Book trailer

Khát khao cây cỏ: Mối quan hệ tương hỗ giữa con người và thiên nhiên dưới góc nhìn thực vật

Published

on

khat-khao-cay-co

Dưới ngòi bút cô đọng, trang nhã của Michael Pollan, tác phẩm Khát khao cây cỏ (Phương Nam Book, NXB Thế Giới) đã trình bày nhiều kiến thức khoa học chuyên sâu và những tham khảo đa ngành sống động. Tất cả đều góp phần soi sáng quan điểm cốt lõi của ông, đó là: con người và thiên nhiên luôn gắn liền với nhau trong sự tiến hóa chung của dòng chảy lịch sử tự nhiên.

Tác phẩm Khát khao cây cỏ mang tầm nhìn bao quát, nêu bật quá trình đồng tiến hóa của chúng ta đã len lỏi vào thiên nhiên. Bốn ham muốn của con người thể hiện qua bốn loài thực vật, đó là: vị ngọt trong câu chuyện về cây táo, tình yêu cái đẹp dành cho hoa tulip, ham muốn sự say sưa (thoát tục) ẩn chứa trong cây cần sa, khả năng kiểm soát thông qua cây khoai tây. Đọc những lời văn của Michael Pollan, bạn sẽ nhận thấy rằng cây cối không chỉ là giống loài của rừng rậm hoang sơ, mà còn là sinh vật gần gũi, có thể điều khiển cảm xúc con người.

Mối quan hệ tương hỗ giữa con người và thiên nhiên từ góc nhìn thực vật

Từ xưa đến nay, cây cối và con người luôn học cách tương hỗ nhau: Mỗi bên thực hiện cho bên còn lại những điều tự thân không thể làm, và quá trình thương thảo ấy đã biến đổi cũng như cải thiện số mệnh chung của cả hai. Mở đầu chương 1, Michael Pollan ngược dòng ngược thời gian và chia sẻ với độc giả câu chuyện về người nông dân huyền thoại nước Mỹ – John Chapman, ông đã gieo trồng những cây táo – loài thực vật đại diện cho vị ngọt trong quần thể cây cối.

John Chapman sống từ cuối thế kỷ 18 đến thế kỷ 19, là một nhà cách mạng và đồng thời cũng là một người làm vườn. Ông được ca ngợi vì có nhiều đức tính tốt, và niềm đam mê bất tận với nhiều chủng loại táo khác nhau. Được mệnh danh là người nông dân tiên phong gieo trồng táo, những năm 1830, John Chapman đã đi chu du và vận hành một chuỗi vườn ươm hạt táo trải dài khắp các bang nước Mỹ từ bắc Pennsylvania, qua miền trung Ohio, đến tận Indiana. Ông già chân đất với bộ trang phục vải bố đã qua đời vào năm 1845, để lại khối tài sản kếch xù.

Từ câu chuyện về nhân vật huyền thoại John Chapman, tác giả Michael Pollan đã diễn tả đậm nét những đặc điểm sinh học tiến hóa của cây táo – vị ngọt. Ông có đoạn viết: “Bằng cách bao bọc hạt trong lớp thịt quả ngọt ngào giàu dinh dưỡng, những cây ăn trái như cây táo đã khéo léo lợi dụng việc mê vị ngọt của các loài thú có vú để đổi lấy đường trong quả. Các loài thú đã vận chuyển hạt đi xa, giúp mở rộng biên độ lãnh thổ của cây táo. Sự hợp tác trong cuộc thương thảo lớn nhằm cùng nhau tiến hóa, các loài thú mê ăn ngọt và những loài cây cho ra quả to, ngọt đã sánh vai nhau nhân giống, phát triển, tiến hóa thành những giống loài như ngày nay, trong đó có cả loài người chúng ta”.

Trong tác phẩm Khát khao cây cỏ của Michael Pollan, cây cối và con người được đặt trong mối quan hệ phụ thuộc đôi bên. Trước khi đưa ra kết luận này, tác giả chỉ ra rằng, chúng ta thường chia thế giới thành chủ thể và mục tiêu. Và trong khu vườn, cũng như tự nhiên nói chung, loài người thường giữ vai trò chủ thể. Ngay cả trong ngôn ngữ mà chúng ta dùng để miêu ta mối quan hệ này cũng rất rõ ràng: tôi chọn cây, tôi nhổ cỏ, tôi thu hoạch. Nhưng theo Michael Pollan, con người cũng như các loài động vật khác, khi xét trong mối quan hệ đối với cây cối thì đều có tính chất đồng tiến hóa, tương hỗ lẫn nhau.

Khát khao cây cỏ, tác giả Michael Pollan đã so sánh mối quan hệ đồng hưởng lợi giữa con người và các loài thực vật cũng có phần tương tự như mối quan hệ giữa con ong và loài hoa. Ong thu phấn hoa để làm mật, cùng lúc đó gieo rắc phấn đến các nơi khác, giúp cây mẹ duy trì nòi giống. Bắt nguồn từ ý tưởng này, tác giả kết nối các nhu cầu, cũng là ham muốn chính yếu của con người: vị ngọt, cái đẹp, say sưa và kiểm soát – với những loài cây có thể thỏa mãn các nhu cầu ấy: cây táo, hoa tulip, cây cần sa và cây khoai tây.

Bằng cách kể câu chuyện về bốn loài thực vật này, Michael Pollan cho thấy cây cối đã cố gắng tiến hóa như thế nào để đáp ứng các nhu cầu căn cốt của con người. Về phía con người, nhờ được hưởng lợi từ cây mà càng ra sức nhân giống, giúp cây phát triển thuận lợi. Như vậy, câu hỏi đặt ra là, trong mối quan hệ giữa người và cây – ai mới là kẻ nắm giữ vai trò chủ chốt, và ai đã thực sự thuần hóa ai?

Đáp án của Michael Pollan là: “Tôi nhận ra rằng vấn đề giữa tôi và củ khoai đang trồng cũng chẳng khác là bao nhiêu. Cả hai đều là cộng sự trong mối quan hệ đồng tiến hóa, và vẫn luôn như thế kể từ buổi bình minh của nền nông nghiệp từ 10.000 năm về trước”.

