Trích đăng

Gieo trồng điều tốt – Trích “Lập trình hạnh phúc”

Published

on

Dựa trên nền tảng khoa học về bộ não, Tiến sĩ Rick Hanson – tác giả có lượng sách bán chạy nhất New York Times đã viết quyển sách Lập trình hạnh phúc vô cùng thiết thực này với đầy đủ các phương pháp dễ thực hành để phát triển cảm giác cân bằng, ổn định, nhận thức giá trị bản thân và đạt được sự bình an nội tâm.

“Tôi sẽ chỉ cho bạn cách làm sao biến các khoảnh khắc tốt đẹp thành một bộ não vĩ đại, tin tưởng vào giá trị bản thân và cảm giác được quan tâm. Đây chẳng phải những giây phút đáng giá triệu đô gì cả. Chỉ đơn giản là cảm giác dễ chịu khi mặc vào chiếc áo len ưa thích, thưởng thức một tách cà phê, cảm nhận sự ấm áp từ một người bạn, hài lòng sau khi hoàn thành một nhiệm vụ, hay là cảm nhận được tình yêu từ người bạn đời.”

  • Trích từ: Lập trình hạnh phúc
  • Tác giả: Rick Hanson
  • Phát hành: Tháng 10.2020
  • Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

*

CHƯƠNG 1
Gieo trồng điều tốt

Lúc còn đi học, tôi nhỏ hơn mấy đứa bạn cùng lớp một, hai tuổi, một cậu bé nhút nhát, gầy gò, ngốc nghếch đeo kính. Chẳng có gì tệ hại xảy ra với tôi cả, nhưng tôi có cảm giác như là mình đang quan sát người khác qua một bức tường bằng kính. Như một kẻ lạc loài, bị phớt lờ, bị coi thường, không ai muốn ở gần. Vấn đề của tôi nếu so với người khác thì không có gì to tát. Nhưng tất cả chúng ta về cơ bản đều mong muốn được cảm thấy mình hiện diện và có giá trị với người khác, đặc biệt khi còn là con trẻ. Khi những nhu cầu này không được thỏa mãn, ta cảm giác như thể đang sống nhờ xúp loãng. Bạn sẽ sống sót, nhưng không bao giờ cảm thấy mình có đầy đủ dinh dưỡng. Với tôi, đó là cảm giác như thể có một lỗ hổng to lớn bên trong, một khoảng trống trong tim.

Nhưng khi lên đại học, tôi chạm đến một điều gì đó có vẻ như rất đặc biệt vào lúc đó, và đến giờ vẫn có giá trị đáng kể với tôi. Một điều nhỏ bé nào đó đã xảy ra. Có lẽ là vài cậu bạn đã bảo “Đi nào, mình cùng đi ăn pizza”, hay một cô gái nào đó đã mỉm cười với tôi. Không quan trọng. Nhưng tôi phát hiện ra nếu tôi để sự kiện tốt đẹp ấy trở thành một trải nghiệm thú vị, chứ không phải chỉ là một ý tưởng, và lưu lại nó ít nhất trong vài hơi thở, chứ không vội vàng phủi đi hay xoay qua thứ khác thật nhanh, thì nó tạo cảm giác như thể điều tốt đẹp đã thấm vào bên trong tôi, trở thành một phần của tôi. Thực tế là tôi đã tiếp nhận điều tốt đẹp – khoảng chục giây vào lúc ấy. Nó nhanh chóng, dễ dàng mà lại rất dễ chịu. Tôi bắt đầu cảm thấy khá hơn.

Lúc ban đầu, khoảng trống trong tim tôi có vẻ to như một chiếc hồ bơi rỗng tuếch. Nhưng khi tôi bắt đầu thu nhận mỗi ngày một vài trải nghiệm được đón nhận, được cảm kích,
được quan tâm, thì tôi cảm thấy như mình đang đổ vài xô nước vào chiếc hồ. Từng ngày một, từng xô một, từng tháng một trôi qua. Tôi dần lấp đầy khoảng trống ấy trong lòng mình. Cách làm này đã nâng tinh thần tôi lên và giúp tôi cảm thấy càng lúc càng dễ chịu, tươi vui và tự tin.

Nhiều năm sau đó, sau khi đã trở thành nhà tâm lý học, tôi hiểu ra vì sao cách làm này tưởng chừng như nhỏ bé nhưng lại có thể tạo nên khác biệt lớn lao đến vậy đối với mình. Tôi đã đan kết được sức mạnh bên trong với tấm thảm tâm trí mình, bộ não cũng như đời sống của bản thân – đó là ý tôi muốn trình bày khi nói đến “lập trình hạnh phúc”.

Sức mạnh nội tại

Tôi hay đi leo núi và thường phải phụ thuộc vào những thứ có trong ba-lô của mình. Sức mạnh nội tại chính là nguồn dự trữ bạn có trong ba-lô trên hành trình bạn vượt qua các bước ngoặt và thường là những đoạn đường khó đi trong đời. Chúng gồm có tâm trạng tích cực, kiến thức cơ bản, lòng chính trực, bình an nội tại, lòng quyết tâm và một trái tim ấm áp. Các nhà nghiên cứu còn xác định thêm các sức mạnh khác nữa, chẳng hạn như lòng trắc ẩn với bản thân, sự gắn kết an toàn, trí tuệ cảm xúc, tính lạc quan học được, phản xạ thư giãn, lòng tự trân trọng, khả năng dung nạp căng thẳng, khả năng tự điều hòa, năng lực phục hồi, và năng lực thực thi. Tôi sử dụng từ sức mạnh với nghĩa rộng để bao gồm cả các cảm giác tích cực như bình tâm, sự mãn nguyện, và sự quan tâm, cũng như các kỹ năng, các xu hướng và góc nhìn hữu ích, cộng với các đặc tính được biểu hiện ra ngoài như sinh khí hay sự thư thái. Không giống như các trạng thái tinh thần thoáng qua, sức mạnh nội tại là các nét đặc trưng ổn định, là nguồn sống khỏe mạnh bền vững, là hành động cũng như đóng góp hữu hiệu và thông thái cho mọi người.

Ý tưởng về sức mạnh nội tại có thể ban đầu nghe có vẻ trừu tượng. Nào ta hãy đưa nó xuống mặt đất với vài ví dụ cụ thể sau. Báo thức vang lên và bạn muốn ngủ nướng – thế là bạn tìm đến sức mạnh ý chí để rời giường. Giả dụ bạn có con nhỏ, lũ trẻ đang cãi vã bực dọc – thay vì quát thét thì bạn tìm về nơi nào đó bên trong, vững vàng thay vì giận dữ. Bạn bối rối với một sai sót trong công việc – thế là bạn gợi nhớ lại cảm giác mình có giá trị từ các thành quả trước đây. Bạn căng thẳng với những cạnh tranh xung quanh – thế là bạn tìm đến sự bình yên trong vài hơi thở ra thật sâu. Bạn thấy buồn vì không có ai đồng hành – thế là bạn tìm sự ủi an khi nghĩ đến những người bạn mình đang có. Trong suốt ngày dài của bạn, các sức mạnh nội tại vẫn luôn vận hành tự động bên trong tâm trí, chẳng hạn như cảm giác về tầm nhìn, về lòng tin, hay là cảm giác tự nhận thức về bản thân.

Có một ý tưởng nổi tiếng trong y khoa và tâm lý học rằng cách bạn cảm nhận và hành động – cả trong hành trình đời mình cũng như trong hoàn cảnh hay các mối quan hệ đặc thù – được quyết định bởi ba yếu tố: thách thức bạn đối mặt, điểm yếu ớt mà các thử thách này gây ra, và các sức mạnh bạn có để xử lý được các thử thách này và bảo vệ được điểm yếu ớt của mình. Ví dụ, thách thức từ một người chủ hay chỉ trích có thể bị phóng đại lên nhiều lần bởi điểm yếu hay lo âu của một người, nhưng người này hoàn toàn có thể đương đầu bằng cách tìm đến sức mạnh bên trong của mình, tự xoa dịu bản thân và cảm giác được tôn trọng từ người khác.

Tất cả chúng ta đều có những điểm yếu ớt dễ bị tổn thương. Cá nhân tôi ước gì mình không quá dễ bị lo âu và tự chỉ trích bản thân như vậy. Và cuộc sống thì không bao giờ thiếu thử thách, từ chuyện vặt như cuộc gọi nhỡ cho đến những vấn đề lớn hơn như tuổi già, bệnh tật và cái chết. Bạn cần có sức mạnh đương đầu với khó khăn và những điểm yếu ớt, và khi một trong hai điều này phát triển lên, thì sức mạnh của bạn cũng phải tiến triển tương ứng với chúng. Nếu bạn muốn cảm thấy ít căng thẳng hơn, ít lo âu, bực dọc, khó chịu, ít cảm thấy trầm uất, thất vọng, cô đơn hơn, ít cảm giác tội lỗi, bị tổn thương, hay cảm giác thiếu thốn, thì sức mạnh bên trong sẽ giúp được bạn.

Sức mạnh nội tại là nền tảng cho một cuộc đời hạnh phúc, hiệu quả và tràn đầy yêu thương. Ví dụ, nghiên cứu trên một sức mạnh – cảm xúc tích cực – đã cho thấy nó có thể giảm bớt căng thẳng và tính phản ứng thụ động, giúp chữa lành các vết thương tâm lý và cải thiện năng lực phục hồi, tình trạng khỏe mạnh nói chung, và mức độ mãn nguyện trong cuộc sống. Cảm xúc tích cực khuyến khích ta tìm kiếm cơ hội, tạo ra những vòng lặp tích cực và thúc đẩy thành công. Chúng còn làm tăng cường hệ miễn dịch, bảo vệ trái tim của chúng ta, và nuôi dưỡng một cuộc đời lành mạnh dài lâu.

Trung bình có khoảng một phần ba sức mạnh của một người là bẩm sinh, được tích hợp sẵn vào trong tính khí di truyền, tài năng, khí sắc và nhân cách của họ. Hai phần ba kia được phát triển theo thời gian. Bạn có được bằng cách nuôi trồng chúng. Đối với tôi đây là tin tốt, bởi lẽ điều đó có nghĩa là chúng ta có thể phát triển hạnh phúc và các sức mạnh nội tại có lợi cho sự hài lòng, tình yêu, và tính hiệu quả, cũng như sự thông tuệ và bình an nội tâm. Tìm hiểu cách làm thế nào để nuôi trồng các sức mạnh bên trong này có lẽ là điều quan trọng nhất bạn từng học. Quyển sách này viết về điều đó.

