Phía sau trang sách

Đêm Chile, đêm văn chương giãy chết

Cuộc đời là cả một chuỗi những lầm lạc dẫn dắt người ta đến sự thật cuối cùng, sự thật trầm uất

Published

on

Tôi bắt đầu đến với văn chương Mỹ Latin bằng Márquez. Không riêng gì tôi, thiết nghĩ, phần lớn những người đọc đều bắt đầu hành trình văn chương của họ bằng Trăm năm cô đơn hay Tình yêu thời thổ tả. Từ Márquez, tôi bước một chân vào lãnh địa của Juan Rulfo qua Pedro Páramo, và một lần nữa lại kinh ngạc trước vẻ đẹp kỳ ảo huyền bí của văn chương lục địa này. Từ Juan Rulfo tôi dấn bước sâu hơn đến thế hệ kế thừa và bắt gặp Carlos Fuentes viết Nàng Aura như thước phim thiếu sáng chiếu suốt cái cô độc con người. Cứ mỗi lần tôi đọc một tác gia mới, người ta đều gọi họ như thể khởi đầu của một nền văn chương kỳ lạ, là cây bút xuất sắc nhất của thế hệ mình, của khu vực nói tiếng Tây Ban Nha và hằng hà sa số những mỹ từ khác. Và gần đây nhất, khi trải nghiệm Roberto Bolaño với câu chào mời “thiên tài văn chương Tây Ban Nha”, tôi lại không nghĩ nó sai. Vì chỉ với Đêm Chile rất mỏng và rất ngắn gọn, cũng như Pedro Páramo của Juan Rulfo hay Nàng Aura của Carlos Fuentes, nó đã đưa Roberto Bolaño vào trải nghiệm văn chương của riêng cá nhân tôi, một trải nghiệm thú vị, chuyển động không ngừng, xuyên thời gian và dĩ nhiên, là vô tiền khoáng hậu.

Với Đêm Chile, Roberto Bolaño đã dựng nên một trải nghiệm vô cùng cá nhân về giới văn chương mà ông đang sống. Ông dùng khái niệm dòng suy tưởng để xây dựng năm chương của cuốn sách này. Đó là lời đối thoại của ba hình thái cùng một người, như bức tranh một lần tự họa của Sylvia Plath – một yếu đuối hiện tại, một phán xét về sau và một thuần khiết bắt đầu. Song song cùng cái ngột ngạt của thời đại ấy, ông cũng đồng thời cho thấy tình yêu mãnh liệt của mình trước mảnh đất Chile chật hẹp. Ông than khóc trước chiến tranh, trước cảnh đảo chính hay bị giằng xé bởi những thế lực thù địch. Tình yêu văn chương, tình yêu đất nước của thời kỳ đầy biến động ấy có lẽ thúc bách ông viết về một đất nước đã chết mục ruỗng từ căn bệnh tiêu tâm. Từ đó một Roberto Bolaño lạ lẫm hiện ra, yếu thế, mong manh và đầy vẻ chán chường.

Chân dung ba mặt (1950 – 1951), chân dung tự họa Sylvia Plath

Tiểu thuyết mở đầu bằng cơn sốt cuối đời của nhân vật Sebastián Urrutia Lacroix – Cha xứ, nhà văn, nhà thơ mà ta dễ thấy sau này là hình bóng phản chiếu chính ông. Chính trong cơn thập tử nhất sinh ấy, Cha có dịp đối thoại cùng cái tôi phán xét của mình – một gã mà Cha gọi là già trước tuổi – luôn có mặt thập thò trong suốt câu chuyện. Như một đường thẳng nối dài, từng câu chuyện đã từng trải qua trong cuộc đời Cha dần dần hiện lại trong từng lát cắt ký ức. Từ chuyện cải đạo trở thành Cha xứ trong sự phản đối của cha mình và cái bất lực người mẹ; cho đến những cuộc gặp gỡ văn chương đầu tiên ở trang trại của Farewell. Từ ôm mộng vung tay trở thành ngôi sao sáng trong bầu trời văn chương Chile cho đến phản tỉnh nhìn ra cái mục ruỗng của đất nước này.  Tất cả trở đi trở về chỉ trong một đêm của cái sốt leo thang, từ đó câu chuyện chậm rãi và từ từ trôi. Cũng từ trong đó, Roberto Bolaño dần dần bóc tách lớp lang của tâm hồn mình ra trước người đọc, mở toang, phơi bày và đi vào tiểu phẫu chúng.

Khuôn mặt ba phía

“Đó là lời đối thoại của ba hình thái cùng một người – một yếu đuối hiện tại, một phán xét về sau và một thuần khiết bắt đầu.”