Xuyên suốt quyển sách, Michael Pollan gợi ý những phương thức để con người có thể bày tỏ lòng quý trọng với tự nhiên. Vì chỉ có như thế, ta mới đủ rung động để cảm nhận được những thanh âm, sắc màu, hương vị đẹp đẽ muôn hình vạn trạng của cuộc đời. Sức sống của cây cối, những kết nối tuyệt diệu, giúp chúng ta biết cách sinh tồn trong nhịp điệu hài hòa giữa các mối quan hệ bắt nguồn từ bản chất cốt lõi và vẻ đẹp của cuộc đời

Con người có thể kiểm soát thiên nhiên hoang dã, nhưng tính hoang dã thì không

Trong chương 4 có tiêu đề là Ham muốn kiểm soát, Michael Pollan đã chỉ ra mặt trái của nông nghiệp biến đổi gene. Tác giả dẫn chứng rằng, hơn 20 triệu héc-ta đất nông nghiệp ở Mỹ đã được dùng để trồng hoa màu biến đổi gene, chủ yếu là bắp (ngô), đậu nành, bông và khoai tây. Tất cả đều được biến đổi để sản sinh ra chất diệt côn trùng, kháng thuốc diệt cỏ. Trong tương lai gần, chúng ta sẽ nhìn thấy giống khoai tây được biến đổi gene để hút ít dầu mỡ hơn khi rán, giống ngô chịu hạn, giống cỏ phủ vườn không cần cắt xén, giống gạo vàng giàu vitamin A, giống chuối và khoai tạo ra nguồn vaccine…

Khi con người tiến đến mục tiêu ham muốn kiểm soát trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, họ đã tạo nên một sự hỗn loạn mới. Thiên nhiên hoang dã có thể kiểm soát nhưng tính hoang dã thì không. Mỗi lớp đất cày xới lại nảy sinh một loài cỏ dại mới, mỗi loại thuốc trừ sâu lại kích thích sự kháng cự của sâu bệnh. “Nông nghiệp về bản chất là sự tinh giản đến thô bạo, thâu vén thiên nhiên hỗn tạp thành thứ nằm trong tầm kiểm soát; bắt đầu từ việc lọc ra một số ít giống cây để trồng thành luống đều đặn”, tác giả Khát khao cây cỏ viết.

Tự nhiên có tiếng nói đầy quyền năng. Và tự nhiên không tồn tại riêng lẻ. Cây, cỏ, đất, nước, không khí, hệ sinh vật, phân bón, chất mùn, nấm… và con người nói chung lẫn người làm vườn nói riêng đã liên kết lại với nhau một cách tinh tế và kỳ diệu để tạo nên những bông hoa tinh khôi, những luống rau xanh tươi, các loại hoa quả ngọt… Và từ đó, mỗi chúng ta vừa làm vườn, vừa quan sát lắng nghe để góp vào một đôi tay hỗ trợ phục hồi hệ sinh thái bền vững.

Michael Pollan cũng chia sẻ những năng lượng tích cực từ việc tự trồng khoai tây tại vườn nhà của mình rằng: “Tôi yêu phút giây đầu tiên khi vừa xới đất, trông thấy những củ khoai màu nâu sáng lăn mình khỏi lớp đất đen. Sau khi đã nhặt hết những củ dễ thu hoạch nằm ở lớp đất trên, bạn nên để xẻng qua một bên. Nếu đào không cẩn thận bạn sẽ xắn xẻng và làm nát những củ mọc sâu bên dưới. Hãy đào lên bằng tay, thọc những ngón tay vào sâu trong thớ đất mịn, cảm nhận những hình khối ngủ yên trong lòng đất. Việc ngửi một củ khoai tây sống cũng chính là cách ta đánh dấu đường biên giữa tính thuần hóa và tính hoang dã”.

Sự sinh tồn của cây cỏ là thứ ngọt ngào nhất, đẹp đẽ nhất, hay gây say mê nhất – một sự cho và nhận giữa ham muốn của con người và các cá thể trong vũ trụ thực vật. Quá trình này đòi hỏi cả hai bên cùng tham gia, mặc dù vô thức hay ý thức, con người và thiên nhiên luôn “cùng hội cùng thuyền”, gắn bó với nhau trong sự tiến hóa chung của dòng chảy lịch sử tự nhiên. Michael Pollan tâm sự: “Tôi hy vọng rằng, khi gấp cuốn sách này, bạn sẽ nhìn những thứ ngoài kia theo cách khác đi, cụ thể, khi bạn nhìn thấy một cây táo bên đường hay một bông hoa tulip trên bàn, chúng sẽ không còn xa lạ hay tách biệt nữa. Việc nhìn chúng như đồng đội sẵn lòng cùng nhau phát triển đồng nghĩa với việc ta tự nhìn mình khác đi: Con người cũng là đối tượng chịu ảnh hưởng của những ham muốn và dự định của loài khác…”.

Trích đoạn

“Chúng ta đã đối xử tử tế với hoa. Đổi lại, hẳn ta nhận được thú vui về giác quan, nguồn dinh dưỡng từ quả và hạt, và một bầu trời mới các ẩn dụ thi ca. Nhưng khi nhìn sâu hơn vào một bông hoa chớm nở, ta tìm thấy nhiều hơn thế: Lò luyện cái đẹp, nếu không nói là nghệ thuật, thậm chí thi thoảng là cái nhìn thoáng qua về bản chất cuộc sống. Khi ngắm một bông hoa, bạn thấy điều gì? Hãy nhìn sâu vào bản chất hai mặt của tự nhiên – năng lượng cạnh tranh giữa sự sáng tạo và phân hủy, xu hướng tìm đến hình thái phức tạp và lực kéo hướng tới sự giản đơn.”

“Chỉ những bông hoa khỏe nhất mới nở tưng bừng nhất và có mật ngọt nhất, qua đó đảm bảo lượng ong ghé thăm đông nhất – nên cũng có số lần thụ phấn và sinh sản cao nhất. Theo cách hiểu ấy, hoa vẫn chọn ‘bạn tình’ dựa trên sức khỏe, chỉ là thông qua trung gian loài ong mà thôi.”