Trong khu vườn

Hãy hình dung tâm trí bạn như một khu vườn. Bạn có thể đơn giản là ở cùng nó, nhìn ngắm các thảm cỏ và hoa, không cần phải phán xét hay thay đổi gì cả. Hoặc là, bạn có thể nhổ vài cọng cỏ bằng cách giảm bớt một số cái tiêu cực trong đầu mình. Hoặc bạn còn có thể trồng thêm hoa bằng cách tăng thêm điều tích cực trong tâm mình. (Hãy xem quan niệm của tôi về tích cực và tiêu cực ở ô trong trang 26.) Về cơ bản bạn có thể quản lý tâm trí mình theo ba cách chính: để nó diễn ra như thế, buông bỏ, tiếp nhận. Quyển sách này viết về cách thứ ba, gieo trồng sức mạnh nội tại: gieo trồng những bông hoa trong khu vườn tâm trí. Để giúp bạn làm được điều này hiệu quả nhất, tôi muốn liên hệ nó với hai cách thức tiếp cận tâm trí.

Ở cùng tâm trí của mình

Hãy để tâm trí của ta như vậy, đơn giản chỉ cần quan sát trải nghiệm của mình, cho phép bản thân khuây khỏa và nhìn toàn cảnh, như thể bạn bước ra khỏi màn hình chiếu phim và quan sát mọi thứ từ đằng sau cách đó hai mươi hàng ghế.

THẾ NÀO LÀ TÍCH CỰC?

Với từ tích cực và tốt, ý tôi là những thứ dẫn đến hạnh phúc cũng như tạo ra lợi ích cho bản thân người đó và người khác. Tiêu cực và xấu nghĩa là những gì dẫn đến đau khổ và tổn hại. Tôi đang nói về mặt ngữ nghĩa thực dụng, không bàn trên khía cạnh đạo đức hay tín ngưỡng.

Trải nghiệm tích cực thường tạo cảm giác tốt đẹp. Bên cạnh đó, một số trải nghiệm gây cảm giác tồi tệ nhưng lại đưa đến kết quả tốt đẹp, cho nên tôi cũng gọi đó là tích cực. Ví dụ, cơn đau do vết bỏng trên tay khi chạm vào lò nóng, cơn lo âu khi không tìm thấy con ở công viên, và nỗi hối hận khiến ta quyết tâm cư xử cao thượng, có thể gây ra cảm giác khó chịu bây giờ nhưng sẽ có ích và giúp ta cảm thấy tốt hơn về sau.

Tương tự, trải nghiệm tiêu cực thường gây cảm giác tồi tệ. Cũng vậy, có những trải nghiệm tạo cảm giác tốt đẹp nhưng lại có hậu quả xấu, nên tôi cũng cho đó là tiêu cực. Sự hưng phấn sau ba cốc bia hay cảm giác trả đũa có được khi ngồi buôn chuyện về người vừa đối xử tệ với bạn có thể tạo ra cơn khoái chí tạm thời, thế nhưng lợi bất cập hại bạn ạ! Những trải nghiệm như vậy làm ta dễ chịu tức thời nhưng sau đó thì rất tệ.

Để cho dòng ý thức chạy tự do có thể giúp bạn ngừng đuổi theo những điều dễ chịu cũng như thôi vật vã với những thứ khó chịu. Bạn có thể trải nghiệm đời sống của mình với niềm hứng thú và (mong là) với sự tử tế với bản thân, và có thể kết nối với các tầng lớp mềm mại hơn, dễ bị tổn thương hơn và hẳn là non nớt hơn bên trong tâm trí mình. Khi xét đến khả năng nhận thức có tính chấp nhận và bớt tính phản ứng thụ động thì suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực của ta đôi lúc có thể tan ra ngay lập tức như sương sớm trong một ngày đầy nắng.

Làm việc với tâm trí

Nhưng mà chỉ ở cùng với tâm trí thôi chưa đủ. Bạn còn cần phải làm việc với nó, tạo ra các nỗ lực khôn ngoan, nhổ cỏ và trồng hoa. Chỉ thuần quan sát căng thẳng, lo âu, bực dọc
hay một tâm trạng buồn bã sẽ không đào được tận gốc những vấn đề này. Như bạn sẽ thấy trong chương tiếp theo, não ta tiến hóa để học hỏi rất tốt từ các trải nghiệm tiêu cực, và nó lưu trữ chúng trong các cấu trúc thần kinh bền vững. Cũng vậy, chỉ ở đó với tâm trí sẽ không phát triển được lòng biết ơn, nhiệt huyết, lòng chân thật, tính sáng tạo hay nhiều sức mạnh nội tại khác. Các phẩm chất tinh thần này được đặt nền tảng trên các cấu trúc thần kinh sâu bên trong, chúng sẽ không nảy nòi và phát triển một cách tự thân. Thêm nữa, để có thể hoàn toàn ở đó cùng khu vườn tâm trí, bạn cần phải hợp tác với nó để phát triển các sức mạnh nội tại như sự bình tâm và năng lực tự soi chiếu để có thể giúp bản thân bạn cảm nhận toàn bộ cảm xúc của mình cũng như đối mặt với những góc tối bên trong ngay cả khi khó khăn nhất. Bằng không, mở lòng với trải nghiệm sẽ tựa như đang mở ra chiếc nắp hầm dẫn đến Địa ngục.

Giữ tâm tỉnh thức

Bất kể là bạn đang để mọi chuyện như thế, đang buông bỏ hay đang tiếp nhận, hãy luôn tỉnh thức, đơn giản nghĩa là hiện diện trong khoảnh khắc hiện tại từng giây từng phút. Tự thân sự tỉnh thức vốn chỉ có quan sát, nhưng việc quan sát ấy có thể đi kèm nỗ lực có chủ đích hướng tới mục tiêu định hướng tâm trí ta theo hướng này hay hướng khác. Làm việc với tâm trí không mâu thuẫn với sự tỉnh thức. Thực tế là, bạn cần phải làm việc với tâm trí mình mới có thể dựng xây nên sức mạnh nội tại của sự tỉnh thức.

Hãy tỉnh táo với thế giới bên ngoài lẫn thế giới nội tâm của bạn, với cả sự vật sự việc xảy ra chung quanh lẫn cái cách bạn cảm nhận chúng. Tỉnh thức không đơn thuần chỉ là tự nhận thức bản thân. Khi leo núi đá, tôi cực kỳ ý thức về việc người bạn đồng hành hãm dây bảo hộ cho mình và luôn ngoái đầu tìm kiếm tôi đang ở tít bên dưới!

Hệ quả tự nhiên

Khi điều gì đó vất vả hay khó chịu xảy ra – khi một cơn bão ập tới khu vườn của bạn – thì có ba cách vận động tâm trí của mình, giúp đem đến cho bạn một hệ quả từng bước hữu dụng. Đầu tiên, hãy ở đó với trải nghiệm của mình. Quan sát và chấp nhận nó như bản chất của nó, cho dù đau đớn đến mức nào. Thứ hai, khi đến thời điểm – có thể tính bằng giây với một cơn lo âu quen thuộc hay tính bằng tháng bằng năm khi mất đi một người thân yêu – hãy bắt đầu buông bỏ những điều tiêu cực. Ví dụ, hãy thư giãn cơ thể mình để giảm bớt căng thẳng. Thứ ba, một lần nữa khi đến thời điểm, sau khi đã giải tỏa một phần hay toàn bộ sự tiêu cực, hãy thay thế nó với điều gì đó tích cực. Ví dụ, bạn có thể nhớ đến lúc có ai đó trân trọng mình thì cảm giác như thế nào, và ở lại với trải nghiệm ấy chừng mười đến hai mươi giây. Bên cạnh cảm giác tốt đẹp vào lúc đó, bước thứ ba này còn có các ích lợi lâu dài, vì khi bạn đang thu nhận các trải nghiệm tích cực vào trong thì bạn không chỉ đang trồng hoa trong tâm trí mình đâu. Bạn đang gieo trồng các luồng thần kinh mới trong não mình. Bạn đang lập trình hạnh phúc.

Tính mềm dẻo thần kinh dựa trên trải nghiệm

Não bộ là một cơ quan có khả năng học hỏi, cho nên nó được thiết kế để thay đổi bởi trải nghiệm. Điều này đến nay vẫn còn làm tôi kinh ngạc, nhưng mà đó là sự thật: bất cứ điều gì chúng ta cảm giác, cảm nhận và mong muốn cũng như suy nghĩ lặp đi lặp lại, dù là chậm nhưng chắc chắn rằng chúng đang khắc nên một cấu trúc thần kinh. Trong khi bạn đang đọc, một khối mô nặng khoảng 1,5kg trông giống đậu hũ bên trong đầu bạn, bao bọc trong một nghìn tỷ tế bào nâng đỡ, có từ 80 đến 100 tỷ nơ-ron đang phát tín hiệu cho một tế bào khác trong một mạng lưới với nửa triệu tỷ liên kết, được gọi là các khớp thần kinh synapse. Toàn bộ hoạt động thần kinh phức tạp, nhanh chóng và nhộn nhịp này vẫn luôn đang điều chỉnh não bạn liên tục. Các khớp thần kinh năng động trở nên nhạy cảm hơn, các khớp thần kinh mới bắt đầu phát triển chỉ trong vài phút, các trung khu bận rộn được nhận nhiều máu hơn bởi chúng cần nhiều oxy và đường glucose hơn để công tác, và bộ gien bên trong tế bào thần kinh sẽ tắt bật tùy theo nhu cầu. Trong khi đó, các kết nối ít năng động hơn thì bắt đầu tàn lụi đi trong một quá trình mà đôi khi được gọi là thuyết Darwin thần kinh: kẻ sống sót là kẻ bận rộn nhất.

Tất cả hoạt động của tâm trí – hình ảnh và âm thanh, suy nghĩ và cảm giác, ý thức và vô thức – đều đặt nền tảng trên hoạt động thần kinh bên dưới. Quá nhiều hoạt động thần kinh ào ạt chảy qua não như những gợn sóng lăn tăn trên dòng sông, không để lại mấy tác động trên dòng chảy của mình. Nhưng một hoạt động thần kinh có cường độ mạnh, kéo dài hoặc là lặp đi lặp lại – đặc biệt khi nó có tính ý thức – sẽ để lại một dấu ấn lâu bền trong cấu trúc thần kinh, giống như một dòng chảy mạnh mẽ trào dâng làm biến dạng lòng sông vậy. Như người ta bảo trong khoa học thần kinh: tế bào thần kinh nào bắn tín hiệu cho nhau thì liên kết với nhau. Trạng thái tinh thần trở thành nét đặc trưng thần kinh. Từng ngày trôi qua, tâm trí đang đắp nặn bộ não của bạn.

