Chuyện người cầm bút

Dịch giả Nguyễn Tiến Văn: Đừng học ngôn ngữ vì vụ lợi!

Việt Nam phải coi vấn đề dịch là quốc sách.

Published

on

Những năm gần đây, với sự ra đời của các công ty truyền thông tư nhân như: Nhã Nam, Bách Việt, Chibooks… tình hình dịch và xuất bản văn học thế giới được cải thiện. Tuy nhiên, cũng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập trong việc dịch các tác phẩm, các công trình nghiên cứu của thế giới sang tiếng Việt và ngược lại. Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với dịch giả, nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn về vấn đề này.

Ông nghĩ như thế nào khi có một bộ phận người Việt Nam suy nghĩ rằng đọc nhiều sách văn học nước ngoài là vọng ngoại, chỉ cần đọc văn học trong nước đã đủ?

Bây giờ, các học sinh, sinh viên học trong những cuốn sách giáo khoa, hay là cả khái niệm trong đầu óc của mọi người thì vẫn là học ngoại ngữ. Tờ tạp chí chuyên môn nhất cũng lấy tên là: Văn học nước ngoài. Theo tôi, cái đó là dở vì đặt vấn đề trong ngoài. Trong khi 200 năm trước, Goethe lại chủ trì không có văn học nước ngoài, nước trong, chỉ có văn học thế giới. Vậy thì chúng ta phải dùng khái niệm văn học thế giới (VHTG). Một người lớn lên trong thời đại toàn cầu hóa phải hiểu đó là văn học của toàn nhân loại, là di sản của thế giới nói chung.

Ông bắt đầu tiếp xúc với VHTG từ khi nào?

Đầu tiên tôi học chữ Nho để đọc được thơ Đường, Tam quốc chí diễn nghĩa. Sau đó tôi học tiếng Anh, Pháp để đọc qua các tác phẩm đương đại mà chưa được dịch.

Tiếp xúc với VHTG sớm, đọc nhiều tác phẩm VHTG như thế, có bao giờ ông cảm thấy bị mất cân bằng trong tư tưởng giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa thế giới không?

Tôi không cảm thấy như thế. Vì tôi đọc nhiều tác phẩm VHTG nhưng có may mắn công việc của tôi lại là một dịch giả. Khi chuyển nó sang tiếng Việt tôi thấy tâm hồn mình lại gần gũi với văn hóa Việt Nam. Sắp tới đây, một tác phẩm của William Faulkner mà tôi mới dịch sẽ được xuất bản.

Ông có thể cho biết những dịch giả nào ở Việt Nam hiện tại mà ông cảm thấy rằng tác phẩm dịch của họ được đầu tư nghiêm túc, kĩ lưỡng?

Muốn biết dịch giả nào chuyện nghiệp thì phải tốn công so bản gốc với bản họ đã dịch. Cái đó thì phải làm việc cẩn thận. Nhưng theo ý kiến cá nhân, tôi nghĩ một trong những người làm việc nghiêm túc là Lê Anh Minh với cuốn Trung Quốc triết học sử. Ông rành chữ Nho để đọc bản gốc của Phùng Hữu Lan. Ông rành cả tiếng Anh để đọc bản dịch của Derk Bodde – người học trò của Phùng Hữu Lan. Ông đọc hai bản dịch và so sánh, có điểm khác biệt nào thi ghi chú thích.

Còn hai người nữa thì tôi không có khả năng để đối chiếu với bản gốc nhưng tôi cũng rất quí vì đó là tài liệu quan trọng. Ví dụ Phạm Vĩnh Cư dịch Siêu lý tình yêu của Vladimir Soloviev. Ông dịch từ bản tiếng Nga. Đây là tác phẩm về triết học, thần học quan trọng nhất trong 1000 năm nay của Nga.

Ngoài ra, còn có cô Nguyễn Hồng Nhung dịch một nhà luận văn và tư tưởng hàng đầu của Hungary bây giờ là Béla Hamvas. Ông viết rất nhiều luận văn về văn học, triết học. Hiện bây giờ, các bản dịch của Hồng Nhung đăng trên những trang web văn học như: Tiền Vệ, Da Màu…

So với các nước trên thế giới, ông có suy nghĩ gì về chính sách hỗ trợ của chính phủ cho việc dịch các tác phẩm trong nước sang tiếng nước ngoài để phổ biến rộng rãi hơn ở Việt Nam thời điểm hiện tại?

Trên thế giới, những nước lớn lại không có chế độ ưu đãi cho các dịch giả dịch tác phẩm của họ sang tiếng nước ngoài. Những nước càng nhỏ trên thế giới, vì ngôn ngữ của họ ít có người sử dụng, ít có người học nên họ có chế độ đãi ngộ đặc biệt. Hungary tuy là nước nhỏ nhưng rất quí các dịch giả. Họ lập nhà dịch thuật để nếu ai có ý hướng dịch văn học Hungary thì có thể đến đó để làm việc. Hungary sẵn sàng cung cấp không phải là xa hoa nhưng đủ để làm việc. Trước đây năm 1980, tôi có đọc một tập sách của Hội nhà văn Hungary có tên: “Ngôn ngữ nhỏ, văn học lớn”. Ngôn ngữ nhỏ là bởi vì có mấy triệu người dùng thôi nhưng văn học lớn là nếu như chia theo đầu người thì giải Nobel ở Hungary là nhiều nhất.

