽ hình thành đạo đức - cơ chế tự kiểm duyệt trước khi hành động tổn hại môi trường. Con người cần khám phá, kết nối với tự nhiên để có lòng yêu thương, quan tâm thế giới tạo hóa ban tặng.

Theo Buddy Huffaker, chủ tịch của Aldo Leopold Foundation (tổ chức nâng cao ý thức bảo vệ môi trường dựa trên lý luận của Leopold): "Nhờ lập luận về đạo đức môi trường tự nhiên nên Niên lịch miền gió cát được săn đón vào năm 1970 - lần đầu tiên tổ chức Ngày Trái đất. Các ghi chép về đạo đức của tác giả được áp dụng rộng rãi và vô tình trở thành chuẩn mực ứng xử với thiên nhiên". The Boston Globe nhận định sách là "một trong những tác phẩm có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào môi trường".

Aldo Leopold là nhà khoa học, nhà địa chất học, nhà triết học, nhà môi trường học người Mỹ. Ảnh: aldoleopold.

Aldo Leopold (1887-1948) trải qua thời thơ ấu tại Burlington, gần dòng sông Mississippi - nơi dấu chân của ông trải khắp các khu rừng, đồng cỏ. Leopold học lâm nghiệp tại trường dạy về rừng của Yale. Sau khi tốt nghiêp năm 1909, ông làm việc tại Cục Kiểm lâm Mỹ, đồng thời nghiên cứu sinh thái học, đề ra đạo đức môi trường tự nhiên. Năm 1933, tập sách về quản lý động vật hoang dã Game Management được xuất bản. Năm 1982, vợ và năm người con thành lập The Aldo Leopold Foundation nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường hoang dã dựa trên di sản trí tuệ tác giả để lại.

Theo VNexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển về nỗi buồn

Published

on

Người đẹp ngủ mê của nhà văn Nhật Kawabata Yasunari khắc họa nỗi buồn qua những suy nghĩ về sự sống và hoài niệm.

Người đẹp ngủ mê do dịch giả Quế Sơn chuyển ngữ, tái bản trong nước cuối tháng 11. Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1961, dựa trên kịch bản sân khấu kabuki Những mỹ nữ, công diễn vào khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước cuối tháng 11. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước. Ảnh: Phương Nam Book

Tác phẩm xoay quanh năm lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà của những trinh nữ xinh đẹp tuổi chưa đầy 20. Họ bị gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, khỏa thân trong tình trạng ngủ say. "Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây 'giống như ngủ với một ông Bụt vô hình'. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được", tác giả viết.

Mỗi chương là một lần Eguchi đến ngôi nhà ngủ cùng cô gái khác nhau. Khi màn đêm buông xuống, nhiều tiếng động kết hợp tạo nên bản nhạc của thiên nhiên, con người. Hơi thở của những cô gái, cộng với tiếng gió thổi qua mái nhà và âm thanh sóng biển đập vào vách đá. Từ đó, Eguchi hồi tưởng quá khứ, nhớ về những người đàn bà đi qua đời ông.

Tác giả lấy những hoài niệm để ẩn dụ cho sự tiếc nuối vẻ đẹp văn hóa Nhật Bản. Kỷ niệm tái hiện qua không gian, hình ảnh thiên nhiên xung quanh ngôi nhà của các mỹ nữ. Việc ngủ cạnh những cô gái khiến Eguchi khám phá nhiều cung bậc cảm xúc, đồng thời nhận ra sự cô đơn của mình. "Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông", Kawabata viết.

Tác phẩm không chỉ tràn ngập những mỹ từ, như "bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ", mà còn suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai. Đời sống xã hội mang nhiều tổn thương, khiến con người dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, tiếc nhớ những tháng ngày quá khứ.

Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book

Càng về cuối, Kawabata càng đào sâu ký ức của nhân vật chính, nhằm giúp Eguchi tìm lại được cảm xúc thuần túy nhất. Eguchi tin những lão già như mình, khi có dịp trú ngụ tại ngôi nhà của các mỹ nữ, không chỉ nhìn lại thời trai trẻ mà cố quên đi những việc tiêu cực xảy ra trong cuộc đời. Từ khía cạnh này, Eguchi liên tưởng những người đẹp ngủ mê là hiện thân của thần tiên trong các truyền thuyết.

"Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin", Kawabata nhận định.

Trong một số tác phẩm, Kawabata thường lồng ghép quan điểm của mình để gợi nhớ cuộc sống mồ côi và những khó khăn thời trẻ tuổi trẻ. Đồng thời, nhà văn để lại nhiều khoảng trống để độc giả tự khám phá. Bằng sự khéo léo biến hóa ngôn từ, Kawabata dẫn dắt người đọc qua nhiều tình huống, tạo nên cảm nhận khác nhau khi đọc tác phẩm.