Các nhà khoa học gọi đây là tính mềm dẻo thần kinh dựa trên trải nghiệm, một lĩnh vực nghiên cứu mới khá nổi bật hiện nay. Lấy ví dụ, các tài xế taxi ở London có khả năng ghi nhớ mạng lưới đường sá rối rắm như đĩa mì spaghetti sẽ có những lớp thần kinh dày đặc trong khu hồi hải mã, vùng não giúp hình thành trí nhớ không gian-thị giác; như thể họ đang tập luyện để lên cơ bắp, các tài xế này vận động rèn luyện một vùng não của mình và phát triển mô mới ở đó. Đó là câu chuyện về các tài xế taxi; lại nói về những người thiền tỉnh thức, họ có trong não mình vùng chất xám rất phát triển – nghĩa là một vỏ não dày hơn – trong ba khu vực chính: vỏ não trán trước đằng sau trán kiểm soát sự tập trung; thùy đảo, được dùng để thấu hiểu bản thân và người khác; và hồi hải mã. Trải nghiệm của ta không chỉ phát triển khớp thần kinh mới, vốn đã vô cùng đáng nể, mà một cách nào đấy còn vươn vào trong bộ gien của ta – đến các dải nguyên tử nhỏ bé trên chiếc thang xoắn phân tử DNA bên trong hạt nhân của các tế bào thần kinh – và thay đổi cách chúng vận hành. Ví dụ, nếu bạn thường kỳ luyện tập thư giãn, thì hoạt động của gien có chức năng điều hòa phản ứng căng thẳng sẽ gia tăng, khiến bạn dẻo dai hơn và có năng lực phục hồi tốt hơn.

Thay đổi não bộ theo chiều hướng tốt hơn

Nếu bạn lui một bước để nhìn bao quát các chi tiết khoa học này, sẽ có một thực tế nổi bật lên trước mắt: trải nghiệm của ta có giá trị quan trọng. Không chỉ trong cách chúng ta cảm thấy như thế nào vào thời điểm ấy mà còn trong các dấu hằn bền vững chúng để lại trên não bộ chúng ta. Trải nghiệm của ta về hạnh phúc, phiền muộn, tình yêu, và lo âu có thể tạo nên thay đổi thực thụ trong mạng lưới thần kinh của mình. Quá trình xây dựng cấu trúc hệ thần kinh này được tiếp thêm năng lượng bởi trải nghiệm có ý thức, và đặc biệt bởi những gì hiện diện nổi bật nhất trước nhận thức của bạn. Sự chú ý của bạn giống như là sự kết hợp của đèn pha và máy hút bụi: nó làm bật lên những thứ nó bắt thấy trước mắt và sau đó hút tọt vào não bạn – theo chiều hướng tốt hơn hoặc tệ hơn.

Dân gian có câu rằng tâm trí ta sẽ định hình từ cái mà nó tựa vào. Dựa trên những gì ta học được về tính mềm dẻo thần kinh dựa trên trải nghiệm, một phiên bản hiện đại có thể phát biểu rằng, bộ não ta định hình từ cái mà nó tựa vào. Nếu bạn vẫn tiếp tục đặt tâm trí trên các nền tảng như tự chỉ trích, lo âu, căng thẳng, tổn thương, oán thán người khác, thì não bạn rồi sẽ định hình theo cách thức phản ứng thụ động nhiều hơn, yếu ớt trước lo âu và trầm uất nhiều hơn, tâm trí bạn rồi sẽ chỉ còn tập trung rất hẹp vào các mối nguy hại và mất mát, và có xu hướng thiên về giận dữ, buồn đau và cắn rứt. Ngược lại, nếu bạn đặt tâm trí mình vào những hoàn cảnh và sự kiện tốt đẹp (ai đó tử tế với bạn, bạn vẫn còn nhà để về), cảm giác dễ chịu, những điều bạn đã làm được, những niềm vui về thân thể hay vật chất, và các dự định hay phẩm chất tốt đẹp, thì theo thời gian bộ não của bạn sẽ nhận lấy một hình dạng khác, một hình dạng có sức mạnh và khả năng phục hồi được lập trình, cũng như một cái nhìn lạc quan thực tế, một tâm trạng tích cực, và một cảm giác về giá trị nội tại. Hãy nhìn lại tuần vừa qua hay trước đó nữa, bạn đã đặt tâm trí mình dựa vào đâu là chủ yếu?

Trên thực tế, cái mà bạn chú tâm vào – cái mà bạn đặt tâm trí mình vào – chính là yếu tố định dạng chính cho não bạn. Đúng là có một số thứ tự động bắt lấy sự chú ý của một người – chẳng hạn như một rắc rối ở chỗ làm, một cơn đau trên cơ thể, hay một cơn lo âu nghiêm trọng – nhưng nhìn chung thì bạn có nhiều ảnh hưởng lên những điều mà tâm trí mình để tâm. Điều này có nghĩa là bạn hoàn toàn có thể chủ động kéo dài hay thậm chí là tạo ra các trải nghiệm có khả năng định hình lại não bạn theo cách tốt hơn.

Tôi sẽ chỉ cho bạn cách làm chi tiết, bắt đầu từ Chương 4. Trong khi đó, hãy thoải mái thu nhận điều tốt đẹp vào lòng ngay bây giờ. Phương pháp này, kết hợp với một trải nghiệm tích cực, được cô đọng chỉ trong bốn chữ: có nó, và tận hưởng (nó). Và hãy tự mình chứng kiến điều gì sẽ xảy ra khi bạn làm được.

Các trải nghiệm có lợi cho bạn nhất

Ngẫm thật kỹ về khu vườn tâm trí của mình lúc này, bạn thấy hoa nào nên được gieo trồng? Một số loại trải nghiệm nhất định sẽ có lợi cho bạn nhiều hơn những cái khác.

Đúng là trải nghiệm tiêu cực có thể có giá trị cho một người. Lấy ví dụ, làm việc ca đêm ở nhà máy đóng chai vào một mùa hè khi còn học đại học đã trui rèn tôi thành một người kiên cường. Thế nhưng trải nghiệm tiêu cực tự thân nó mang theo tác dụng phụ tiêu cực, chẳng hạn như sự bực bội về tâm lý hay hệ quả căng thẳng kéo theo về sức khỏe. Chúng còn có thể tạo ra xung đột với người khác, hay làm tệ hơn các xung đột này. Khi vợ chồng tôi mệt mỏi và kiệt sức trong việc nuôi dạy hai đứa con nhỏ, chúng tôi quát nạt nhau thường xuyên hơn. Cái giá của trải nghiệm tiêu cực thường kỳ vượt quá giá trị của nó, và thường thì chẳng có lợi ích gì cả, chỉ toàn là đau đớn chứ không được lợi gì. Cũng bởi tế bào thần kinh nào bắn tín hiệu cho nhau thì liên kết với nhau, cho nên nếu bạn ở lại với trải nghiệm tiêu cực mà đã vượt quá giá trị hữu dụng của nó thì đồng nghĩa với việc chạy đua nhiều vòng ở Địa ngục: bạn đào cái rãnh trong não mỗi lúc một sâu hơn mỗi khi bạn chạy qua nó một vòng lại một vòng.

Ngược lại, trải nghiệm tích cực thì luôn luôn có lợi và ít khi đau đớn. Chúng thường tạo cảm giác tốt đẹp tại thời điểm đó. Thêm nữa, cách trực tiếp nhất để phát triển các sức mạnh nội tại như lòng kiên tâm, cảm giác về bức tranh toàn cảnh, cảm xúc tích cực, và lòng trắc ẩn, đó là có được các trải nghiệm về các sức mạnh này ngay từ đầu. Nếu bạn muốn phát triển lòng biết ơn, hãy đặt tâm trí bạn vào cảm giác biết ơn. Nếu bạn muốn cảm thấy được yêu thương nhiều hơn, hãy tìm kiếm và ở lại với trải nghiệm mà trong đó bạn cảm thấy mình được đón nhận, nhìn nhận, công nhận, được yêu mến, và được bảo bọc. Câu trả lời cho câu hỏi về việc làm thế nào để gieo trồng điều tốt trong tâm trí nằm ở đây: tiếp nhận các trải nghiệm về chúng. Việc ấy sẽ đan bện chúng vào trong não bạn, hình thành các dòng thần kinh về chúng, giúp bạn mang chúng theo bên mình đến mọi nơi.

Bên cạnh việc gieo trồng các sức mạnh nội tại đặc hiệu cho bản thân, việc tiếp nhận điều tốt có những lợi ích tổng quát đi kèm như tính chủ động thay vì bị động, cư xử với bản thân như một người có giá trị, và tăng cường sức tập trung của mình. Thêm nữa, ta sẽ đọc thấy trong Chương 3, theo thời gian bạn có thể dần dần khiến bộ não mình nhạy cảm hơn với trải nghiệm tích cực để chúng trở thành các sức mạnh nội tại nhanh hơn và dễ dàng hơn.

Tính mềm dẻo thần kinh tự định hướng

Một nhà thần kinh học bạn tôi từng mô tả não bộ như một cái “bánh pudding bằng bột năng”. Trông như một đốm nhơm nhớp không có gì hấp dẫn. Thế nhưng nó là cơ quan chủ lực trong cơ thể người và là nguồn lực chính bên trong cho tình trạng lành mạnh của bạn, tính hiệu quả mỗi ngày, sự chữa lành về tâm lý, phát triển cá nhân, tính sáng tạo, và thành công. Bất kể bạn cảm thấy giận dữ hay đang thư giãn, bực bội hay mãn nguyện, cô đơn hay được yêu, tất cả đều phụ thuộc vào mạng lưới thần kinh của bạn. Xa hơn nữa, cách bộ não tương tác chính là cơ sở cho các mối quan hệ đủ đầy, các tổ chức thành công, các quốc gia thịnh vượng, và đích đến sau cùng, là cơ sở cho việc liệu ta có sống trong một thế giới hòa bình và phát triển bền vững hay không.

Khoa học về tính mềm dẻo dựa trên trải nghiệm cho thấy mỗi người đều có năng lực thay đổi bộ não của chính mình theo chiều hướng tốt hơn – và đó được Jeffrey Schwartz gọi là tính mềm dẻo thần kinh tự định hướng. Nếu bạn không lợi dụng sức mạnh này cho mình, thì các thế lực khác sẽ định hình não bạn thay cho bạn, chẳng hạn như áp lực ở chỗ làm hay ở nhà, công nghệ và truyền thông, những người hay thúc ép, tác dụng dai dẳng từ các trải nghiệm đau thương trong quá khứ và kể cả, như ta sẽ xem xét trong chương tới, Mẹ Thiên Nhiên nữa.