Một nước khác, cũng rất nhỏ ở châu Âu nhưng có chương trình dịch thuật hàng đầu thế giới là Hà Lan. Ở Hà Lan có những nhà xuất bản đứng đầu trên thế giới về tầm mức xuất bản. Tôi lấy ví dụ: một cuốn từ điển về ngữ nguyên của tiếng Anh lớn nhất thế giới lại là do Hà Lan xuất bản. Đó là cuốn A Comprehensive Etymological Dictionary of the English Language của Ernest Klein. Các nước lớn vẫn có thể in được nhưng họ lại không in. Theo tôi nghĩ có một lí do như thế này: suốt trong thời kì chiến tranh lạnh, vì những cuốn sách in ở Mỹ không được nhập vào các nước Xã hội chủ nghĩa, Hà Lan thì không bị vướng mắc. Vậy nên, chính những nước nhỏ trong lúc đó lại đắc địa. Những cuốn sách về khoa học, có nghiên cứu về tư tưởng mà không dính tới màu sắc chính trị thì những nước nhỏ như vậy đóng được vai trò.

Ở Đông Nam Á, từ năm 1990 Singapore đóng một vai trò rất quan trọng. Tất cả những công trình khoa học của viện Nobel đều được nhà xuất bản World Scientific Publishing ở Singapore phát hành. Singapore tài trợ cho chương trình đó và sự thật thì nó kiếm lời không được bao nhiêu cả nhưng để xuất bản thì những người trí thức ở Singapore phải ngồi nghiên cứu, biên tập. Đây là một công việc phức tạp, đòi hỏi sự kĩ lưỡng rất cao.

Tôi nghĩ, người Việt Nam chúng ta phải suy nghĩ về ưu thế của những quốc gia nhỏ, những ngôn ngữ nhỏ như Hungary, Hà Lan, Thụy Điển… và học hỏi những nước này. Hiện nay ở Việt Nam có quỹ Phan Châu Trinh về dịch thuật đang dần xây nên một tủ sách về học thuật. Ngoài ra, chúng ta cũng chưa có nhiều chính sách hỗ trợ cho các dịch giả nước ngoài trong việc dịch các tác phẩm Việt Nam ra thứ tiếng của họ.

Theo ông, dịch thuật ở Việt Nam hiện tại đang gặp phải những vấn đề gì?

Dịch thuật không phải là công việc chỉ dịch một lần là xong mà phải dịch đi, dịch lại nhiều lần. Mỗi một thế hệ có một bản dịch riêng. Ví dụ trên thế giới, để đọc William Faulkner người ta phải có Companion to Faulkner, hay là James Joyce thì phải có James Joyce’s Dictionary. Người ta phải tra từ điển để hiểu vì đó không phải là tiếng Anh mà tất cả mọi người đều có thể hiểu. Trung Quốc bây giờ cũng ra từ điển cho từng tác gia lớn. Việt Nam chỉ mới ra duy nhất từ điển về Truyện Kiều. Nhưng tôi cho rằng đó cũng là một điều tốt rồi. Nó là công trình của Đào Duy Anh, sau này là Phan Ngọc.

Việt Nam vừa mới qua chiến tranh, kinh tế còn yếu kém, chúng ta chưa có những dịch giả chuyên. Trên thế giới, mỗi một tác giả có dịch giả chuyên dịch về họ. Ví dụ tác giả người Ý Umberto Eco có một dịch giả chuyên dịch sang tiếng Anh cho ông là William Weaver. Người dịch giả tiếp cận với tác giả, có gì thắc mắc hai bên trao đổi. Như vậy, mới dịch chính xác được. Dịch giả ở Việt Nam thì hiện chưa có điều kiện đó mà chỉ mới làm việc trên văn bản. Vì vậy, chuyện dịch sai, hiểu sai vẫn thường xuyên xảy ra. Chúng ta chưa đi vào chuyên nghiệp được.

Như vậy, để khắc phục tình trạng đó, trước mắt chúng ta cần phải làm những công việc gì trong điều kiện hiện tại cho phép? Ngoài ra, nhìn từ bài học của các nước trên thế giới ông thấy chúng ta có thể học hỏi được điều gì ở họ?

Thứ nhất, Việt Nam phải coi vấn đề dịch là quốc sách. Bởi vì tất cả các sách căn bản của thế giới chúng ta vẫn chưa dịch. Nhật Bản đã làm việc này từ thế kỉ 19. Hàn Quốc đã làm từ mấy chục năm nay rồi. Một sinh viên Nhật bước chân lên giảng đường đại học, những tác phẩm triết học, khoa học, văn học… trên thế giới họ đều có thể đọc ngay bằng tiếng Nhật. Nếu chúng ta không lo việc này thì trong một thời gian ngắn, sinh viên Việt Nam không thể so sánh được với sinh viên các nước trong khu vực chứ chưa nói thế giới. Malaysia đã thành lập 5 trường đại học giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh, có thể mời các giáo sư nổi tiếng trên thế giới giảng dạy ngay lập tức. Và sinh viên đó học xong có thể đi ra khắp thế giới tiếp thu, ngay khi học lại có thể tiếp cận với toàn bộ các tác phẩm văn học cũng như tác phẩm khoa học của thế giới. Nếu không coi dịch là quốc sách, chúng ta sẽ vẫn cứ chậm.