“Bước chân vào vườn hoa, thậm chí chỉ là một bãi cỏ hoa nở rộ, là khung cảnh thay đổi ngay tức khắc. Này, chuyện gì đang xảy ra ở đây vậy? Có cái gì đó mà ngay cả con ong hay chú bé khù khờ nhất cũng nhận ra, một cái gì đó đặc biệt. Ta tạm gọi cái gì đó là sự khuấy động của cái đẹp. Cái đẹp trong tự nhiên thường song hành với tính dục – hãy thử nghĩ đến bộ lông của chim chóc hay nghi thức giao hợp của thế giới loài vật.”

“Làm thế nào ta phân biệt được những cây nguy hiểm và cây nuôi sống chúng ta? Vị giác là gợi ý đầu tiên. Những cây nào không muốn bị con vật khác ăn sẽ tiết ra chất alkaloid đắng ngắt; tương tự, những cây muốn bị ăn như cây táo sẽ tạo ra một lượng đường dồi dào trong lớp thịt quả.”

“Vị ngọt là thứ đam mê khởi phát nơi đầu lưỡi nhờ vào vị giác, nhưng nó không dừng lại ở đó. Hoặc chí ít nó đã không dừng lại ở đó, vào cái thời mà việc thưởng thức vị ngọt đặc biệt đến nỗi cụm từ đó trở thành ẩn dụ cho cái gì đó hoàn hảo.”

Đánh giá về sách

“Dưới ngòi bút có đọng, trang nhã của Pollan, các kiến thức khoa học chuyên sâu và những tham khảo đa ngành trở nên sống động hơn bao giờ hết. Tất cả đều góp phần soi sáng quan điểm cốt lõi của ông, đó là con người và thiên nhiên ‘mãi luôn cùng hội cùng thuyền’”Publishers Weekly

“… Vốn tri thức sâu rộng, tài nắm bắt nhanh nhạy về sinh học tiến hóa và thêm chút cá tính nổi loạn đã thúc đẩy Pollan ‘đào bới’ những quan điểm đầy mâu thuẫn. Ông cũng có lối viết thật lung linh, sắc bén và biệt tài tìm kiếm lời trích dẫn hoàn hảo tại nhiều nơi chốn lạ lùng…” –  The New York Times Book Review

“Pollan là người làm vườn và nhà văn tài hoa. Ông trình bày quan điểm từ góc nhìn của cây cối, đồng thời thách thức một số giả định căn bản nhất của tôi về việc làm vườn, đặc biệt là việc liệu tôi kiểm soát cây hoa ly mình trồng hay ngược lại. Pollan đã giúp tôi thoát khỏi sự ngu muội của chủ nghĩa lấy con người làm trung tâm” – The Wall Street Journal

“Một quyển sách bạn chẳng thể đặt xuống, sẽ tháo gỡ những vướng mắc về tác động của chính trị xã hội, kinh tế và lịch sử đến quá trình trồng trọt bốn loại cây. Pollan thật sự là bậc thầy khám phá mối quan hệ, có thể tìm thấy điểm liên hệ giữa các khía cạnh riêng biệt trong công việc làm vườn phức tạp, kể cả chúng thuộc lĩnh vực chính trị, văn học, kinh tế xã hội, thậm chí là tính dục” – Chicago Tribune

Về tác giả

Tác giả Michael Pollan. Ảnh: azcentral

Michael Pollan là tác giả của bảy đầu sách nổi tiếng bao gồm Cooked, Food Rules, In Defense of Food, The Omnivore’s DilemmaThe Botany of Desire… hầu hết đều lọt vào danh sách bán chạy nhất của tạp chí New York Times. Ngoài vai trò cộng tác viên lâu năm của New York Times, ông còn dạy viết văn tại Đại học Harvard và Đại học California, Berkeley.

Năm 2010, tạp chí Time đã vinh danh ông là một 100 người có sức ảnh hưởng nhất thế giới.

Book trailer

Giải mã hạnh phúc – Thoát khỏi “cạm bẫy” cuộc sống hiện đại bằng trí tuệ cổ đại

Là một trong những tác phẩm được đánh giá cao nhất của giáo sư tâm lý học Jonathan Haidt, Giải Mã Hạnh Phúc không đơn thuần luận bàn về khái niệm “hạnh phúc”. Sách là cuộc đối thoại giữa những chân lý cổ đại và các nghiên cứu khoa học hiện đại, nơi người đọc được mời gọi khám phá lại ý nghĩa đích thực của cuộc sống.

Published

on

Hạnh phúc, dù là mục tiêu phổ quát, lại thường được bàn đến như một khái niệm cảm tính, mơ hồ và thiên về trải nghiệm cá nhân. Trong sách Giải Mã Hạnh Phúc, Jonathan Haidt tiếp cận đề tài này bằng một hướng đi đặc biệt: ông tìm về những chân lý cổ xưa đã được lặp đi lặp lại xuyên thời gian – văn hóa, nhằm chiêm nghiệm và kiểm chứng bằng lăng kính của khoa học hiện đại.

Sách bàn về mười “Ý tưởng tuyệt vời nhất” – những nhận thức, châm ngôn hay triết lý từng xuất hiện từ Ấn Độ đến Hy Lạp cổ đại, từ Đức Phật đến Benjamin Franklin... Với mỗi ý tưởng, Haidt vừa thể hiện sự tôn trọng đối với trí tuệ cổ xưa vừa duy trì tinh thần biện chứng của một nhà khoa học: liệu điều này có còn đúng và phù hợp trong bối cảnh ngày nay?

Cái tôi chia đôi – Người cưỡi voi và Con voi (Rider & Elephant)

Một trong những ẩn dụ trung tâm và giàu sức gợi nhất trong Giải Mã Hạnh Phúc là hình ảnh người cưỡi voi (rider) và con voi (elephant), tượng trưng cho hai phần trong chính mỗi con người. Người cưỡi voi đại diện cho lý trí có ý thức, còn con voi là bản năng – cảm xúc – thói quen vận hành theo cơ chế tự động. Nếu người cưỡi không biết cách nương theo, thấu hiểu và dẫn dắt, con voi sẽ luôn thắng thế.