Mặt khác, với những cách nhanh, dễ làm và thú vị, trong dòng chảy cuộc sống đời thường của mình, bạn có thể sử dụng quyền năng của tính mềm dẻo thần kinh tự định hướng để xây nên một cảm giác lâu dài về sự thư thái, tự tin, chấp nhận bản thân, lòng tử tế, cảm giác được yêu thương, mãn nguyện, và bình an nội tâm. Về cốt lõi, việc bạn cần làm với những phương pháp trong sách này thực ra rất đơn giản: biến các trải nghiệm tốt đẹp mỗi ngày thành một cấu trúc thần kinh tích cực. Nói một cách công nghệ hơn, đó là: bạn sẽ kích hoạt các trạng thái tinh thần và rồi cài đặt chúng thành các nét đặc trưng thần kinh. Khi cần đến, bạn sẽ có thể rút ra sử dụng các đặc trưng này, khi chúng đã trở thành sức mạnh nội tại của bạn, khi ấy điều tốt đẹp đã được cấy vào tâm trí bạn.

Bạn sẽ sử dụng tâm trí mình để thay đổi não bộ và rồi để não bộ thay đổi tâm trí bạn theo hướng tốt hơn. Từng mẩu một, từng khớp thần kinh một, bạn hoàn toàn có thể xây dựng hạnh phúc vào trong não bộ của mình.

Và bằng cách này, bạn sẽ vượt qua được thiên kiến tiêu cực: não bộ giỏi học hỏi từ trải nghiệm xấu, nhưng kém cỏi trong việc học từ trải nghiệm tốt. Khi bạn đọc chương tiếp theo, bạn sẽ thấy nếu tâm trí là một khu vườn thì “đất” của bộ não sẽ màu mỡ dinh dưỡng cho cỏ hơn là hoa. Vì thế, điều vô cùng quan trọng là ta phải gieo trồng hạt giống sức mạnh nội tại bằng cách liên tục thu nhận điều tốt vào lòng.

THẤM NHẬP VÀO LÒNG

  • Sức mạnh nội tại của một người bao gồm sự bình yên, sự mãn nguyện, và tình yêu, cũng như khả năng phục hồi, tự tin, lòng kiên tâm và tri kiến nội tại. Các sức mạnh này giúp bạn đương đầu với những khó khăn trong đời, hồi phục lại từ căng thẳng, hàn gắn các đau thương cũ, duy trì thể trạng và tinh thần khỏe mạnh, hoàn thành được những điều muốn làm ở nhà cũng như chỗ làm, cũng như có thể nhẫn nại và quan tâm đến người chung quanh.
  • Phần lớn các sức mạnh nội tại được hình thành phát triển theo thời gian. Quyển sách này viết về công cuộc gieo trồng các sức mạnh bên trong thông qua trải nghiệm tích cực, đó chính là lập trình hạnh phúc.
  • Đơn giản quan sát tâm trí của mình đã là một việc cực kỳ hữu ích, nhưng bạn còn cần phải giảm bớt những tiêu cực và gia tăng điều tích cực. Tôi tập trung vào việc gia tăng điều tích cực: trồng hoa trong khu vườn tâm trí. Đồng nghĩa với thay đổi cấu trúc não bộ của bạn.
  • Tất cả hoạt động của tâm trí – hình ảnh và âm thanh, suy nghĩ và cảm giác, ý thức và vô thức – đều đặt nền tảng trên hoạt động thần kinh bên dưới. Hoạt động thần kinh/ tinh thần lặp đi lặp lại đều để lại các thay đổi bền vững trong cấu trúc thần kinh: đó được gọi là tính mềm dẻo thần kinh dựa trên trải nghiệm. Điều này nghĩa là bạn có thể sử dụng tâm trí mình để thay đổi não bộ, và rồi bộ não sẽ thay đổi tâm trí bạn theo hướng tốt hơn.
  • Cách tốt nhất để phát triển niềm hạnh phúc to lớn hơn và các sức mạnh nội tại khác là hãy có trải nghiệm về chúng, sau đó giúp các trạng thái tinh thần tốt đẹp này trở thành các nét đặc trưng thần kinh. Đây chính là nguyên lý của tiếp nhận điều tốt: kích hoạt một trải nghiệm tích cực và cài đặt nó vào trong não bạn.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Voi trong căn phòng – Trích “Fuzz – Khi tự nhiên phạm luật”

Published

on

Trích từ: Fuzz - Khi Tự Nhiên Phạm Luật

Tác giả: Mary Roach

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 04.2025

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

Ngộ sát nơi đường cùng

Ở Ấn Độ có cái gọi là “trại nâng cao nhận thức”. Lần đầu tiên tôi nghe được từ này là từ một nhà nghiên cứu tại Viện Động vật Hoang dã của Ấn Độ, người điều hành các trại nâng cao nhận thức về voi và báo hoa mai. Tôi tưởng tượng ra đấy là một khu trại kiểu Mỹ, với giường tầng và kẹo dẻo, và cố gắng liên tưởng điều này trong đầu với những con vật to lớn, nguy hiểm. Theo lẽ tự nhiên, tôi muốn đến đó. Hóa ra, trại nâng cao nhận thức này giống với ngày nhận thức toàn dân hơn. Tôi từng thấy danh sách các trại nâng cao nhận thức về bệnh sốt xuất huyết, trại nâng cao nhận thức về bệnh tiểu đường, trại nâng cao nhận thức về an toàn giao thông và ít nhất một trại nâng cao nhận thức về chứng ngáy và ngưng thở khi ngủ, nghe khá giống phòng ngủ nhà tôi. Đó là những buổi họp mặt cung cấp thông tin nhằm nâng cao nhận thức về những nguy hiểm mà mọi người có thể không biết rõ hoặc không muốn nghĩ đến và đưa ra hướng dẫn về cách tốt nhất để tránh hoặc sống sót qua các tình huống đó.

Mỗi năm cứ đến tháng Mười hai, Dipanjan Naha, nhà nghiên cứu vừa nhắc ở trên lại khóa cửa văn phòng mình ở Dehradun, dán tấm thẻ THI HÀNH CÔNG VỤ của Chính phủ Ấn Độ trên chiếc xe thuê bốn bánh, rồi bắt đầu chuyến đi trại-nâng-cao-nhận-thức. Năm nay, người em họ Aritra sẽ đi cùng anh với tư cách là trợ lý, và tôi cũng có mặt trong chuyến đi này. Chúng tôi đang khởi hành từ Bắc Bengal – thật khó hiểu, lại là khu vực thuộc Tây Bengal – nơi mỗi năm, voi hoang dã giết chết trung bình 47 người và làm bị thương 164 người khác. Bốn mươi bảy người mỗi năm, trong khu vực có diện tích bằng Connecticut (Khoảng 13.000 km2 - ND). Cơ quan lâm nghiệp Ấn Độ sẽ cho kiểm lâm viên can thiệp các trường hợp này, nhưng họ không giết con voi. Một số kiểm lâm viên sẽ có mặt tại trại nâng cao nhận thức đầu tiên của Naha, ở làng Bamanpokhri. Tôi háo hức muốn biết các hoạt động sẽ diễn ra thế nào.

Bên ngoài cửa kính ô tô là cảnh quan nông nghiệp: đồn điền chè, trang trại cúc vạn thọ, những hàng lúa thẳng tắp cắm sâu vào lòng đất như lông bàn chải đánh răng xơ cứng. Những ngôi làng nhỏ nằm xen kẽ với cánh đồng và khoảnh đất – những ngôi nhà bằng tôn và mái tranh, một ngôi đền, một vài cửa hàng rượu lộ thiên. Đàn bò lang thang trên đường và mấy con dê đen nhỏ đi song song dọc hai bên, nhưng tôi không thấy con vật nào khác, bối cảnh này không hợp lý với lũ voi.

Voi! Naha đảm bảo với tôi rằng chúng không ở đâu xa. Đang là mùa đông, thời điểm các đàn di chuyển trong năm. Chúng kiếm ăn vào ban đêm và ngủ vào ban ngày trong các mảnh gỗ tếch và lal – tàn tích của những khu rừng từng trải dài từ bang Assam của Ấn Độ qua Bắc Bengal đến tận biên giới phía đông của Nepal. Sau đó, “hành lang voi” này bị đứt gãy và thu nhỏ lại, đầu tiên là do nhiều đồn điền chè rộng lớn của người Anh và gần đây là do các căn cứ quân sự và khu định cư của người tị nạn và người nhập cư từ Nepal và Bangladesh. Ngày càng nhiều người đến các khu rừng này để đốn gỗ và chăn thả gia súc, biến môi trường sống của voi thành của người. Trong nỗ lực đi qua vùng đất này, voi phải đối mặt với các rào cản, nguy hiểm, ngõ cụt. Hành lang giờ đã thành trò bắn đạn. Đàn có thể bị cô lập trong một khoảnh rừng sâu biệt lập. Chúng trở thành “những con voi cô lập”. Để voi sống trong một vùng biệt lập là không nên. Vốn gene sẽ bị thoái hóa và mật độ dân số tăng đột biến. Chẳng bao lâu sẽ không có đủ nguồn thức ăn cho chúng nữa. Chúng lang thang vào các ngôi làng để ăn những gì có thể tìm thấy, và đó chính là mùa màng và kho thóc của người dân. Khởi nguồn của xung đột giữa người và voi.

Aritra chỉ ra ngoài cửa sổ khi chúng tôi ngang qua một lối rẽ. “Đi thêm 2 cây số lên con đường đó là nơi voi đã giết chết một người đàn ông. Vào vài ngày trước. Ba người đang làm việc trên đường. Họ bỏ chạy khi nhìn thấy voi, rồi một người bị tách ra, và con voi đi theo anh ta”.

Tôi thấy điều này thật khó tưởng tượng. Tôi lớn lên cùng với chú voi Babar và chương trình National Geographic. Voi là loài hiền lành và chậm chạp. Chúng đi tất và mặc phục trang màu xanh tươi sáng. Chúng chưa bao giờ là loài đáng sợ. Điều này gây ra sự mất kết nối nhỏ giữa tôi và những người tiếp đón mình. Đêm đầu tiên trên đường, chúng tôi ngụ trong ngôi nhà gỗ thuộc sở hữu của chính phủ trong khu rừng tếch ngay dưới đường từ biển báo đánh dấu khu vực voi băng qua. Đầu bếp của ngôi nhà nói rằng anh đã nhìn thấy một con gần cổng vào đêm trước khi chúng tôi đến đây. Phản ứng với thông tin này, tôi thông báo ý định đi dạo. Lúc đó khoảng 7 giờ tối, cách hai tiếng sau khi voi ra ngoài tìm thức ăn và Dipanjan Naha cùng em họ mình dừng lại gần cánh rừng.