Thứ hai, với việc học ngôn ngữ trên thế giới thì chúng ta phải bắt chước những nước như Hà Lan, Hungary, Thụy Điển, Na-Uy, Hàn Quốc… Đương nhiên, một trí thức là phải rành ít nhất một thứ tiếng phổ thông trên thế giới. Ở Hàn Quốc người ta coi tiếng Nhật Bản là ngôn ngữ thứ nhì bắt buộc phải học. Trước đây, Nhật Bản cai trị Hàn Quốc 50 năm từ năm 1895 cho đến năm 1945 rất tàn ác. Lúc đó, tất cả các trường không được dạy tiếng Hàn mà phải dạy tiếng Nhật. Người Hàn Quốc từng rất hận thù người Nhật. Nhưng dù hận như thế nào, Hàn Quốc cũng học hỏi Nhật Bản vì đó là xứ hấp thu rất nhiều những canh tân đổi mới của phương Tây. Bây giờ Hàn Quốc có chừng trên 1 triệu người lúc trước bị bắt qua Nhật để làm lao động cũng như là lính thợ Việt Nam mà sang Pháp. Những người đó đã ở Nhật 60, 70 năm nay rồi nhưng vẫn không vào quốc tịch Nhật và chuyển tiền, kĩ thuật, học thuật về cho Hàn Quốc. Đó là cả một nguồn năng lượng trí tuệ kinh khủng. Trong khi Việt Nam đến năm 1915 mới bãi bỏ chế độ khoa cử nhưng bây giờ đếm số người có thể đọc được các tác phẩm Trung Quốc là trên đầu ngón tay. Rồi Pháp lại ở Việt Nam đến 100 năm, đào tạo biết bao nhiêu trí thức hàng đầu nhưng bây giờ chúng ta lại bỏ không học tiếng Pháp nữa. Từ đó, cho thấy rằng chúng ta đã từng học ngôn ngữ không phải vì yêu quí trí thức, yêu quí văn hóa mà đã học vì mục đích rất vụ lợi: để đi làm cho các công ty của nước đô hộ lúc đó kiếm tiền. Chính vì vậy mà nó không được tiếp tục duy trì sau khi các nước đô hộ ta đầu hàng. Tôi cho rằng ở điểm này chúng ta nên học hỏi người Hàn Quốc.

Hết.

Fretto Frek 

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Chuyện người cầm bút

Khám phá hồn cốt Sài Gòn qua từng trang viết của Phạm Công Luận

Tháng Tư về, Sài Gòn không chỉ rực rỡ pháo hoa, náo nhiệt diễu binh mà còn lung linh với trình diễn drone, 3D mapping hiện đại. Giữa không khí lễ hội tưng bừng, sách Phạm Công Luận lại mở ra một Sài Gòn trầm mặc, nơi hồn phố lắng đọng sau lớp áo hào quang.

Published

on

Hòa mình vào không khí tưng bừng với những màn trình diễn drone ngoạn mục vẽ lên bầu trời đêm, những hình ảnh 3D mapping ấn tượng phủ lên các công trình biểu tượng, hay tiếng reo hò theo các đoàn diễu hành được ví von như “concert quốc gia”..., lòng người không khỏi trào dâng niềm tự hào, phấn khích trước sức sống và sự phát triển của thành phố. Nhưng bên cạnh sự náo nhiệt của những hoạt động kỷ niệm quy mô ấy, Sài Gòn còn có một chiều sâu khác, một lớp trầm tích ký ức mà đôi khi cần những khoảng lặng để cảm nhận.

Giữa vô vàn ấn phẩm viết về Sài Gòn, tác phẩm của nhà báo Phạm Công Luận chiếm một vị trí đặc biệt, như một cánh cửa dẫn lối về những khoảng lặng đó. Sách của Phạm Công Luận là sự kết hợp nhuần nhị giữa tư liệu quý giá, hình ảnh sống động và những câu chuyện kể thấm đẫm tình người. Nhân dịp đại lễ 30/4, thời điểm không chỉ để hướng đến tương lai mà còn để suy tư về quá khứ, việc tìm đọc lại những cuốn sách như Sài Gòn – Chuyện đời của phố (5 tập), Hồn đô thị, Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Những bức tranh phù thế, Made in Sài Gòn, hay Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn: Ký ức rực rỡ… chính là cách để ta kết nối hiện tại sống động với những giá trị tinh thần lắng đọng, thấu hiểu sâu sắc hơn hồn cốt đã làm nên bản sắc riêng của mảnh đất này.

Góc nhìn của người kể chuyện thầm lặng

Phạm Công Luận luôn tiếp cận Sài Gòn bằng đôi mắt và sự say mê tìm tòi của một nhà báo với hơn 30 năm kinh nghiệm. Điều này thể hiện rõ trong cách tác giả thu thập tư liệu và kể chuyện. Phạm Công Luận thường lần theo dấu vết của những câu chuyện đời thường, những phận người tưởng chừng đã bị lãng quên, những chi tiết nhỏ bé nhưng lại hàm chứa cả một giai đoạn quá khứ. Bộ sách Sài Gòn – Chuyện đời của phố là minh chứng tiêu biểu cho phương pháp này. Tác giả không ngần ngại tìm đến những nhân chứng sống, lắng nghe họ kể, đối chiếu thông tin, để rồi tái hiện lại lịch sử một con hẻm, chân dung một họa sĩ vẽ bìa nhạc xưa, hay nguồn gốc tên gọi một địa danh quen thuộc như Ngã ba Ông Tạ.

Chính sự kiên nhẫn và tỉ mỉ trong việc nhặt nhạnh ký ức từ những nhân chứng, kết hợp với việc sưu tầm công phu hình ảnh, hiện vật cũ đã tạo nên giá trị tư liệu độc đáo cho các tác phẩm của ông. Đọc sách của Phạm Công Luận, ta như đang ngồi trong một quán cà phê cóc đầu hẻm, nghe người Sài Gòn kể chuyện xưa, chuyện nay, chuyện người lạ, chuyện người quen, chuyện vui, chuyện buồn… Giọng văn điềm đạm, mang nhiều hơi thở của cuộc sống đời thường nhưng chính sự chân thật, không tô vẽ ấy lại cuốn hút lạ kỳ. Tác giả ý thức được sự mênh mông của đề tài và sự hữu hạn của bản thân nên từng chia sẻ với Bookish khi nói về quá trình thực hiện cuốn sách Có một thời ở Chợ Lớn rằng: “Tuy ra được cuốn này, nhưng tôi thấy mình chỉ mới phản ánh được phần rất nhỏ về cuộc sống phong phú trong khu Chợ Lớn mà thôi.” Sự khiêm tốn này càng làm tăng thêm độ tin cậy và sức hấp dẫn cho những đề tài mà Phạm Công Luận theo đuổi.