Ẩn dụ tương tự từng xuất hiện trong Phật giáo, triết học Hy Lạp và học thuyết Freud, được Haidt chuyển hóa thành một phiên bản dễ hiểu, giàu tính trực quan và được chứng thực bằng nghiên cứu tâm lý học hiện đại. Đây không chỉ là một hình ảnh minh họa cho tâm trí, mà là khởi điểm cho một quan niệm hạnh phúc đậm tính liên ngành: Hạnh phúc không đến từ việc áp chế bản thân bằng lý trí, mà từ việc học cách phối hợp giữa phần ý thức và phần vô thức của chính mình.

Bi kịch và nghịch cảnh là chất xúc tác phát triển nội tâm

Haidt mở đầu chương 7: Tác dụng của nghịch cảnh bằng một trích dẫn kinh điển của triết gia Friedrich Nietzsche: “Điều gì không giết chết tôi chỉ khiến tôi mạnh hơn.”

Tác giả không phủ nhận, nhưng soi rọi lại phát biểu dưới ánh sáng của tâm lý học hiện đại và chứng PTSD (rối loạn căng thẳng sau sang chấn), để chỉ ra rằng: nghịch cảnh không tự động giúp ta trưởng thành. Trên thực tế, có những mất mát khiến con người đổ gãy không thể hồi phục, nếu thiếu sự hỗ trợ đúng cách hoặc “quá liều”.

Dù vậy, ông cũng chỉ ra một điều thú vị từng được các nhà tư tưởng cổ đại Đông-Tây và các nhà nghiên cứu tâm lý ngày nay đồng ghi nhận: nghịch cảnh “đủ liều” và đúng lúc, có thể trở thành giai đoạn tái cấu trúc nội tâm, giúp con người nhận diện lại bản thân và làm mới hệ giá trị sống. Haidt xem đó là quá trình tái thiết sau chấn thương, rằng nếu có cơ hội suy tư, kết nối và điều chỉnh, con người có thể bước ra khỏi nỗi đau với một bản ngã bền vững hơn.

Hạnh phúc đến từ điểm giữa hai thái cực

Haidt không cổ vũ lối sống phụ thuộc vào ngoại cảnh, nhưng ông cũng không đồng tình với tuyên ngôn: chỉ cần thay đổi tư duy, cuộc sống sẽ thay đổi. Từ cổ chí kim, nhiều hệ tư tưởng lớn đều cổ vũ con người “tìm hạnh phúc từ nội tâm”. Song, Haidt cho rằng: niềm tin này, nếu tuyệt đối hóa, có thể trở thành áp lực.

Dưới ánh sáng tâm lý học thực nghiệm, Haidt nhấn mạnh: hạnh phúc không chỉ phụ thuộc vào cách ta suy nghĩ, mà còn bị chi phối bởi bối cảnh xã hội, mối quan hệ, hoàn cảnh kinh tế, sức khỏe thể chất… Sau đó, qua hành trình khảo cứu xuyên suốt các “Ý tưởng Tuyệt vời nhất” từ triết học Hy Lạp, đạo Phật, Do Thái giáo, Khổng giáo, huyền học… Haidt đúc kết một suy tư:

“Tôi muốn gợi ý rằng giả thuyết hạnh phúc có thể được mở rộng - lúc này - thành một công thức âm-dương: hạnh phúc đến từ bên trong, và hạnh phúc cũng đến từ bên ngoài.”

Hạnh phúc không phải là cảm giác an lạc thuần túy, cũng không phải là sự sung túc vật chất, mà là sự hài hòa giữa nhu cầu nội tâm và điều kiện xã hội. Không chỉ “đủ đầy”, con người còn cần cảm giác được sống gắn kết, có ý nghĩa và đóng góp cho giá trị lớn lao hơn chính mình.

Đồng thời, từ những phát hiện và bàn luận về sự cân bằng, Haidt cũng khuyến khích độc giả học cách mở rộng tư duy – tâm hồn để trung dung đón nhận những niềm tin cá nhân dẫu có khác biệt, nhưng đều hướng con người đến một lẽ sống tốt đẹp và có ý nghĩa đối với họ.

Giải Mã Hạnh Phúc không phải là một cẩm nang tự lực cổ vũ nghĩ tích cực bằng mọi giá, cũng không phải là một tác phẩm triết học trừu tượng. Đây là một bản giao hưởng giữa trí tuệ cổ đại và khoa học hiện đại, giữa các luồng tư tưởng Đông-Tây có sức ảnh hưởng vĩ đại. Jonathan Haidt viết cuốn sách này như một nhà nghiên cứu, nhưng cũng như một người học trò đang dò đường giữa rừng triết lý sống. Ông dành sách cho những ai hoài nghi nhưng vẫn cởi mở – những người không hài lòng với các lời khuyên sáo rỗng, nhưng vẫn tin vào khả năng làm chủ cuộc đời bằng hiểu biết sâu sắc hơn.

Trích đoạn

“Ai cũng đã nghe qua ‘điều gì không giết được ta sẽ càng khiến ta mạnh mẽ hơn’, nhưng đó là một sự khái quát thái quá và nguy hiểm. Có rất nhiều thứ không giết chết bạn nhưng sẽ gây tổn hại cho bạn cả đời.”

(trích Lời giới thiệu)

“Người cưỡi voi có thể nhìn xa hơn vào tương lai, có thể học hỏi được những thông tin giá trị bằng cách nói chuyện với những người cưỡi voi khác hoặc đọc bản đồ, nhưng người cưỡi voi không thể ra lệnh cho con voi làm điều gì mà nó không muốn.”