“Đừng đi xa quá, Mary”, Aritra nói. Chúng tôi ngồi ngoài hiên uống trà cùng tắc kè và bướm đêm. Aritra có khuôn đầu tròn và tính cách thân thiện, hay cười. Anh dễ dàng chuyển từ vai trợ lý của Naha sang vai người em họ thân thuộc.

Naha cũng không thích kế hoạch của tôi. “Xin hãy hết sức cẩn thận”.

Họ nhìn nhau, rồi đặt cốc xuống và đứng dậy đi theo tôi.

Chúng tôi đi xa đến tận đường ray xe lửa ở cuối đường lái xe. Naha kể đôi lời về lịch sử đường sắt khổ hẹp ở Ấn. Chúng tôi đứng lại vài phút, như thể đợi một chuyến tàu. Aritra dùng chân mân mê hòn sỏi giữa các thanh ray. “Hãy trở lại bên trong”.

--

Để đánh giá đúng hơn mức độ nguy hiểm của cuộc đụng độ ngoài ý muốn với voi, hãy ngồi lại với người điều tra các vụ tử vong. Saroj Raj là sĩ quan kiểm lâm của Bamanpokhri Beat – cơ quan lâm nghiệp địa phương, nơi mỗi năm kể từ năm 2016 đều có người bị voi giết chết.

Sĩ quan Raj đã đến nhà cộng đồng chỉ gồm một căn phòng của Bamanpokhri – địa điểm của trại nâng cao nhận thức hôm nay – để nói chuyện với mọi người và trả lời các câu hỏi. Cho đến giờ chỉ có mình tôi đặt câu hỏi. Có vẻ những người có mặt đúng giờ ở đây đều do buộc phải đến. Người tham dự gồm một nhóm học sinh mặc đồng phục kẻ sọc và nửa tá kiểm lâm viên đến từ các đội động vật hoang dã địa phương. Naha không bận tâm. Đang là kỳ Diwali – tuần nghỉ lễ – và bây giờ đang là giờ sau bữa trưa. “Nên họ rất miễn cưỡng phải đến đây”.

Sĩ quan Raj cho tôi biết chi tiết về những trường hợp tử vong gần đây nhất. Mỗi lần anh đều bắt đầu với ngày chính xác. Cảm giác rằng có rất nhiều giấy tờ. “Ngày 31 tháng Mười năm 2018. Ba công nhân đang làm đường.” Nơi chúng tôi đã đi qua trước đó. “Đột nhiên một con voi xuất hiện.”

Một con voi có thể đáng sợ hơn nhiều con. Đàn voi gồm những con cái trưởng thành và voi con, những người bạn to xác yêu hòa bình của tuổi thơ tôi. Voi sống cô độc thường là voi đực và voi đực có thể gây rắc rối. Voi đực trải qua giai đoạn rối loạn nội tiết tố định kỳ gọi là musth, khi mức testosterone của chúng tăng cao gấp mười lần so với những thời điểm khác. Điều này mang lại cho chúng lợi thế cạnh tranh với những con đực khác và với voi cái đầu đàn, nhưng cũng có một mức độ thất thường nào đó. Theo cách nói của chuyên gia về voi châu Á Jayantha Jayewardene, trạng thái musth trải dài gồm “dễ nổi cáu” đến “khuynh hướng tấn công hay phá hoại” đối với những con voi khác và con người, “thậm chí cả những vật vô tri vô giác”. Dân làng biết điều này. Sĩ quan Raj nói: “Những người đàn ông đã cố trốn vào bụi rậm. “Một người không may bị ngã.”

Sĩ quan Raj cung cấp chi tiết mà Aritra đã cẩn thận bỏ qua. Con voi giẫm lên đầu người đàn ông. Với cân nặng 3 tấn, con voi chỉ cần giẫm hoặc quỳ lên một người – hay (vào năm 1992) trong trường hợp voi diễn xiếc nổi giận thực hiện động tác trồng cây chuối lên nạn nhân – thì đúng là cách giết người hiệu quả. Nhưng dựa trên dấu chân và sự xáo trộn của thảm thực vật xung quanh trong trường hợp này, quyết định của Sĩ quan Raj chính là chết do tai nạn.

“Ngày 16 tháng Mười năm 2016. Cũng là một tai nạn.” Một người đàn ông đang trèo lên bờ sông thì gặp một con voi. Sĩ quan Raj nhớ lại: “Chỗ đó trơn trượt. Cả hai đều trượt xuống bờ sông. Con voi lăn qua người anh ta.” Đôi khi voi giết người y như cách của ô tô: một thứ to lớn lao tới hoặc cán qua thứ gì đó nhỏ hơn nhiều. (Những người chăm sóc voi cố gắng không chen vào giữa bức tường và con voi.) (Tại sở thú nơi tôi làm việc ở độ tuổi 20, mức lương cho người trông giữ voi cao hơn một chút so với những người chăm sóc các động vật khác – mặc dù không phải vì rủi ro. Cô ấy được trả một khoản “bồi thường phân” vì phải xúc phân quá nhiều. Như thế cũng đúng. Theo tài liệu Smithsonian Contributions to Zoology (Cống hiến Smithsonian cho ngành Động vật học) năm 1973, một con voi châu Á đi vệ sinh 18 đến 20 lần trong ngày, thải ra “4 đến 7 cục phân” nặng khoảng 1,8kg mỗi lần, với sản lượng hằng ngày hơn 180kg. - TG)

Sĩ quan Raj nói: “Những con voi này không có ý định giết người.” Làm sao anh biết được? Bởi vì xác còn nguyên vẹn. “Nếu voi thật sự tức giận, cái xác sẽ không còn nguyên mà sẽ bị xé nát thành nhiều mảnh.” Một cuốn sách của Jayantha Jayewardene liệt kê danh sách ghi lại chín cách thức mà một con voi giận dữ hoặc hung hãn giết người. “Đặt một chân trước lên một chi của nạn nhân và dùng vòi xé toạc chân kia” là cách số 3. (Voi sử dụng kỹ thuật neo và kéo tương tự khi tước cành lá một bụi cây bị bật gốc để ăn.) Người ta cho rằng tầng lớp cai trị ở Tích Lan (nay là Sri Lanka) vào những năm 1600 đã tận dụng hành vi tự nhiên này nhằm huấn luyện voi làm đao phủ. Bản in khắc từ cuốn Mối quan hệ lịch sử của Đảo Ceylon đã mô tả một con voi như vậy. Một chân trước đặt trên thân của nạn nhân, còn vòi quấn quanh chân trái đang giơ lên của người đàn ông. Nếu không có chú thích (“Cuộc hành quyết bởi một con voi”) và cánh tay nát tả tơi ở phía trước, bạn có thể lầm tưởng rằng các quốc vương Tích Lan đã huấn luyện voi phục vụ như hộ vệ.

Phần trình bày nâng cao nhận thức của Naha sẽ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tránh khiến cho một con voi khó chịu. Điều này được tóm tắt trong mục 20 trên áp phích “Những phương pháp tốt nhất để giảm thiểu xung đột giữa người và voi” mà Aritra vừa treo trên tường của nhà cộng đồng: “Không được hành động theo kiểu Rambo!”. Bắn voi không chỉ bất hợp pháp mà còn vô nghĩa, tùy thuộc vào cỡ nòng của vũ khí. Tại Palm Bay, Florida, voi Janet đã chịu được 55 phát đạn bắn ra từ khẩu súng lục ổ quay 9mm của các sĩ quan cảnh sát cũng như loạt súng đầu tiên do một sĩ quan SWAT đang ngoài giờ thi hành nhiệm vụ bắn với loại đạn thiết kế nhằm xuyên thủng cả xe bọc thép. (Loạt đạn thứ hai đã khuất phục con voi này.) (Vào ngày 1/2/1992 tại rạp xiếc Great American ở Palm Bay, Florida, một con voi tên Janet đã mất kiểm soát khi đang chở một người mẹ cùng hai đứa con của bà và ba đứa trẻ khác. - ND)

Khi nhìn thấy một con voi hoặc đàn voi trong khu vực, điều an toàn mà dân thường có thể làm là gọi đến đường dây nóng 24/7 để đội chuyên trách về voi của Sĩ quan Raj xử lý. Đội biết voi là động vật có tính xã hội nên chúng sẽ bình tĩnh hơn nếu bị dồn đi theo đàn. Các kiểm lâm viên dồn chúng vào từ các phía, giống như người chăn bò, di chuyển cả nhóm về hướng khu rừng nơi chúng sinh sống. Lúc này, động vật trong rừng đã nhận ra âm thanh của đoàn xe lùa voi. “Chúng tôi lái xe vào khu vực, và chúng rời đi.” Sĩ quan Raj khẽ mỉm cười. Anh không phải người hay cười. “Điểm này có lợi cho chúng tôi.”

Sĩ quan Raj khiến việc tuần tra voi nghe như kiểm soát an ninh ở trung tâm thương mại, nhưng rõ ràng có nhiều rủi ro. Một sĩ quan tuần tra ngồi cùng chúng tôi đã bị buộc tội bốn lần. “Họ nói bạn không được chạy,” anh nói. “Và phải nói thật với cô, rất khó làm thế khi con voi đang lao thẳng vào mình!” Đề nghị đi cùng của tôi bị từ chối, và lần thứ hai cũng vậy. Vẻ mặt của Sĩ quan Raj cho thấy tôi đã trở thành một “chuyện phiền toái”, nên tôi đành từ bỏ.