Trong bài phỏng vấn trên báo Tuổi Trẻ khi Sài Gòn – Chuyện đời của phố 2 được ra mắt, Phạm Công Luận có trích dẫn câu nói của Will & Ariel Durant về việc sử gia thường chỉ chép về “máu và xác” trên dòng sông lịch sử, mà bỏ quên những người “trên bờ” đang “cất nhà, làm vườn, nuôi con, làm thơ”. Phạm Công Luận tự nhận mình muốn góp sức viết về những câu chuyện “trên bờ” ấy. Đó là những mảnh ghép đời thường, những sinh hoạt văn hóa, những nếp nhà, những tâm tình… tưởng chừng riêng tư nhưng lại góp phần định hình nên tâm hồn, cốt cách của cả một thành phố. Cuốn Hồn đô thị, tuyển tập những bài tùy bút đặc sắc từ bộ sách Chuyện đời của phố, chính là nơi hội tụ của những câu chuyện “trên bờ” đó, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn cái “chất Sài Gòn” thấm đẫm trong từng nếp sống, từng con người. Hay như Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, dù mang tên gọi gợi về quá khứ xa xôi, vẫn giữ mạch kể chuyện gần gũi, soi chiếu lịch sử qua những lát cắt dung dị của đời sống.

Sài Gòn đa diện qua từng trang sách

Thế giới Sài Gòn trong sách Phạm Công Luận vô cùng phong phú và đa dạng, vượt xa những hình ảnh hào nhoáng thường thấy. Đó không chỉ là Sài Gòn của những con đường trung tâm quận Nhứt với giới thượng lưu thanh lịch, mà còn là Sài Gòn của những con hẻm nhỏ ở Đa Kao, Thị Nghè, Phú Nhuận, Chợ Lớn… nơi phần đông người bình dân sinh sống, làm ăn và giữ gìn bản sắc riêng. Người Sài Gòn trong trang viết của Phạm Công Luận cũng vậy, không chỉ có những nghệ sĩ nổi danh, những giai nhân một thuở, mà còn là những người lao động thầm lặng, những gia tộc nhiều đời gắn bó với mảnh đất này, những người nhập cư mang theo vốn văn hóa độc đáo góp phần làm nên sự đa dạng của thành phố. Tác giả kể về họ một cách trân trọng, không phán xét, để độc giả tự cảm nhận về nghĩa khí, sự hào sảng, phóng khoáng nhưng cũng rất mực đời thường của con người nơi đây.

Mỗi cuốn sách lại mở ra một cánh cửa riêng để khám phá những khía cạnh khác nhau của Sài Gòn. Nếu Sài Gòn – Chuyện đời của phố là một bức tranh toàn cảnh với nhiều mảng màu, thì Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn: Ký ức rực rỡ lại như một thước phim quay chậm, đầy chất thơ, tập trung vào những khoảnh khắc, những không gian và những hoài niệm đẹp đẽ về một thời đã xa. Cuốn sách này gợi lại hình ảnh những chiều Chủ nhật nhàn du, những quán xá vỉa hè, những góc phố bán sách xôn xao, những tà áo dài tung bay trong gió sông… khiến những ai từng gắn bó với Sài Gòn không khỏi bồi hồi. Đọc sách, ta thấy được tâm huyết của tác giả trong việc không ngừng khám phá những mảnh ghép đa dạng của thành phố, và chính tác giả cũng từng hé lộ về dự định viết thêm về các khu đô thị khác sau Hồi ức Phú Nhuận và Có một thời ở Chợ Lớn: “Tôi có dự định viết về hai khu đô thị khác như kế hoạch từ đầu là viết về bốn khu đô thị ở thành phố này.”

Bên cạnh những câu chuyện về cộng đồng, về không gian đô thị, Phạm Công Luận còn dành một phần không nhỏ trong tác phẩm của mình để soi chiếu vào chính ký ức cá nhân, đặc biệt là những kỷ niệm tuổi thơ. Cuốn Những bức tranh phù thế là một tập hợp những hồi ức như vậy. Tác giả viết về tuổi thơ không phải để trốn chạy thực tại, mà là để “nhận ra mình là ai”, để hiểu vì sao mình yêu tha thiết thành phố này đến vậy, ngay cả khi nó đã đổi thay. Như chính tác giả bộc bạch: “Khi viết về quá khứ, tôi nhận ra mình là ai, những gì đã tác động đến mình để trở thành một con người đủ cả những điều hay và dở… Tôi hiểu rõ hơn vì sao mình yêu tha thiết một thành phố dù nó dần dần không còn giống nơi chốn mình yêu thương…” Những trang viết này không chỉ là câu chuyện của riêng ông, mà còn chạm đến ký ức chung của nhiều thế hệ người Sài Gòn, về những trò chơi thơ bé, những món quà vặt hè phố, những hương vị, âm thanh đã gắn liền với một thời hoa mộng.

Lưu giữ di sản vật chất và tinh thần

Một đóng góp quan trọng khác của Phạm Công Luận là nỗ lực sưu tầm và giới thiệu những di sản mang tính vật chất, những chứng nhân của một thời kỳ sản xuất, kinh doanh sôi động tại Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn. Cuốn sách Made in Sài Gòn là một ví dụ điển hình. Với tập hợp hàng trăm hình ảnh về nhãn hiệu, bao bì sản phẩm, quảng cáo trên báo chí xưa… cuốn sách không chỉ là một bộ sưu tập độc đáo về thiết kế đồ họa một thời, mà còn phần nào phác họa lại bức tranh kinh tế, xã hội và đời sống tiêu dùng của người Sài Gòn trong khoảng nửa thế kỷ. Tác giả chia sẻ, động lực thực hiện cuốn sách này là vì “mong muốn qua cuốn sách, người đọc biết thêm về nền sản xuất và dịch vụ của Sài Gòn xưa, nơi không chỉ là thành phố tiêu thụ mà làm ra được nhiều sản phẩm phục vụ cuộc sống. Và để cho những ai từng sống ở đây trong nửa thế kỷ trở về trước ôn lại kỷ niệm thời ấu thơ của họ với những gì họ từng dùng.”