(trích Chương Một: Cái tôi chia đôi)

“Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

(trích Chương Mười: Hạnh phúc đến từ điểm giữa hai thái cực)

Nhận xét của báo chí

“Một quyển sách hướng dẫn mới mẻ, nghiêm túc và truyền động lực để ta sống mỗi ngày một tốt hơn.” – Tạp chí Library Journal

“Mỗi trang của quyền sách này đều ẩn chứa những viên ngọc quý là những hiểu biết sâu sắc về một cuộc sống tươi đẹp và nơi bạn có thể tìm thấy nó." – William Damon, tác giả The Moral Child

“Bằng bút pháp tài tình, Jonathan Haidt cho chúng ta thấy sự kết nối sâu sắc đang tồn tại giữa những nghiên cứu tâm lý tiên tiến và sự thông thái của những bộ óc xa xưa. Chúng ta hứng khởi khi thấy được tâm lý học hiện đại đã giúp giải đáp cho những câu hỏi căn cơ và dai dẳng nhất của cuộc sống như thế nào.” – Barry Schwartz, Đại học Swarthmore, tác giả quyển The Paradox of Choice: Why More Is Less

Trên nền tảng Goodreads, Giải Mã Hạnh Phúc nhận được đánh giá trung bình 4.03/5 với hơn 43.000 lượt bình chọn từ độc giả toàn cầu.

Về tác giả

Jonathan Haidt là giáo sư dự bị bộ môn tâm lý học tại Đại học Virginia. Hiện ông đang là chuyên gia tâm lý học xã hội, Trường Kinh doanh Stern, Đại học New York. Những nghiên cứu của ông xoay quanh cơ sở cảm xúc của luân lý và những cách thức mà luân lý biến đổi giữa các nền văn hóa, bao gồm nền văn hóa của phe tự do và phe bảo thủ.

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

4 bài học rút ra từ Giải Mã Hạnh Phúc – Jonathan Haidt

Thoát khỏi “cạm bẫy” cuộc sống hiện đại bằng trí tuệ cổ đại.

Published

on

Làm sao để có được hạnh phúc? Đây là chủ đề đã gây tranh cãi muôn thuở giữa khoa học và tôn giáo, từ cổ đại đến hiện đại. Mỗi bên đều có lập luận riêng và chúng thường mâu thuẫn lẫn nhau. Trong cuốn sách Giải Mã Hạnh Phúc, Jonathan Haidt, một chuyên gia tâm lý học xã hội và giáo sư người Mỹ, đã đi tìm lời giải cho câu hỏi này. Giải Mã Hạnh Phúc là một cuốn sách thực tiễn gồm 10 bài học, mỗi chương xoay quanh một chủ đề khác nhau từ tình yêu, công việc đến tôn giáo. Trong chương kết, Haidt kết hợp tất cả các bài học lại để đưa ra giả thuyết cuối cùng.

Nhìn chung, đây là một cuốn sách sâu sắc và bổ ích. Giống như soạn giáo trình cho môn tâm lý học, Haidt trình bày tất cả các lập luận của mình và củng cố chúng bằng nghiên cứu và trích dẫn. Dù giả thuyết cuối cùng rất đơn giản, tôi vẫn khuyên bạn nên đọc kỹ từng bài học để hiểu đầy đủ ý nghĩa của nó.

Chấm điểm: 4.75/5

Những ai nên đọc cuốn sách này: Người muốn thấu hiểu tường tận và đạt được hạnh phúc.

Bài học số 1: Không thể theo đuổi hạnh phúc

Như câu nói “dục tốc bất đạt”, càng cố gắng theo đuổi hạnh phúc thì càng khó lòng đạt được nó. Đây là một triết lý quý giá được đúc kết từ trí tuệ cổ xưa, song chủ nghĩa tiêu dùng hiện đại lại đang cố gắng khắc sâu những điều trái ngược vào tâm trí mọi người. Các quảng cáo tràn ngập những thông điệp ngầm rằng bạn có thể mua được hạnh phúc bằng tiền bạc hoặc danh vọng. Có thể việc mua quần áo hàng hiệu và xe hơi sang trọng sẽ khiến bạn vui, nhưng cảm giác đó không kéo dài lâu. Theo nguyên lý thích nghi, mọi người có xu hướng đánh giá quá cao cảm xúc trong tương lai và cảm giác hạnh phúc ban đầu sẽ trở lại mức bình thường sau vài tháng. Nói cách khác, nếu bạn nghĩ mình sẽ hạnh phúc sau khi mua đôi giày thể thao hằng mong muốn thì bạn đã đúng. Nhưng bạn sẽ trở lại mức độ hạnh phúc ban đầu chỉ sau một thời gian ngắn.

Tình yêu cũng giống vậy. Có hai dạng tình cảm: tình yêu say đắm và tình yêu đồng hành. Tình yêu say đắm khiến tim chúng ta lạc nhịp, thường được khắc họa trên phim ảnh và trong nghệ thuật. Tuy nhiên, sau vài tháng, tình yêu say đắm sẽ giảm dần và chuyển hóa thành tình yêu đồng hành, khi nửa kia trở thành bạn thân và gia đình của bạn. Văn hóa đại chúng tôn vinh tình yêu say đắm hơn hẳn tình yêu đồng hành bởi nó kịch tính hơn, nhưng nếu chỉ mải đeo đuổi loại tình cảm đó thì bạn sẽ phải thường xuyên dấn thân vào các mối quan hệ mới và không bao giờ tìm được tình yêu đích thực, bởi đó cũng là một dạng tình yêu đồng hành.

Có hai loại hưởng thụ khác nhau: khoái lạc và hài lòng. Khoái lạc là “những cảm giác hào hứng có các thành phần giác quan rõ ràng và cảm xúc mạnh mẽ”, chẳng hạn như tình yêu say đắm và chủ nghĩa tiêu dùng, trong khi đó sự hài lòng phát sinh từ hoạt động. Cái trước có thể bị nuông chiều, lạm dụng và nhanh chóng phai nhạt, trong khi cái sau tạo ra hạnh phúc bẩm sinh. Chủ nghĩa tiêu dùng khuyến khích mọi người theo đuổi thú vui bằng cách gắn kết cảm xúc với từng món đồ. Cách tốt nhất để thoát khỏi vòng luẩn quẩn không hồi kết này là tập trung vào trải nghiệm thay vì vật chất và thử sức với những hoạt động nằm trong khả năng của bạn. Cái sau sẽ được thảo luận chi tiết trong bài học tiếp theo.