Nếu có, thương vong thường xảy ra trong nửa giờ hoặc hơn trước khi đội đến nơi. Khi phát hiện voi phá hoại mùa màng của mình, dân làng chạy ra khỏi nhà, la hét, ném đá, đốt đuốc và đốt pháo (Lửa thường làm voi hoảng sợ và bom đạn đã hạn chế tính hữu dụng của voi trong chiến tranh. Mặc dù nhìn từ xa, hình ảnh những “chiến tượng” mặc áo giáp với thanh kiếm buộc vào vòi mang lại lợi thế về mặt tâm lý, nhưng điều này nhanh chóng biến mất khi hai bên xích lại gần nhau hơn. Các tài liệu ghi chép rằng voi quay đầu và bỏ đội hình khi nghe tiếng súng hỏa mai hoặc thấy những mũi tên rực lửa. Một con voi bỏ chạy, vung kiếm xông vào đội quân của chính mình có thể gây ra nhiều thương vong tương tự điều chúng có thể gây ra cho kẻ thù. - TG). Một ngôi làng có thể có những “người chăn voi” tự do chuyên dùng chày và thực hiện các biện pháp dân gian không được khuyến khích khác. Voi đực và voi cái đầu đàn có thể lao vào phòng thủ, còn các con voi cái và voi con bình thường vốn điềm tĩnh thì có thể hoảng sợ và giẫm đạp. Trong bóng tối của cánh đồng, con người dễ vấp ngã và voi lại không thấy đường để chạy và, như mẹ tôi thường nói, sẽ có ai đó bị thương.

Sĩ quan Raj nói: “Dẫn voi là việc dễ dàng. Hướng dẫn mọi người mới là việc khó khăn. Họ không để tâm lắng nghe.” Họ khó chịu và điều đó cũng dễ hiểu. Nông dân trong làng làm việc quần quật và không dư dả nhiều. Một con voi châu Á có thể tiêu thụ đến 136 kg thực vật trong ngày. Trong lúc đột kích và giẫm đạp, một đàn voi nhỏ có thể nhanh chóng ngốn hết công sức lao động và sinh kế cả một vụ mùa.

Một con voi giữa cánh đồng là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy hành động thiếu khôn ngoan. Naha cho biết, đưa ra phán đoán lung tung và thiếu khả năng kiểm soát xung lực của cơn cuồng loạn có thể dẫn đến kết cục rất thảm khốc. Anh ngồi xổm trước cái loa, gỡ một đống dây điện. “Đây là những gì chúng tôi thấy. Một nhóm người say rượu. Có người muốn làm anh hùng nên đi tới trước mặt con vật, quấy rối nó và để tự vệ, con vật đó...” Naha cũng tránh động từ giết khi hạ giọng đầy ngụ ý. “Tai nạn đã xảy ra”. Theo dữ liệu của anh, 36% số người bị voi giết ở Bắc Bengal từ năm 2006 đến năm 2016 là lúc đang say rượu. Về sau, tôi thấy dòng tiêu đề này trên tờ Hindustan Times: “Người đàn ông say rượu thách thức đàn voi, bị giẫm chết ở Jharkhand” (Jharkhand giáp Tây Bengal). “Anh ta đã cố gắng chiến đấu với chúng”, một nhân viên kiểm lâm nói với phóng viên. “Chúng” ở đây là mười tám con voi.

Nguy thay, voi cũng thích chè chén. Ở Bắc Bengal, voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. (Vì voi thiếu enzyme chính để phân hủy ethanol nên cần lượng ít hơn bạn nghĩ). Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng – thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn.

Có dữ liệu củng cố cho các nhận xét của Sĩ quan Raj. Năm 1984, trong một nghiên cứu tại Khoa Tâm thần và Khoa học Hành vi Sinh học UCLA, ba con voi châu Á “không có tiền sử sử dụng rượu” và bảy con voi châu Phi từ Lion Country Safari đã được phục vụ một “thùng phuy lớn” nước có cồn. Các con vật này sau đó có xu hướng đi lang thang, rời xa đàn. Chúng đứng hoặc nghiêng mình, nhắm mắt lại hoặc “quấn vòi quanh mình”. Chúng bỏ bữa. Chúng không buồn tắm. Voi cái đầu đàn trở nên to tiếng và hung dữ hơn, cũng như con voi đực tên Congo.

Để ngăn voi uống rượu và say xỉn, có thể dân làng sẽ kéo rượu mạnh vào trong nhà. Một ý tưởng khủng khiếp. Vì giờ người ta không phải lo lắng về những con voi say xỉn mà là những con voi quyết tâm say xỉn – tức là những con voi ngửi thấy mùi rượu trong nhà và thấy chẳng có lý do gì lại không đập bỏ một bức tường để vào uống. Trong khảo sát của Naha, trong các vụ thương vong do voi gây ra, 8% người dân Bắc Bengal bị giết khi đang ngủ.

Ghế ngồi đã được lấp đầy gần hết và Naha cầm micro lên để bắt đầu bài nói của mình. Tất nhiên, anh nói bằng tiếng Hindi nên Aritra sẽ phiên dịch, thỉnh thoảng cúi sang và khum tay vào tai tôi để nói một câu đơn với nhịp điệu dứt khoát, bí hiểm. “Đã say thì không nên đi trước voi”. “Luôn luôn phải đi phía sau voi.”

Naha là một diễn giả biểu cảm với vốn từ vựng trôi chảy về cử chỉ tay. Tôi không ngờ tới điều này. Ngoài sân khấu, anh là người tiết kiệm cả chuyển động lẫn lời nói. Anh đứng với đôi vai vuông vức và bàn chân hướng ra ngoài như để tạo một chỗ dựa vững chắc. Anh giống người đàn ông tôi vẫn thường thấy trên các biển quảng cáo Xi măng Ambuja, dáng đứng vững vàng và bình thản với cả đập thủy điện ầm ầm trong tay. Tôi đã nghe anh nói “Tôi từng bị một con hổ đuổi theo” với giọng điệu như thường ngày bạn hay tôi vẫn nói “Tôi từng ở Omaha”.

Triết lý đằng sau trại nâng cao nhận thức rất đơn giản. Nếu muốn tiếp cận ai đó, hãy nói chuyện với họ khi họ đang thoải mái và tỉnh táo. Cho họ ngồi xuống và để Aritra phục vụ họ một tách trà và samosa. Mọi người càng hiểu rõ về đặc điểm sinh học của voi và hành vi của đàn voi thì các cuộc chạm trán càng an toàn. Mấu chốt là phải giữ bình tĩnh và cho con vật không gian. Đặc biệt là voi mẹ đi cùng con, đặc biệt hơn nữa là voi đực đơn độc, và đặc biệt hơn hơn nữa là voi đực đang kỳ musth. (Một số đặc điểm nổi bật của kỳ musth, nhờ được Jayantha Jayewardene hỗ trợ thông tin: các tuyến trên thái dương tiết rỉ nhiều, cương cứng thường xuyên và “đôi mắt yêu tinh mở to hoàn toàn với nhãn cầu di chuyển”.)

Có một điểm khác cần phải nhấn mạnh với mọi người. Sĩ quan Raj đã đề cập đến trước đó, khi chúng tôi trò chuyện: “Con người chúng ta, đang làm phiền chúng.”

Bối rối thay, điều này bao gồm cả công việc chuyên môn của các chuyên gia như Sĩ quan Raj. Chăn dẫn voi về khu rừng gần nhất mang lại lợi ích tức khắc cho dân làng nhưng về lâu dài, Naha nói với tôi, việc này khiến vấn đề trầm trọng hơn. Vì điều này chọc tức voi. Chúng bắt đầu gán con người với nỗi lo lắng và thiếu thốn khi bị đuổi đi đương lúc kiếm ăn. Chúng bắt đầu kiên quyết hơn để bảo vệ mình. Báo cáo từ các khu vực có xung đột ở bang Assam lân cận cho biết voi cái đang bắt đầu trở nên hung dữ y như voi đực.

Naha tin rằng một hệ thống tốt hơn sẽ kết hợp các cảm biến để phát hiện đàn voi đang tiếp cận. Cảnh báo được gửi tới các trưởng làng và các đội phản ứng địa phương đã qua đào tạo, họ sẽ theo dõi tình hình và cố gắng can thiệp trước khi ruộng nương bị giẫm đạp và sự hỗn loạn nổ ra. Naha không có ý nhắc đến cảm biến chuyển động hay cảm biến nhiệt, cả hai đều kích hoạt với các động vật hữu nhũ khác. Ý anh là cảm biến địa chấn: loại được kích hoạt bởi các rung động mạnh đến mức chỉ có tiếng bước chân của một con voi (hoặc động đất nhỏ) mới làm được. Trong khi đó, điều bạn có thể làm để giảm bớt gánh nặng cho nhân loại: tiếp tục nỗ lực khôi phục rừng và để yên cho các khu bảo tồn.

--

Phó quản lý của đồn điền trà Gopalpur mặc quần short dài gọn gàng và đi giày thể thao phồng màu neon. Đầu nghiêng ra sau khiến anh trông có vẻ xa cách, hoặc chỉ vì anh cần một cặp kính mới. Anh ra chào khi chúng tôi lái xe vào. Trại nâng cao nhận thức dành cho công nhân, điểm dừng chân thứ hai của chúng tôi trong tuần này, dự kiến sẽ bắt đầu sau nửa giờ nữa. Nhưng trước tiên phải làm một tách trà đã.

Phó quản lý là dạng người của những con số. Anh nói, khu đất này rộng 1.200 mẫu Anh và đặt các tách trà trước mặt chúng tôi. Hai nghìn một trăm công nhân thu hoạch lá trà. Chúng tôi vừa lắng nghe vừa nhấm nháp, rồi anh dẫn chúng tôi ra khỏi cửa và băng qua đường, đến một cái rạp mở nơi Naha sẽ diễn thuyết.

Công nhân đã đến rồi. Họ xem qua tờ rơi để trên mỗi cái ghế, đặt trong loại túi nhựa trong có thể đóng lại được (tên thương hiệu: My Clear Bag). Phụ nữ ngồi một bên, tách biệt với nam giới. Naha loay hoay với hệ thống âm thanh, cửu vật từ thời xưa trước khi có phim phát trực tuyến, khi điền trang này mời đến các ban nhạc sống phục vụ hoạt động giải trí cuối tuần.

Trời nóng và ẩm ướt. Các quản lý đồn điền đến muộn. Công nhân dùng cái túi trong suốt của mình để quạt. Thời gian trôi qua. Có người từ nhà phó quản lý mang khay tới. Thêm trà! Phần của chúng tôi được phục vụ trong cốc sứ có kèm đĩa. Các công nhân thì nhấp từng ngụm từ cốc giấy – loại cốc nhỏ không lớn hơn ly uống rượu. Tôi chỉ muốn nói, Gì vậy trời, các vị có đến 1.200 mẫu đất cơ mà.