Quá trình thực hiện Made in Sài Gòn cũng cho thấy sự kỳ công và nghiêm túc của Phạm Công Luận. Tác giả không chỉ sưu tầm hình ảnh mà còn cố gắng xác minh nguồn gốc, thông tin về từng sản phẩm, từng thương hiệu. Việc này không hề dễ dàng, bởi thời gian đã làm thất lạc nhiều tư liệu, và không phải thương hiệu nào cũng còn dấu vết rõ ràng. Phạm Công Luận thẳng thắn thừa nhận những khó khăn gặp phải: “Có những thương hiệu rất nổi tiếng, thí dụ như bột Bích Chi, dầu khuynh diệp bác sĩ Tín và nhiều nhiều nữa lại không có hình ảnh nên không thể giới thiệu. Có một số sản phẩm rất quen thuộc, có hình ảnh quảng cáo nhưng không rõ gốc gác (sản xuất trong nước hay nhập ngoại) nên không đưa vô.” Chính sự cẩn trọng và minh bạch này càng làm tăng giá trị tham khảo cho cuốn sách Made in Sài Gòn.

Nhìn chung, toàn bộ các tác phẩm viết về Sài Gòn của Phạm Công Luận, từ Chuyện đời của phố đến Made in Sài Gòn, từ Hồn đô thị đến Ký ức rực rỡ, đều xuyên suốt một tinh thần: trân trọng và nỗ lực lưu giữ ký ức đô thị, cả về vật chất lẫn tinh thần, trước sự bào mòn của thời gian và những biến đổi không ngừng của xã hội. Phạm Công Luận làm việc đó một cách thầm lặng, bền bỉ, giống như cách tác giả mô tả về công việc viết lách của mình là “viết sách theo kiểu ‘dàn hàng ngang’, bản thảo nào xong trước mới đưa cho nhà xuất bản xem xét”.

Trong không khí của những ngày tháng Tư lịch sử, đọc sách Phạm Công Luận không chỉ là tìm về hoài niệm, mà còn là một cách để hiểu thêm về sức sống mãnh liệt, khả năng tự phục hồi và thích ứng của Sài Gòn, một thành phố luôn rộng mở, luôn chuyển mình nhưng vẫn giữ được những nét hồn cốt riêng biệt, đáng quý. Đó là những di sản vô giá mà thế hệ hôm nay cần biết, cần trân trọng và tiếp nối.

Kodaki

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Kazuo Ishiguro: “Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”

Nhân kỉ niệm 20 năm ra mắt tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi, tác giả đoạt giải Nobel Văn chương người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro đã nói về vai trò của nhà văn trong thế giới hậu sự thật, và lý do tại sao ông “không phải là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”.

Published

on

Bán chạy vì giống tiểu thuyết Young Adult

40 năm qua, Ishiguro là một trong những cây viết được đánh giá cao qua hàng chục tiểu thuyết, nhưng có lẽ không cuốn sách nào được yêu thích và nổi tiếng hơn cuốn sách thứ 6 Mãi đừng xa tôi. Nó bán chạy hơn bất kì tác phẩm nào khác trong văn nghiệp ông, đồng thời cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh lẫn kịch sân khấu.  

Vẫn tìm được độc giả mới sau 20 năm xuất bản, cuốn tiểu thuyết này được Ishiguro ghi nhận là đã khởi đầu cho một chuỗi ngẫm nghĩ và định hình nên những tác phẩm tiếp theo như Người khổng lồ ngủ quên hay Klara và mặt trời sau này. Ông cho biết bộ 3 tác phẩm đều xoay quanh một sự thật cơ bản và không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều sẽ chết, nhưng ta hiện sống như thể không bao giờ chết.

Xuất phát từ góc nhìn này, Mãi đừng xa tôi lấy bối cảnh một xã hội giả tưởng nơi trẻ em được nhân bản vô tính để cung cấp các cơ quan khỏe mạnh nhằm kéo dài cuộc sống cho người khác. Sau 2 hay 3 lần hiến không tự nguyện, những đứa trẻ sẽ hoàn thanh xong sứ mệnh và chết đi. Nhưng cũng có tin đồn rằng trong một số trường hợp nếu chứng minh được bản thân đang yêu, thì chúng sẽ được phép sống.

Chính niềm tin vô căn cứ này rằng đã tạo nên mạch vận động chính cho cuốn tiểu thuyết. Ishiguro giải thích: “Chúng ta dường như không bao giờ chấp nhận số phận và luôn khao khát tìm ra lối thoát đặc biệt. Tôi nghĩ điều đó không phải vì ta cứ muốn sống mãi, mà bởi chúng ta không muốn đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn và sự cô đơn đi kèm cái chết. Chúng ta sợ mất đi những người thân yêu. Chúng ta sợ sự chia ly.”

Tựa đề cuốn tiểu thuyết là một bài hát mà người kể chuyện, Kathy H, phát đi phát lại trong thời gian cô ở trường nội trú Hailsham của những người nhân bản. Nó vừa là một hiện hữu vật lí dưới dạng cuộn băng cassette bị mất, vừa là lá bùa hộ mệnh - một biểu tượng của thời điểm trước khi cô biết cuộc sống của mình và của những người bạn như Tommy và Ruth sẽ phát triển như thế nào. Ishiguro đã sáng tác ra bài hát, sau đó được người bạn và cộng sự của ông - ca nhạc sĩ dòng jazz Stacey Kent thu âm. 