Bài học số 2: Điều gì không giết được ta có thể sẽ khiến ta hạnh phúc hơn

Nghịch cảnh mang lại hạnh phúc, nhưng chỉ với một số người. Tại sao lại như vậy? Nhận thức của chúng ta về nghịch cảnh phần lớn được quyết định bởi phong cách tâm trạng - phản ánh xu hướng hạnh phúc hoặc chán nản. Những người đạt điểm cao về phong cách tâm trạng thường có xu hướng cảm nhận những cảm xúc tiêu cực như buồn bã hay sợ hãi, và ngược lại. Hơn nữa, cấu trúc gen đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành phong cách tâm trạng của chúng ta. Nói cách khác, khuynh hướng tiếp nhận các sự kiện tiêu cực của chúng ta phần lớn được quyết định ngay từ khi sinh ra.

Lý giải ý nghĩa là cách ta diễn giải các sự kiện, và phong cách tâm trạng ảnh hưởng đến quá trình này. Những người dễ trải nghiệm hạnh phúc hơn thường có cái nhìn lạc quan khi gặp nghịch cảnh và nhận ra mặt tích cực đến từ nó. Những người dễ bị ảnh hưởng bởi cảm xúc tiêu cực sẽ coi nghịch cảnh là rào cản và cố gắng tránh né bằng mọi giá.

Có một số cách để tận dụng nghịch cảnh bất chấp khuynh hướng di truyền của chúng ta. Về phong cách tâm trạng, cách tốt nhất là thay đổi cách ta suy nghĩ. Ở phương Đông, thiền định được sử dụng để tách mình khỏi các tình huống. Ở phương Tây, liệu pháp trị liệu nhận thức hành vi được sử dụng để thiết lập lại não bộ nhằm thay đổi những suy nghĩ tiêu cực. Nuôi dạy con cái là cách tốt nhất để phát triển khả năng lý giải ý nghĩa. Cha mẹ có thể dạy con bằng cách nuôi dưỡng thái độ đúng đắn trước nghịch cảnh và để con tự mình đối mặt với thử thách khi trưởng thành.

Bài học số 3: Đấng Tối Cao

Hầu hết mọi người đều phải làm việc để kiếm sống trong suốt cuộc đời và nhiều người coi đó là một gánh nặng. Trong Giải Mã Hạnh Phúc, Haidt đề xuất ba quan điểm về công việc: một việc làm công ăn lương (phương tiện để kiếm tiền), một nghề nghiệp (phương tiện để thăng tiến và danh tiếng), hoặc một lời kêu gọi (là một phần của điều gì đó cao cả hơn). Những người coi công việc chỉ là một việc làm công ăn lương thường ít hạnh phúc nhất vì họ bị thúc đẩy bởi các yếu tố bên ngoài và không tạo ra sự hài lòng từ những gì mình làm. Những người coi công việc là nghề nghiệp thường coi làm việc như một cách để phát triển bản thân và sẵn sàng làm thêm giờ để đảm bảo thành quả. Những người coi công việc là lời kêu gọi thường hài lòng nhất với cuộc sống. Do đó, một sự nghiệp phù hợp với lời kêu gọi mang lại nhiều hạnh phúc nhất vì người ta vừa được thăng tiến trong sự nghiệp, vừa hoàn thành mục đích và sự thống nhất (coherence) của bản thân.

Ngoài ra, Haidt cũng đề cập đến tính thần thánh. Ông cho rằng hầu hết mọi người đều sống trong một thế giới 2 chiều: chiều ngang của sự gần gũi hoặc yêu thích và chiều dọc của thứ bậc hoặc địa vị. Haidt lập luận rằng tính thần thánh là chiều không gian thứ ba, được thể hiện qua cảm giác thăng hoa của con người, thường được khơi dậy bởi những trải nghiệm tôn giáo tập thể và những cảnh tượng hùng vĩ. Khác với những cảm xúc khác, cảm giác thăng hoa là một cảm giác bình yên và dễ chịu. Nó tạo ra hạnh phúc vì nó kết nối người ta với một điều gì đó vĩ đại hơn chính họ và thúc đẩy họ trở thành một con người tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, trong xã hội phương Tây hiện đại, nhiều người cảm thấy cuộc sống của họ không trọn vẹn vì họ bị đối xử như những cá nhân riêng lẻ và thiếu vắng những trải nghiệm thiêng liêng.

Bài học số 4: Hạnh phúc đến từ điểm giữa hai thái cực

Nếu bạn đã đọc ba bài học trước, xin chúc mừng, bạn sẽ nắm được cốt lõi của giả thuyết này. Như đã trình bày trong các bài học trước, có rất nhiều yếu tố liên quan để đạt được hạnh phúc, từ sự gắn kết đến tính thần thánh, từ tình yêu đến nghịch cảnh. Tuy nhiên, theo bài học đầu tiên, chúng ta không thể đạt được hạnh phúc bằng cách liên tục theo đuổi nó. Vì vậy, đây là giả thuyết để giải mã hạnh phúc: Để đạt được hạnh phúc, bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất và mục đích, trong khi một số điều kiện khác nằm bên ngoài, chẳng hạn như tình yêu và công việc.

Lam dịch từ Medium

Đọc bài viết

Book trailer

Rời khỏi Sài Gòn – Hành trình một nhân viên ngân hàng đưa 113 thường dân rời đi vào tháng 4/1975

Trong những ngày tháng Tư nhiều biến động nhất của lịch sử, một nhân viên ngân hàng 27 tuổi đã thực hiện một nhiệm vụ tưởng chừng bất khả thi. Rời khỏi Sài Gòn – cuốn hồi ký chân thực, đầy kịch tích của Ralph White – là minh chứng sống động về sức mạnh của tình người và một quyết định nhân văn vượt lên trên mọi mệnh lệnh.