Các quản lý đã đến! Những chiếc SUV như xe biệt đội, lao nhanh và phanh gấp. Cửa xe mở ra và đóng sầm lại, và các quản lý, tổng cộng năm người, bước vào hiện trường. Các công nhân đồng loạt đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Thay vì ngồi cùng Aritra và tôi trên ghế khán giả, các quản lý lại bước lên một dãy bàn đặt trên sân khấu. Họ mở những chai nước được đặt ở chỗ ngồi của mình cùng sổ ghi chú và bút. Trên sân khấu đa dạng đến ngạc nhiên các bộ ria mép.

Các quản lý lần lượt cầm micro. Aritra hét lên phần dịch của mình át hẳn tiếng loa âm lượng cỡ sảnh khiêu vũ. Người quản lý đầu tiên nhấn mạnh các công nhân phải chú ý, vì ta ở gần sông và rừng nên sẽ gặp vấn đề với voi. Anh đưa mic cho quản lý bên cạnh, người này vạch ra chiến lược ngăn chặn voi hiện tại của đồn điền: một đội tuần tra bằng máy kéo, đốt pháo khi cần thiết. Micro tiếp tục chuyến hành trình của mình. Quản lý tiếp theo lại là anh chàng của các con số. Trong 12 năm anh ta làm việc ở đây, có bảy hay tám người đã bị voi giết chết.

Cuối cùng micro được trao cho Naha. Trên thực tế, các công nhân rất chú ý lắng nghe, chăm chú đến mức tôi tự hỏi liệu họ có bị phạt nếu nhìn đi chỗ khác hay không. Còn các quản lý lại thì thầm với nhau và lén nhìn điện thoại đặt trong lòng. Một người nhận cuộc gọi, đưa tay che ngang điện thoại như thể, giống như ợ hơi, hành vi đó sẽ đỡ thô lỗ hơn.

Khi phần trình bày kết thúc, Naha mời các công nhân tham gia đặt câu hỏi và nhận xét. Một người hái trà ngay lập tức đứng dậy khỏi ghế. Cô ấy lớn tuổi hơn nhiều người, có lẽ đã 50 và ăn mặc giống mọi phụ nữ ở đây, bộ sari có hoa văn sặc sỡ như khi làm việc trên đồng. Aritra nhảy lên định đưa mic cho cô nhưng cô không cần. Sự tức giận của cô đủ biến thành một bộ khuếch đại. Bộ sậu ria mép ngồi không yên trên ghế.

Aritra tiếp tục dịch. “Các vị bảo chúng tôi thay đổi cây trồng,” người phụ nữ nói, ám chỉ những khu vườn nhỏ của công nhân. “Từ ngô, gạo thành gừng, ớt, những thứ voi không thích. Nhưng chúng tôi trồng ngô và lúa để nuôi sống chính mình. Ngoài ra, khi máy kéo đi rồi, voi sẽ quay lại, lần nữa, lần nữa. Voi cần rất nhiều thức ăn.” Người phụ nữ lại ngồi xuống. “Ta cần các biện pháp khác.”

Cô ấy nói đúng, nhưng giải pháp tốt thường khó thi hành. Trên thực tế, các biện pháp mà trực giác thấy hiển nhiên lại bị hạn chế do chi phí và các vấn đề có thể phát sinh. Hàng rào điện là một ví dụ. Cần đủ lượng để xua đuổi các đàn voi, nhưng không được quá nhiều đến mức cản trở quá trình di cư của chúng. Việc duy trì và sửa chữa các dải hàng rào dài rất tốn thời gian, tốn tiền và thường không hoàn thiện. Hoặc thực hiện sai. Điện áp phải đủ cao để khiến voi nản lòng nhưng không cao đến mức khiến nó bị điện giật. Trung bình mỗi năm có 50 con voi bị điện giật chết ở Ấn Độ.

Và một thách thức đáng kể là trí thông minh của loài voi. Một con voi Ấn Độ khi đối mặt với hàng rào điện có thể sẽ sớm tìm ra cách vượt qua mà không bị điện giật. Nó sẽ nhận ra rằng gỗ không dẫn điện. Nó sẽ đẩy cột xuống hoặc sẽ nhặt một khúc gỗ và dùng nó để đè dây xuống cho con khác bước qua.

Không phải lúc nào trí thông minh cũng có lợi cho voi. Trong lịch sử, voi đã luôn bị bắt làm việc cho quân đội Ấn và gần đây là ngành công nghiệp khai thác gỗ. Chúng được đối đãi như các nhân viên, theo đó Sở lâm nghiệp ghi lại số giờ làm việc của chúng vào sổ đăng ký công việc. Những “công nhân voi” này tất nhiên không được trả lương, nhưng Naha nói với tôi, ở tuổi 50, chúng được hưởng “lương hưu” dưới hình thức chỗ nghỉ hưu tại một pikhana (chuồng voi) với ba bữa ăn và tắm rửa mỗi ngày, kèm theo xoa bóp bằng dầu.

Khi mọi người đứng dậy khỏi ghế để rời đi, tôi nhờ Aritra giới thiệu mình với người phụ nữ đã dám lên tiếng lúc nãy. Tên cô ấy là Padma. Cô phiền muộn là có lý do. Một tuần trước, cô thức dậy lúc 4h30 sáng và thấy một con voi đã dỡ tường và ăn hết số ngũ cốc cô bán trong một quán rượu nhỏ ở khu công nhân. Cô vẫn chưa nhận được tiền bồi thường từ điền trang.

Một nhóm nhỏ các quản lý lượn lờ trong tầm nghe. Một người đứng ra đánh lạc hướng cuộc trò chuyện. “Xin chào, cô đến từ Mỹ, con trai tôi làm việc ở Memphis, khách sạn hạng nhất, cô có biết khách sạn Memphis không?” Quả thực tôi biết khách sạn này, những con vịt đi xuống cầu thang ở sảnh mà không vì lý do rõ ràng nào liên quan đến vịt hay khách sạn. Tôi tập trung vào Padma. (Truyền thống về những chú vịt ở đài phun nước The Peabody: Những năm 1930, Frank Schutt, Tổng giám đốc của The Peabody và một người bạn, Chip Barwick, trở về sau chuyến đi săn cuối tuần đến Arkansas. Họ đã uống quá nhiều rượu whisky và nghĩ rằng sẽ rất buồn cười nếu đặt một số mồi nhử vịt sống của họ (lúc đó những người thợ săn sử dụng mồi nhử sống là hợp pháp) trong đài phun nước Peabody xinh đẹp. Ba chú vịt nhỏ được chọn làm “chuột lang” và phản ứng không kém phần nhiệt tình. Từ đó bắt đầu một truyền thống đã trở nên nổi tiếng trên thế giới. Năm 1940, Bellman Pembroke, cựu huấn luyện viên động vật ở rạp xiếc, đã đề nghị giúp đưa những con vịt đến đài phun nước mỗi ngày và dạy chúng trò diễu hành Vịt Peabody nổi tiếng hiện nay. Ông Pembroke trở thành Peabody Duckmaster, phục vụ với cương vị đó trong 50 năm cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1991. Gần 90 năm sau cuộc tuần hành khai mạc, đàn vịt vẫn ghé thăm đài phun nước ở sảnh từ 11 giờ sáng đến 5 giờ chiều mỗi ngày. - ND)

Aritra tiếp tục dịch. “Đây là lần thứ hai chuyện này xảy ra với cô ấy.”

Người quản lý vẫn tiếp tục: “Năm giờ vịt đi xuống...”

Naha tham gia cùng chúng tôi. Anh đề xuất chúng tôi lái xe đến khu công nhân để xem đống đổ nát ở cửa hàng của Padma. Các quản lý trao nhau những cái nhìn cấp thiết, nhưng đã quá muộn. Chúng tôi chen vào xe với Padma và quay đi.

Tiệm tạp hóa nhỏ bé không hẳn bị cướp phá mà bị san bằng. Một bức tường tôn nằm ọp ẹp bên dưới dầm đỡ bằng bê tông. Lần trước, một con voi đột nhập vào nhà Padma khi cô đang ngủ. Đây là ví dụ khi “con voi trong phòng” không phải là phép ẩn dụ; khi chuyện đùa về voi không phải là chuyện đùa. Voi “đậu” trên hàng rào nhà bạn lúc mấy giờ? Có lẽ là khoảng 11 giờ đêm.

Voi là loài ăn thực vật nhưng chúng không hề kén ăn. Chúng sẽ ăn hầu hết các bộ phận của cây – hạt, cỏ và lá, thân, cành, vỏ cây. Năm 2017, tại một đồn điền trà ở Sonitpur thuộc quận Assam, ba con voi hoang dã đột nhập vào cửa hàng của công nhân vào lúc 2 giờ sáng và lấy sản phẩm làm từ sợi bông có tên là rupee. Chúng đập hộp đựng tiền và ăn sạch 26.000 rupee mệnh giá lớn.

Một thứ mà voi Ấn Độ không ăn là lá trà. Ai ở đây cũng thích uống trà nhưng rất ít ai, dù là người hay thú, thích ăn trà. Lá trà quá đắng. Các thiệt hại nhỏ về mùa màng xảy ra khi voi giẫm nát cây cối lúc đi qua khu đất, nhưng nhìn chung, người chịu thiệt là công nhân chứ không phải chủ sở hữu và quản lý.

Tuy nhiên, Padma và các đồng nghiệp nói rằng họ không tức giận những con voi. Bảy mươi lăm phần trăm số người được Naha phỏng vấn về việc voi đến làng mình đều có cảm xúc tích cực với chúng. Với số lượng thương vong và phá hoại do voi gây ra ở Bắc Bengal, số lượng các vụ giết voi trả thù lại hiếm tới mức ngạc nhiên. Naha cho biết chỉ có 3-5 con voi bị vậy mỗi năm.

Với sự giúp đỡ của Aritra, tôi kể cho Padma nghe điều xảy ra với thú có vú lớn ở Hoa Kỳ khi chúng gây thương tích cho con người hoặc dám đột nhập vào nhà. Tôi hỏi cô ấy liệu những người cô biết có bao giờ bày tỏ mong muốn giết một con voi đột nhập vào nhà hoặc cửa hàng của mình không. “Sao bạn lại giết một vị thần?” cô ấy nói, ám chỉ vị thần Hindu đầu voi Ganesh. “Chúng tôi chỉ nói, ‘Namaste và làm ơn đi đi.’”

Padma dẫn chúng tôi ra cánh đồng trà hiện đang mùa thu hoạch. Công nhân hái trà trải dọc theo các hàng, làm việc trên những bụi cây cao ngang lưng. Chỉ lá non xanh tươi mới được hái. Các công nhân làm tôi nhớ đến những người đánh trống, đứng yên với cánh tay di chuyển nhanh như điện. Họ buộc phải nhanh như vậy. Nếu không đáp ứng được hạn ngạch đã đặt ra, họ sẽ bị trừ lương.