Mãi đừng xa tôi đã trải qua một thời kỳ thai nghén dài và chỉ tồn tại như những suy nghĩ và ghi chép về một nhóm sinh viên có tuổi thọ khác biệt rõ rệt so với những người cùng trang lứa – có lẽ cũng tương tự như tác hại của một thảm họa hạt nhân gây ra. Bước đột phá đến thông qua sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và thời điểm: sự quan tâm của xã hội đối với những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của nhân bản trong giai đoạn mà hình ảnh chú cừu Dolly liên tục xuất hiện. 

Nói về điều này, Ishiguro cho biết: “Tôi cho phép bản thân sử dụng những gì mà theo truyền thống có thể được coi là phép ẩn dụ. Đó không phải vì tôi quá dũng cảm để tạo ra lối đi mới hay gì cả. Tôi nghĩ bầu không khí xung quanh thay đổi là nguyên nhân chính cho điều này, bởi thế hệ nhà văn tiếp sau - những người trẻ hơn tôi khoảng 15 tuổi như David Mitchell hoặc Alex Garland chẳng hạn – lại thấy nó không có gì kì lạ. Họ lấy cảm hứng từ đủ mọi nơi và tôi thực sự thích tác phẩm của họ.”

Thế hệ đề cao sáng tạo

Bên cạnh sự đột phá về thể loại là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng phản địa đàng, Ishiguro từ đó cũng phát hiện ra một thể loại mới. Theo đó, lượng độc giả của Mãi đừng xa tôi đã vượt xa các tiểu thuyết khác của ông, bao gồm cả Tàn ngày để lại, và từ đó thu hút nhiều độc giả hơn đến các buổi đọc sách. Ông cho biết: "Tôi nghĩ một trong những lý do khiến tác phẩm này nổi bật vì nó giống như một cuốn sách YA trước khi thể loại này trở thành loại sách rất được yêu thích. Nó không nhất thiết dành cho những người trẻ tuổi, nhưng nó có rất nhiều thứ mà bây giờ đã trở thành đặc trưng của dòng chảy này: những đứa trẻ ở trường, các cảm xúc phức tạp, sự đố kỵ, tranh giành, nông nổi... Tôi nghĩ đó là một phần lý do khiến Mãi đừng xa tôi tiếp tục tìm được lượng độc giả mới."

Ông nói điều này khiến cho bản thân cảm thấy thú vị, khi nó dường như tách khỏi dòng chung là các tiểu thuyết văn chương xuất hiện trước những năm 1990 để thuộc về thế hệ mới là những tên tuổi ông được đặt cùng trong danh sách Granta's Best of Young British Novelists năm 1983, gồm Martin Amis, Salman Rushdie, Julian Barnes và Pat Barker. Ở giai đoạn đó, ông chia sẻ, “Chúng tôi tuy lạ lẫm với giới xuất bản khi đó nhưng khá tự hào vì mình là những người sáng tác văn chương thực thụ và hiểu giá trị của văn chương”. Khi được hỏi vì sao Doris Lessing cũng viết một cách linh hoạt rất nhiều thể loại nhưng không bị coi nhẹ, Ishirguro nói: “Chà, tôi cho rằng bà ấy chẳng quan tâm cải tiến, đổi mới gì đâu! Bà ấy chỉ đuổi theo trí tưởng tượng của mình mà thôi. Margaret Atwood cũng vậy nhưng thuộc thời này. Ý tôi là, những người này, họ không quan tâm đến kiểu sứ mệnh xây dựng một trào lưu mới”.

Nhưng khi bối cảnh văn học bắt đầu thay đổi, Ishiguro đã ở vị trí thuận lợi, xét về mặt ảnh hưởng và tính khí, để tận dụng lợi thế từ sự “nới lỏng của các dây buộc”. Ông đã đọc và sáng tác truyện tranh dẫu trước đó còn tương đối mơ hồ về thuật ngữ "tiểu thuyết đồ họa", nhưng niềm đam mê âm nhạc và phim ảnh suốt đời đã mang đến cho ông một góc nhìn khác về ý tưởng kết hợp các phong cách viết và thể loại. Người ông hâm mộ gồm Bob Dylan, Miles Davis, Picasso cũng như Stanley Kubrick trong điện ảnh.

"Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại"

Mặc dù nhiệt tình đón nhận dòng chảy của các thể loại và phong cách mới, nhưng Ishiguro vẫn kiên quyết một cách đáng kinh ngạc về những hạn chế của mình. Khi nói về sở thích của ông đối với câu chuyện kể ngôi thứ nhất và cam kết tạo ra những giọng nói đặc biệt sẽ thiết lập nên tông điệu và nội dung cho các tiểu thuyết của mình, ông đã đưa ra một tuyên bố thẳng thừng: "Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại cả". Ông giải thích thêm “Đôi khi tôi đọc nhiều cuốn sách mà bản thân thấy kinh ngạc trước vẻ đẹp của thứ văn xuôi được in ở đó. Tôi chẳng thể nào viết ra được chúng”.

Nói về trách nhiệm của mình với tư cách một nhà văn, Ishiguro cho biết: “Tôi khá hoài nghi sức mạnh khơi gợi cảm xúc ở người đọc mà người ta hay ngợi ca tôi, hay Uỷ ban Nobel đã từng trích dẫn khi gọi tên tôi. Sách của tôi không cho độc giả biết thêm điều gì. Nếu họ muốn biết về các sự kiện, thì chẳng phải đã có các sử gia ở đó rồi sao?” Nhưng trong vài năm trở lại đây, ông ngày càng lo ngại rằng việc khơi dậy những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ có một chiều hướng đen tối hơn nhiều, khi chúng bị lợi dụng cho những múc đích khác nhau.