Published

on

Rời khỏi Sài Gòn, tác phẩm vừa được Phương Nam Book liên kết xuất bản, là một câu chuyện về lòng dũng cảm phi thường nảy sinh từ một con người bình thường, một lát cắt sống động về những ngày cuối cùng của cuộc chiến được kể lại từ góc nhìn của một người trong cuộc. Ralph White không được lệnh phải làm người hùng, nhưng đứng trước lằn ranh sinh tử của những người đồng sự, ông đã chọn làm điều đúng đắn, viết nên một trong những câu chuyện nhân văn và kịch tính nhất về những ngày tháng Tư năm 1975.

Người cứu tinh bất đắc dĩ giữa lòng đô thị rối ren

Khi Ralph White, một nhân viên ngân hàng trẻ tuổi của Chase Manhattan, nhận nhiệm vụ tạm thời chuyển từ chi nhánh Bangkok đến Sài Gòn vào giữa tháng 4 năm 1975, ông chỉ nghĩ đó là một cuộc phiêu lưu ngắn ngày. Nhiệm vụ chính thức của ông có hai phần mâu thuẫn: giữ cho chi nhánh Sài Gòn hoạt động càng lâu càng tốt để thể hiện sự ổn định, đồng thời chuẩn bị sơ tán cho vài nhân viên cấp cao người Việt khi tình hình trở nên không thể cứu vãn. Với tính cách của một thanh niên 27 tuổi đam mê phiêu lưu, thích lái máy bay và mô tô, White không phải là hình mẫu của một chiến lược gia dày dạn kinh nghiệm. Ông chỉ là một quân cờ được cấp trên cử đi, một người có thể hy sinh nếu mọi chuyện không thành.

Thế nhưng, Sài Gòn mà White đối mặt không giống như những gì ông được nghe kể. Ẩn sau vẻ ngoài dường như vẫn bình lặng của thành phố, không khí căng thẳng bao trùm khắp nơi. Đồng thời, những khó khăn từ phía đại sứ quán Mỹ khiến cho mọi kế hoạch sơ tán chính thức gần như bị đóng băng. White nhanh chóng nhận ra sự thật phũ phàng: những lời hứa hẹn từ Tòa Đại sứ chỉ là lời nói suông. Ông và các nhân viên của mình đang đơn độc.

Bước ngoặt quyết định đã đến khi một nữ nhân viên trẻ tuổi hỏi ông trong lúc tuyệt vọng rằng liệu họ có bị bỏ lại để rồi phải đối diện với cái chết hay không. Khoảnh khắc đó đã biến một nhiệm vụ công việc thành một sứ mệnh lương tâm. Không chút do dự, Ralph White hứa rằng ông sẽ không bỏ mọi người ở lại. Lời hứa đó đã ràng buộc số phận của ông với 113 con người, bao gồm toàn bộ nhân viên ngân hàng và gia đình họ. Từ một nhân viên ngân hàng vô danh, ông trở thành người bảo trợ bất đắc dĩ, gánh trên vai sinh mạng của cả một “gia đình” mà ông vừa mới “nhận nuôi”. Cuộc phiêu lưu đã kết thúc, nhường chỗ cho một cuộc chạy đua sinh tử.

Cuộc chạy đua với thời gian và bộ máy hành chính

Khi đã quyết định sẽ đưa tất cả mọi người đi, Ralph White lao vào một cuộc chiến thực sự, không phải với súng đạn, mà với sự thờ ơ của bộ máy hành chính và thời gian đang cạn dần. Trở ngại lớn nhất của ông chính là Tòa Đại sứ Mỹ. Đại sứ Graham Martin đã từ chối tiến hành một cuộc sơ tán quy mô lớn, cho rằng hành động đó sẽ gây hoảng loạn và làm suy sụp tinh thần chiến đấu. Chính sách chính thức chỉ cho phép sơ tán công dân Mỹ và những người Việt có mối quan hệ trực tiếp với người Mỹ. Các nhân viên của Chase Manhattan, vì là người Việt không có mối quan hệ trực tiếp, nên hoàn toàn không đủ điều kiện.

May mắn thay, giữa bộ máy hành chính cứng nhắc ấy, vẫn có những người tốt. White tình cờ khám phá ra một mạng lưới sơ tán bí mật, được vận hành bởi một nhóm nhỏ các nhân viên ngoại giao và quân sự Mỹ quả cảm. Họ hành động âm thầm sau lưng đại sứ, liều lĩnh cả sự nghiệp của mình để làm điều đúng đắn. Những cái tên như Shep Lowman và Kenneth Moorefield đã trở thành tia hy vọng le lói. Bên cạnh đó, nhờ vào sự nhanh nhạy, White đã tự xây dựng một mạng lưới thông tin của riêng mình. Ông kết bạn với Nga, một cô gái điếm 17 tuổi thông minh; nhờ đó, ông nhận được thông tin tình báo quý giá từ người anh trai của cô.

Đỉnh điểm của sự căng thẳng diễn ra tại Trung tâm Kiểm soát Sơ tán (ECC) ở sân bay Tân Sơn Nhất. Sau khi xoay xở để có được những chuyến xe buýt quân sự đưa người của mình vượt qua các trạm kiểm soát, White đối mặt với rào cản cuối cùng: giấy tờ. Không có giấy phép xuất cảnh, không có thị thực, 113 người của ông không thể lên máy bay. Trong khoảnh khắc quyết định, khi đối mặt với một vị phó lãnh sự, White đã đưa ra một câu trả lời táo bạo và đầy tính nhân văn. Khi được hỏi về mối quan hệ với những người này, ông khẳng định: “Họ là gia đình của tôi.” Ông cam kết chịu trách nhiệm tài chính và bảo trợ cho tất cả 113 người. Bằng sự quyết đoán và lòng chân thành không thể lay chuyển, ông đã thuyết phục được vị phó lãnh sự, biến một quy trình hành chính lạnh lùng thành một hành động cứu người. Đó là khoảnh khắc mà 113 nhân viên và người thân của họ chính thức trở thành gia đình của Ralph White.