Naha cúi xuống chỉ cho tôi khoảng trống bên dưới bụi trà. Người hái trà đôi khi gây bất ngờ cho một con báo cái đang nằm trong bóng râm cùng đàn con. Có thể con vật hoảng sợ thức dậy và nếu cảm thấy bị dồn vào chân tường hoặc bị đe dọa, nó sẽ lao vào người công nhân. Hiếm có ai tử vong, nhưng vẫn có thương tích. Chín mươi phần trăm các cuộc tấn công của báo hoa mai ở Bắc Bengal xảy ra trong các đồn điền trà.

Chúng tôi quan sát cánh phụ nữ làm việc. Khi hái đầy tay, họ thò tay ra sau đầu để nhét lá vào bao vải đeo trên trán. Bây giờ tôi đã hiểu tại sao Padma trước đó lại rất quan tâm đến chiếc ba lô của tôi. Bạn sẽ thấy rằng các quản lý có thể tìm mua những chiếc túi chuyên dụng phù hợp hơn cho nhiệm vụ của họ. Tôi nói điều này với Naha.

Anh xắn tay áo lên. “Họ được trả 150 rupee một ngày.” Số tiền này thấp hơn giá một ly cà phê cappuccino tại sân bay Delhi. “Đây là tâm lý thuộc địa. Họ chính là những người lao động thuộc bộ lạc mà người Anh đã mang đến từ miền trung Ấn Độ. Người ta thuê họ vì cho rằng họ chăm chỉ và ngoan ngoãn.”

Khi Naha kể cho tôi nghe về sổ đăng ký công việc dành cho động vật, về những chú voi đã nghỉ hưu và chế độ tắm cho chúng, ban đầu tôi rất ấn tượng. Chính phủ ở đây đảm bảo cho động vật làm việc hưởng một số lợi ích tương tự như người lao động bình thường. Bây giờ, nhìn cách người ta đối xử với người hái trà, lối đối xử hợp pháp, thì đánh giá của tôi không còn lạc quan nữa. Tùy thuộc vào giống loài, tôn giáo, giới tính và đẳng cấp của mình, có thể Ấn Độ là nơi làm động vật tốt hơn làm người. Vào năm 2019, chính quyền Delhi công bố kế hoạch cải tạo một trong năm khu bảo tồn mà họ duy trì dành cho những con bò linh thiêng vốn được thả rông, cản trở giao thông của thành phố. Có lẽ để đáp lại chỉ trích rằng thành phố chăm sóc bò tốt hơn người dân, Sở trưởng Sở Chăn nuôi của thành phố đã thông báo: “Chúng tôi đang lên kế hoạch cho một chương trình chung sống độc đáo, nơi người già sẽ được phép ở cùng đàn bò”.

Gần đây mọi chuyện đã trở nên cực đoan hơn. Thủ tướng hiện tại, Narendra Modi lên nắm quyền nhờ sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Hindu. Đây là người đã ban tặng địa vị nhân cách (tư cách pháp nhân) cho sông Hằng. Một dòng sông được bảo vệ nhân quyền, trong khi phụ nữ như Padma kiếm được 150 rupee mỗi ngày và người Hồi giáo bị hành hình vì bán thịt bò.

Khi chúng tôi lên xe để đi, phó quản đốc chạy tới hai tay ôm đầy những chiếc túi Mylar: nửa cân trà cho mỗi người chúng tôi. Aritra cảm ơn anh rồi quay sang Naha khi xe đang chạy. “Đó là CTC.” (Từ viết tắt chỉ một phương pháp xử lý trà.) Với tôi, anh giải thích, “Loại rẻ nhất.”

--

Động vật hoang dã là chủ đề của Khu du lịch Jaldapara thuộc sở hữu của chính phủ, nơi tôi sẽ ở lại tối nay. Khuôn viên gồm mô hình thạch cao kích thước thật các loài động vật hoang dã địa phương. Nhiều tượng đã đổ hoặc có bộ phận bị gãy nằm ngay chỗ đã rơi xuống, trên bãi cỏ được cắt tỉa cẩn thận đến phi lý. Toàn bộ khoảng sân mang đến cảm giác một sân gôn thu nhỏ sau khi có một băng say rượu đến chơi gôn, đánh bại những con vật kỳ quái bằng bóng hoặc gậy đánh gôn.

Tôi yêu nơi này, yêu sự suy tàn siêu thực của nó, yêu người nhân viên không biết bữa sáng được phục vụ ở đâu hay ngay cả chuyện có bữa sáng hay không, thực sự yêu mọi thứ, ngoại trừ phân chuột trên ban công phòng mình. Tôi cố gắng tưởng tượng điều gì có thể thu hút chuột, nơi ban công không có thức ăn và bất cứ gì để làm tổ và thậm chí không có cả tầm nhìn rộng. Dường như lũ chuột chỉ đến để thải ra. Nhà vệ sinh chuột Jaldapara.

Đã có kế hoạch tu sửa khu nghỉ dưỡng này vì Bộ trưởng Lâm nghiệp Tây Bengal đang làm việc với Tổng công ty Phát triển Du lịch Tây Bengal nhằm thiết lập một khu bảo tồn tê giác ở khu rừng lân cận. Đây chính là khu rừng mà Naha, Aritra và tôi sắp tới. Chúng tôi sẽ theo dõi một “con báo thử nghiệm xung đột” đeo vòng cổ sóng vô tuyến – con báo số 26279 – đã được chuyển đến đây một năm rưỡi trước, khi người ta quyết định vùng đất này trở thành khu bảo tồn động vật hoang dã. Khi đó con vật vẫn chưa trưởng thành và Naha muốn kiểm tra để chắc chắn rằng nó không lớn quá cỡ vòng cổ vô tuyến.

Trong lúc ở đây, Naha sẽ diễn thuyết trước những thôn dân sống ở bìa rừng. Vòng cổ vô tuyến chỉ ra các điểm trên bản đồ, nhưng không trả lời các câu hỏi đặt ra khi thả kẻ săn mồi vào sân sau nhà con người. Có phải con báo đã bắt dê của bạn không? Mọi người có thấy ổn với việc nó ở đây không? Naha đã theo dõi, như một nhân viên xã hội đang sắp xếp việc nhận nuôi. Anh đã luôn theo dõi con báo từ xa và gọi điện cảnh báo nếu nhận thấy nó đang di chuyển về phía nhà họ.

Sáng nay chúng tôi có tài xế mới, Ashok. Anh hiếm khi tham gia vào cuộc trò chuyện, chỉ hoàn toàn tập trung lái xe. Một khác biệt so với người tiền nhiệm – anh này để tránh ngủ gật đã đính điện thoại thông minh của mình vào bên trong kính chắn gió và phát một bộ phim hài. (Naha không hề hoảng sợ. “Một mắt nhìn điện thoại, một mắt nhìn đường.”)

Chúng tôi rẽ khỏi đường nhựa để vào một đường đất xuyên qua những bụi cây ngày càng dày đặc. Cành cây cào xước hai bên hông xe. Ashok ngày càng im lặng. Anh có vẻ căng thẳng. Tôi đã nói gì sai sao? Anh đang lo lớp sơn xe sẽ bị trầy sao?

Vừa qua một dãy nhà, chúng tôi tấp vào lề đường bên cạnh một người đàn ông đang phun thuốc trừ sâu từ chiếc can đeo trên lưng cho luống súp lơ của mình. Naha xuống xe và ông tắt vòi phun. Một mắt bị đục. Ba người đàn ông khác đi loanh quanh đó. Aritra lắng nghe. Không có gì để báo cáo. Đã một thời gian họ không nhìn thấy con báo nữa.

Chúng tôi lái xe tiếp. Chúng tôi đi ngang qua một tháp canh các đội chống săn trộm thường sử dụng. Naha yêu cầu Ashok dừng lại để anh có thể leo lên và bắt được tín hiệu tốt hơn. Aritra bảo tôi ở lại trong xe với anh.

Naha bước xuống cầu thang của tòa tháp và quay lại xe. Anh bảo rằng chúng tôi hiện chỉ cách con báo 300m.

Chúng tôi cho xe đi tiếp. Đường cụt dẫn đến một con sông rộng. Naha lại bước ra ngoài. Anh đi dọc bờ sông đầy cát, tay cầm ăng-ten phía trên như ngọn đuốc. Phía bên kia, một nhóm đàn ông đang ngâm mình trong nước sâu đến thắt lưng để dọn sạch đám lục bình mọc um tùm.

Naha thò vào cửa sổ ô tô để cho biết rằng chúng tôi hiện đang cách con báo 150m. Tút-tút-tút-tút, có tín hiệu. Chúng tôi không thể đến gần hơn vì “con mèo” to xác đang ở bên kia sông. Anh chỉ tay. “Ngay sát phía trên những người đó.”

Gần đó không có cây cầu nào nên chúng tôi quay lại. Trên vài dặm cuối của chuyến đi, Ashok phá vỡ sự im lặng của mình. Anh và Naha nói chuyện bằng tiếng Hindi. Sau khi Ashok thả chúng tôi xuống, tôi hỏi Naha họ đã nói gì.

“Cha anh ấy đã bị báo hoa mai giết chết.”

Cha anh đi nhặt củi. Không thấy cha về, Ashok, lúc đó mới 12 tuổi đã cùng vài người bạn đi tìm. Họ tìm thấy ông, vẫn còn sống, dưới lòng sông. Giống nơi những người đàn ông khi nãy làm việc, cách con báo vài chục mét. “Họ đưa ông đến bệnh viện,” Naha nói, “nhưng ông không qua khỏi. Ông bị thương quá nhiều. Mắt, và mọi chỗ. Hẳn ông đã bị tấn công tới tấp”.

Ashok sẽ không làm tài xế chặng tiếp theo và như vậy là tốt nhất. Chúng tôi đang hướng về Pauri Garhwal, điểm nóng có nhiều vụ tấn công của báo hoa mai. Không phải kiểu chạm trán diễn ra trên đồn điền trà khi công nhân bất thình lình nhìn thấy con báo ngủ dưới gốc cây. Đó là những vụ rình rập, giết người được thực hiện có chủ ý.

Đọc bài viết

Trích đăng

Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC

Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.

Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.

Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.

Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.

Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.

Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.

Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.

Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.

Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.

Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.

Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.

Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.

Đọc bài viết

Trích đăng

Lancaster và York: Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

GIỚI THIỆU

Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.

Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.

Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.

Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.

Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.

Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.

Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.

Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?

Alison Weir

Surrey

tháng Hai 1995

Đọc bài viết

Cafe sáng