Ông nói thêm: “AI sẽ trở nên rất giỏi trong việc điều khiển cảm xúc. Tôi nghĩ chúng ta đang ở bờ vực của điều đó. Hiện tại, chúng ta chỉ nghĩ đến việc AI xử lý dữ liệu hoặc làm gì đó khô khan. Nhưng rất sớm thôi, AI sẽ có thể tìm ra cách tạo ra một số loại cảm xúc nhất định ở con người - tức giận, buồn bã, cười đùa.” Cũng vì AI có khả năng cũng sẽ có tác động đáng kể đến nghệ thuật sáng tạo nên Ishiguro gần đây đã kêu gọi chính phủ Anh bảo vệ tác phẩm của các nhà văn và nghệ sĩ khỏi sự săn mồi của các tập đoàn công nghệ, mô tả kỷ nguyên hiện tại là “khoảnh khắc ngã ba đường”.

Đối mặt với câu hỏi rằng trong một xã hội hậu sự thật được hỗ trợ bởi AI và thuật toán, liệu tiểu thuyết có đủ sức gây ấn tượng về mặt cảm xúc không? Ông trả lời: “Nếu tôi triển khai công nghệ đó để phục vụ một chính trị gia hoặc một tập đoàn lớn muốn bán dược phẩm, bạn sẽ không nghĩ đó là điều gì đáng chú ý cả. Nhưng nếu dùng nó để mà kể chuyện, thì nó sẽ được đánh giá rất cao. Chính nó khiến tôi ngày càng cảm thấy không thoải mái, bởi tôi chưa được khen ngợi về phong cách đáng kinh ngạc hoặc vì tiểu thuyết của mình giúp vạch trần những bất công lớn trên thế giới. Thay vào đó tôi được khen ngợi vì làm cho mọi người khóc”. Ông cười lớn và sau đó nói: “Họ đã trao cho tôi Nobel Văn chương chỉ vì điều đó”.

Ngô Minh dịch từ The Guardian

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Băng: Hành trình lạc lối trong thế giới hậu tận thế

Published

on

By

Tiểu thuyết Băng của tác giả Anna Kavan là một câu chuyện giả tưởng độc đáo, kể về mối tình tay ba tuyệt vọng đan xen với bối cảnh hậu tận thế ảm đạm do thảm họa sinh thái và chính trị gây ra.

Băng không tuân theo lối kể chuyện truyền thống. Thay vào đó, Kavan sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ và biểu tượng để dẫn dắt người đọc vào thế giới nội tâm của các nhân vật. Cuốn sách mang đến cho người đọc trải nghiệm đầy ám ảnh, khơi gợi những suy tư về bản chất con người và tương lai của thế giới. Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về Băng, Bookish đã có cuộc phỏng vấn với Tâm Anh – dịch giả của quyển sách. 

Băng là một tác phẩm không viết theo lối tuyến tính thông thường. Điều này có khiến bạn gặp phải khó khăn nào trong quá trình dịch tác phẩm sang tiếng Việt không? Nếu có thì bạn đã vượt qua được bằng cách nào?

Khó khăn lớn nhất là ban đầu chính mình cũng thấy tương đối hoang mang, không nắm bắt được câu chuyện. Đến khoảng một phần ba sách rồi nhưng mình không thực sự hiểu tác giả muốn nói về điều gì. Thật tình cờ, khoảng thời gian ấy mình tham dự một buổi giao lưu trực tuyến với dịch giả Trần Nguyên của tác phẩm Bà Dalloway. Trong phần thảo luận, dịch giả An Lý đặt một câu hỏi liên quan đến bút pháp unreliable narrator, tạm dịch là người kể chuyện không đáng tin cậy. Lần đầu tiên mình nghe thấy khái niệm này, nhưng không cần viện đến định nghĩa hay tra cứu thêm, ngay khoảnh khắc đó trong đầu mình như reo vang “Eureka!” Đây chính là cách mình tiếp cận phần còn lại của tác phẩm. Mình không còn quá áp lực chú tâm vào việc lần theo một cốt truyện mạch lạc, mà tự đặt mình vào vị trí người lắng nghe một câu chuyện mơ hồ, đứt quãng, không nhân quả, không đầu cuối của nhân vật tường thuật dường như đã đạt đến đỉnh cao của thuật thao túng tâm lý ở chỗ anh ta đánh lừa được cả chính bản thân. Từ đây, mình đọc hiểu tác phẩm dễ dàng hơn và cảm giác thoải mái hơn với việc chuyển ngữ sang tiếng Việt. Dĩ nhiên đây chỉ là cách tiếp cận tác phẩm của riêng mình, và mình chắc chắn rằng còn rất nhiều cách phân tích Băng khác không chỉ của các nhà phê bình, nghiên cứu mà của từng độc giả. Nhưng điều mình đúc kết được là người dịch cần hiểu và có cảm giác thân thuộc với tác phẩm. 

Trong bức tranh hậu tận thế mà tác giả đã khắc họa, điều gì khiến bạn cảm thấy ấn tượng nhất? Đồng thời, có điều gì khiến bạn cảm thấy gần gũi với bối cảnh hiện đại ngày nay và lo sợ rằng viễn cảnh trong Băng cũng sẽ sớm xảy đến với nhân loại không?