Di sản của lòng nhân ái và sự quả cảm

Rời khỏi Sài Gòn vượt xa khuôn khổ của một cuốn hồi ký lịch sử thông thường. Sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ nằm ở câu chuyện phi thường mà còn ở giọng văn độc đáo của Ralph White – một giọng văn ngắn gọn, dứt khoát, pha lẫn sự châm biếm và dí dỏm. White không tự tô vẽ mình thành một người hùng hoàn hảo. Ông thẳng thắn kể về những lúc sợ hãi, những quyết định bốc đồng, và cả sự may mắn đến khó tin đã giúp ông thành công. Chính sự tự giễu và khiêm tốn này đã khiến ông trở thành một người kể chuyện đáng tin cậy, gần gũi, giúp độc giả có thể đồng cảm sâu sắc với hành trình của ông.

Cuốn sách còn là một minh chứng mạnh mẽ về di sản của lòng nhân ái và sự kết nối giữa người với người. Ralph White luôn khiêm tốn khi nói về vai trò của mình, ông nhấn mạnh rằng những người hùng thực sự là các nhân viên ngoại giao Mỹ đã liều mình giúp đỡ. Tuy nhiên, tình cảm mà ông dành cho 113 người mà ông đã cứu là không thể phủ nhận: “Tôi không có con cái, và 113 người được tôi bảo trợ vào ngày 24 và 25/4/1975 là gia đình duy nhất mà tôi từng có.” Mối liên kết đó không hề chấm dứt khi máy bay cất cánh. Nhiều người trong số họ đã tiếp tục làm việc cho Chase tại Mỹ và có một cuộc sống mới. Cuộc đời của Nga – cô gái được ông gửi đến sống cùng mẹ mình, tốt nghiệp trung học và đại học rồi trở thành giáo viên – chính là cái kết đẹp cho một câu chuyện đầy bão tố.

Rời khỏi Sài Gòn không chỉ mang đến góc nhìn cận cảnh về một giai đoạn lịch sử đầy biến động, mà còn là câu chuyện truyền cảm hứng về sức mạnh của một cá nhân. Tác phẩm của Ralph White là một lời nhắc nhở rằng lịch sử không chỉ được tạo dựng bởi những trận chiến hay những quyết định chính trị vĩ mô, mà còn được dệt nên từ vô số hành động quả cảm và đầy tình nhân ái của những con người bình thường.

Trích đoạn

“Ở Việt Nam, họ thường đứng trước tên. Hai người phụ nữ họ Nguyễn không có quan hệ họ hàng gì với nhau. Trong lần đến Việt Nam với vai trò là người phụ trách của American Express, tôi biết được rằng khoảng 40% người Việt sử dụng cái họ đó, dòng dõi của triều đại phong kiến cuối cùng. Nó được phát âm với một âm tiết duy nhất. Âm vị ng hiện diện trong tiếng Anh ở cuối các từ như running. Bí quyết để phát âm họ Nguyễn mở đầu bằng âm vị ng là gốc lưỡi chạm nhẹ lên vòm miệng. Hay đọc từ running câm và nâng đầu lưỡi lên trước khi phát âm. Cách đọc cũng tương tự với tên Nga, vốn là một trong những tên nữ phổ biến ở Việt Nam. Người Việt đánh giá cao việc một người Mỹ nỗ lực phát âm đúng tên họ. Họ đã quen với chuyện bị đọc sai tên.”

***

“Đó là một cái kén văn minh giữa bạo lực lan tràn và nỗi đau cộng hưởng từ chiến tranh; một khu rừng văn minh nho nhỏ với những chiếc bàn nằm rải rác giữa những cây chuối, hoa bụi và một vài cây đa non. Đồ ăn tại đó vừa bình dân vừa có phần cao cấp. Trải nghiệm của tôi chủ yếu là bữa sáng, với bánh sừng bò, cà phê Pháp và không gian lịch sử. Quán cà phê sân vườn tại Continental là một góc nhìn thoáng qua về thiên đường đầy cám dỗ mà ký ức không nỡ buông bỏ.”

***

“Tôi không có con cái, và 113 người được tôi bảo trợ vào ngày 24 và 25/4/1975 là gia đình duy nhất mà tôi từng có. Tôi không ngừng suy đoán cuộc sống của họ đã thay đổi như thế nào kể từ khi gặp tôi. Và cuộc sống của tôi đã biến chuyển ra sao kể từ khi gặp họ.”

Nhận xét của báo chí

“Những gì White khiêm tốn gọi là ‘15 phút tỏa sáng’ của mình chính là minh chứng cho lòng nhân đạo sâu sắc của ông… Đúng như những gì ông đã viết ‘Không chỉ là những người tị nạn, nhân viên, cộng sự, họ chính là gia đình tôi.’”

Publisher Weekly

“Một câu chuyện độc đáo, kịch tính về Chiến tranh Việt Nam... White đã thuật lại câu chuyện đầy cảm hứng của mình bằng sự dí dỏm, hào hoa, khiêm nhường và một cảm nhận đầy lôi cuốn về thời gian và địa điểm.”

Kirkus Reviews

“Một câu chuyện nghẹt thở, quá đỗi phi thường đến mức khó tin.”

OprahDaily.com

Về tác giả

Ralph White, một chuyên gia tài chính kiêm tác giả người Mỹ, người được giao nhiệm vụ đóng cửa Chi nhánh Chase tại Sài Gòn trong những ngày cuối cùng của mùa xuân năm 1975. Năm 1981, ông trở lại trụ sở chính của Chase tại New York để đảm nhận vai trò tại Phòng Kế hoạch Chiến lược Quốc tế và giữ chức Phó Chủ tịch tại đây. Sau khi hoàn thành chương trình MBA tại Đại học Columbia, ông tiếp tục phát triển sự nghiệp trong ngành tài chính, đồng thời thành lập Columbia Fiction Foundry, một cộng đồng viết văn dành cho cựu sinh viên Columbia. Hiện ông đang sinh sống tại New York và Litchfield, Connecticut.

Kodaki

Đọc bài viết

Cafe sáng