Tác phẩm được giới chuyên môn và nhiều độc giả đánh giá cao. Năm 1968, Người đẹp ngủ mê giúp Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Đại diện Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận xét: "Tác giả tôn vinh cái đẹp hư ảo, đồng thời khắc họa nỗi buồn hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và định mệnh con người".

Trên trang đánh giá sách Goodreads, độc giả Jim Fonseca viết: "Những dòng văn mở đầu câu chuyện góp phần che đậy nỗi khao khát và ký ức tình yêu trong quá khứ của nhân vật. Tác phẩm có chút kinh dị nhưng hấp dẫn, khắc sâu vào tâm trí tôi".

Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh
Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh

Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên hai tuổi. Từ đó, ông và người chị ruột sống cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Qua thời gian, những sáng tác văn chương, tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata vẫn luôn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu văn học khắp thế giới, do phản ánh nhiều phương diện văn hóa và đề cao tinh thần người Nhật. Nhiều tác phẩm của Kawabata từng xuất bản trong nước, gồm: Đẹp và buồnHồTiếng núiXứ tuyếtBồ công anh.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Đường xưa mây trắng là tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cuốn sách kể về cuộc đời Đức Phật, mà ai đọc vào cũng cảm nhận được điều hay lẽ phải. Giáo lý nhà Phật được tác giả phân tích dễ hiểu, dễ nắm bắt.

Thầy Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại Huế). Ông là Thiền sư nổi tiếng người Việt Nam. Ông hiện là nhà sư có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo trên toàn thế giới. Không những là nhà tu hành, Thích Nhất Hạnh còn hiện diện là một nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu. Đến nay, ông đã viết được hơn 100 cuốn sách.

Hầu như tác phẩm nào của ông cũng gây được sự chú ý không chỉ ở những người theo Phật giáo, mà ở nhiều độc giả, ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, tôn giáo khác. Tác phẩm Đường xưa mây trắng của Thầy Thích Nhất Hạnh có thể được coi như là một cuốn tiểu thuyết về cuộc đời Đức Phật, mà trong sách, tác giả gọi là Bụt. Bụt là phiên âm từ âm Buddha trong tiếng Phạn.

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Cuộc đời Đức Phật được kể qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất gia, trở thành một vị đệ tử của Phật. Svasti từng cúng dường cỏ bồ đề cho cho Đức Phật suốt 49 ngày trước khi thành đạo. Đây có thể là góc nhìn khác lạ của tác giả so với nhiều người kể về Đức Phật.

Qua đôi mắt đứa trẻ, mọi sự vật, sự việc sẽ được kể chân thật, hồn nhiên, không có gì phải giấu diếm. Đức Phật hiện diện lên trước hết, không phải là một thần linh, mà là một con người giản dị, có cuộc sống và mơ ước như bao người. Mơ ước của Đức Phật là làm lợi cho muôn loài.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tác phẩm Đường xưa mây trắng được chia làm 81 chương, trong mỗi chương là những cảnh xưa, người xưa được hiện diện lên sống động. Giáo lý nhà Phật được nói dễ hiểu, gọn gàng. Những tập tục của người xuất gia xưa, hay cách quán thiền cũng được tác giả lồng ghép vào khéo léo.

Câu chuyện diễn ra tự nhiên, không có một gượng ép nào. Tác giả cho thấy sức tưởng tượng thiên tài của mình, người đọc có thể tưởng rằng, tác giả phải là người sống bên cạnh Đức Phật mới có thể viết tỉ mỉ, lý thú như vậy, nếu như không đọc tên người viết.

Tâm sự về cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng viết: “Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường xưa mây trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường xưa mây trắng với rất nhiều hạnh phúc.

Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá. Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ cho ba anh em ông Ca Diếp.

Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài, nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chắc là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công. Chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Ngài đã thành Phật rồi, Ngài đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình thì Ngài vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của các em.

Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công. Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh”.

Một trích dẫn hay trong tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Đường xưa mây trắng được biết đến là cuốn sách đã bán được nhiều triệu bản, được dịch ra hơn 20 tiếng trên thế giới. Sau khi đọc được cuốn sách này, nhà tỉ phú Ấn Độ Bhupendra Kuman Modi đã quyết định tài trợ 120 triệu USD để các nhà làm sản xuất dựa theo Đường Xưa Mây Trắng dựng thành phim.

Qua cuốn sách Đường xưa mây trắng, thầy Thích Nhất Hạnh đã vẽ lại phần nào khung cảnh xưa: “Trong bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc tron những chiếc am lá nhỏ đựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh”.

Đọc cuốn sách này, chúng ta học được nhiều điều hay của Đức Phật, đó là cách nói chuyện, cách hành động, cách lý giải cuộc sống. Và đặc biệt, là cách quán thiền, cách tĩnh tâm trước những biến động của đời người.

Theo báo Pháp luật

Đọc bài viết

Cafe sáng