Mình rất thích những đoạn mô tả “băng” trong tác phẩm, đây dường như là một nhân vật còn sinh động hơn “cô gái”. Tuy nhiên hiện tượng băng tràn đi khắp nơi có lẽ trái ngược với biến đổi khí hậu ngày nay – ấm lên toàn cầu dẫn đến băng tan. Dẫu vậy, mình nghĩ chi tiết này trong sách và tình trạng biến đổi khí hậu thực tế chia sẻ nhiều điểm chung: tác động quy mô toàn cầu và sức ảnh hưởng đến mọi người, không ai tránh được, song chịu thiệt thòi nhất sẽ là những nhóm người yếu thế. Mình nghĩ tác giả cố tình chọn chi tiết ngược với thực tế để câu chuyện không bị trói buộc trong lớp nghĩa duy nhất về biến đổi khí hậu mà đa tầng nghĩa, giàu tính khái quát hơn.

Có lẽ viễn cảnh trong Băng sẽ không xảy ra, ít nhất là trong tương lai gần. Nhưng mình lo lắng rằng chúng ta sẽ không hành động kịp thời để ngăn chặn các thảm họa khí hậu mà khoa học đã cảnh báo nhiều thập kỷ qua.

Bạn tâm đắc nhất điều gì về văn phong của Anna Kavan, cũng như cách tác giả xây dựng câu chuyện?

Mình có cảm giác gắn bó và kết nối kỳ lạ với “cô gái” – nhân vật nữ được kể từ góc nhìn của người nam. Mình nghĩ ngôi kể và góc nhìn này đã khắc họa rất tốt cái theo mình cảm nhận là tính nam độc hại. Không khí vô định mất phương hướng ban đầu khiến mình chật vật về sau khi nghĩ lại, chính là điểm khiến cho tác phẩm hấp dẫn đối với mình – chỉ trong những lần đọc đi đọc lại và suy ngẫm về sau, mình mới càng hiểu hơn những điều mà trước đó chưa mảy may thoáng qua tâm trí mình.

Dịch giả Tâm Anh

Việc câu chuyện này không có một nhân vật nào được đặt tên mang lại cho bạn cảm giác gì khi dịch?

Cũng như lối kể không tuyến tính, đó là cảm giác mơ hồ mất định hướng. Và mình nghĩ đây là chủ đích của tác giả. Một người bạn của mình gần đây đọc sách cũng nói đến điểm này, và rằng bạn ấy cảm nhận như thể có hai nhân vật hóa ra chính là một (các bạn đọc sẽ rõ mình sợ tiết lộ mất).

Bạn có gặp phải những từ hoặc cụm từ nào trong bản gốc khiến bạn cân nhắc rất kỹ lưỡng khi dịch không? Ví dụ, có cụm từ hay câu văn nào có thể hiểu theo nhiều nghĩa hay không?

Có một điểm là xuyên suốt cuốn sách tác giả dùng rất nhiều tính từ “white” – trắng, tuy nhiên nếu chỉ dịch đơn thuần là “trắng” trong tiếng Việt thì đôi khi vừa không nhịp nhàng, thuận tai, lại vừa như thiếu đi nét nghĩa nào đó. Do đó trong một số trường hợp mình có cân nhắc và mượn đến một số sắc thái trắng trong tiếng Việt mà mình nghĩ là phù hợp để dịch tính từ “white”. Còn về cụm từ làm khó mình thì cũng có kha khá, đa số mình đều tham khảo nhiều từ điển Anh-Anh lẫn Anh-Việt để tìm nét nghĩa tương đương nhất. Rất nhiều chỗ tra theo từng từ đơn lẻ sẽ bị sai nghĩa, vì phải tra cứu đúng cả cụm từ (ngữ) mới ra nghĩa chính xác.

Một chia sẻ thực lòng là dịch cuốn này mình còn rất non tay nên bản dịch sau cuối trên tay độc giả hiện nay cũng có sự trợ giúp biên tập, hiệu đính của một dịch giả uy tín. Bản thân mình trong quá trình dịch đã tự học được rất nhiều và khi đối chiếu với bản thảo dịch đã biên tập lại càng học thêm được nhiều điều hơn. Mình hy vọng nhờ được biên tập kỹ lưỡng như vậy nên cuốn sách xuất bản là một bản dịch trọn vẹn, hoàn thiện, cho độc giả một trải nghiệm đọc xứng đáng.

Bạn có lời nhắn nhủ nào cho những ai muốn đọc/ sắp sửa đọc tác phẩm này không? Chẳng hạn như, trước khi đọc cần phải chuẩn bị một tâm thế ra sao để việc thưởng thức tác phẩm được diễn ra trọn vẹn nhất?

Mình nghĩ với hầu hết các tác phẩm chứ không riêng gì Băng, ta có thể cứ thế bắt đầu đọc và thả mình theo câu chuyện, nếu cần tra cứu thông tin bổ trợ thì tìm kiếm thêm sau. Tuy nhiên nếu cảm giác đọc mà hoang mang không hiểu, không nắm bắt được, mình thường sẽ tìm đến các bài viết, thường là các bình luận trên The New Yorker, The New York Times hoặc một trang gần gũi hơn, tổng hợp nhiều ý kiến như Goodreads, đọc qua một số ý chính về cách tiếp cận tác phẩm, sau đó thử áp dụng vào cuốn sách mình đang đọc. Với riêng Băng, mình nghĩ các bạn đừng quá chú trọng đến cốt truyện hay một thông điệp nào. Mình cảm giác chỉ đến khi đọc xong và ngẫm lại, đọc đi đọc lại nhiều lần nữa, trong mình mới ngờ ngợ được những gì tác giả muốn nói (với một độc giả là mình, còn với người khác có lẽ bà lại nói điều khác).

Cảm ơn Tâm Anh vì đã mang đến cho Bookish một buổi trò chuyện ý nghĩa. Chúc bạn luôn thành công và gặt hái nhiều thành tựu trong tương lai.

Đọc bài viết

Cafe sáng