Lớp da đầu tiên xuyên suốt tiểu thuyết là Cha Sebastián. Ở đây dễ thấy Roberto Bolaño xây dựng hình tượng Cha như chính vẻ bề ngoài của ông nói riêng và của giới văn nhân nói chung. Ở Cha ta thấy một sự mong manh, mềm yếu, sự thiên về cảm tính hơn lý trí cá nhân. Chẳng hạn như những lần nhớ về quá khứ, từ lời mời gọi của Chúa, lối cư xử khách khí của người mẹ hay nhớ về cách sắp đặt những đồ vật ở nhà; đó dường như là cái yếu thế nhạy cảm mà những văn nhân vẫn luôn gặp phải. Hay ở một chi tiết khác, khi cô độc giữa chốn mông quạnh trên đường đến điền trang nhà Farewell, khi không thấy xe ngựa đến đón và thay vì đứng lên làm vài thứ mà người thường vẫn làm, Cha chỉ biết ngồi đó cầu kinh từ Đức mẹ Maria Đồng Trinh, Đức bà Lourdes Đồng trinh, Nữ thần Thống khổ Đồng trinh cho đến Nữ thần Sáng suốt Đồng trinh; cầu mong điều gì đó sẽ đến.

Đến khi đã ở trang trại nhà Farewell, bản tính văn nhân lại một lần nữa trồi lên và cái giả hình cá nhân lần đầu tiên xuất hiện. Ở đó Cha xứ vốn là một nhà phê bình, một nhà thơ; được gặp Pablo Neruda lần đầu tiên, và không gì khác chiếm lấy Cha bằng lòng ngưỡng mộ vị văn sĩ ấy. Cũng ở đó, khi gặp những người nông dân làm việc cho Farewell ở điền trang, vì một lý do nào đó, Cha lại cảm thấy xa cách. Có thể vì địa vị, tầng lớp, màu da; thay vì văn chương vốn không khoảng cách, Cha lại chạy trốn họ, không những chỉ với tư cách cá nhân, mà còn là một Cha xứ phụng sự Chúa trời. Từ đó ta thấy, lớp vỏ văn nhân mà cha hay Farewell khoác lên người không gì khác lớp áo tàng hình. Họ trang hoàng chúng bằng những cuộc gặp gỡ, bằng hội hè liên miên, bằng những ảo danh đầu lưỡi; nhưng thật chất bên trong, họ trống rỗng, tiêu tán phân ly từ muôn nghìn kiếp trước.

Lớp da thứ hai, sâu hơn và thâm căn hơn, là một nhân vật không hề có thực, có lẽ chỉ xuất hiện trong đầu óc Cha Sebastián như cách phán xét những chuyện đã qua. Nhân vật ấy không có tên, chỉ thường trực xuất hiện vào những nực cười câu chuyện, và được gọi với cái tên – lão già trước tuổi. Ở đây, Roberto Bolaño cho ta một gợi ý về nhân vật này, khi ông viết lão già ấy chỉ mới năm, sáu tuổi vào thập niên 50, và cũng trùng hợp thay, chuếnh choáng vào đúng thời khắc ông sinh ra. Lão già trước tuổi ở đây đại diện cho con người thật của ông, cho cách ông nhìn vào lớp giả hình của văn chương ấy. Lão già trước tuổi mờ mờ ảo ảo như chính cái bóng của Sordello, nó ngự trị và hàm ẩn trong mọi câu thoại lời nói, như phe hiếu chiến trong cuộc tranh giành giữa Cha và cái tôi thức tỉnh của mình. Và lớp da cuối cùng, non hơn, tươi mới hơn và cũng đầy hy vọng hơn – là cậu bé sinh ra trong ngôi nhà đầy rẫy tiệc tùng những thây ma sống của cha mẹ cậu. Cậu bé không vì một dụng ý gì lại trùng cái tên Sebastián như Cha, và cũng đôi lần Cha nhìn thấy chính mối liên kết giữa mình và cậu. Cậu bé chỉ vừa mới tròn bảy, tám tháng ấy như cái thuần khiết chưa bị ô nhục che lấy. Cậu ngủ trong vòng vây những ảo danh xung quanh mình, cậu bị niêm phong chặt chẽ trong thân xác mình. Và cũng vì thế, cậu là đại diện chính nơi văn chương vẫn còn giữ vững những giá trị thuần khiết nhất định.

Khánh kiệt văn chương

Trong chính ba mặt của một nhân vật, từ đó nỗi thống khổ văn chương như được thành hình. Từ những truyện lồng trong truyện, ta thấy hiện lên Chile của nơi văn chương không thể bén rễ, rằng “Trên đất nước của những ông điền chủ này, văn học là một thứ hiếm và biết đọc là việc chẳng bõ công”. Ở đó, những nhà văn nhà thơ thay vì là những nhạy cảm động chạm trước thời cuộc, họ lại chìm ngập trong nỗi sầu uất một thời đã quá ủ ê, mà điển hình chính nhất là anh họa sĩ người Gutemala. Vì những cuộc chiến bùng phát bên ngoài, anh bị mắc kẹt ở Paris trong khi tâm tưởng hướng về nơi khác. Anh mắc chứng bệnh mà như Roberto Bolaño gọi, là chứng sầu uất. Chính căn bệnh ấy ăn héo mòn dần những người văn sĩ, họ chỉ có thể ngồi trơ ra đó ngắm nhìn Paris từ bệ cửa sổ; họ cũng vì thế đi dạy học thuyết Karl Marx cho Pinochet, họ phải vung tay cho lời thóa mạ không hề hợp lẽ. Nội tình đất nước biến họ đâm ra an nhàn, họ mất động lực sáng tác, động lực trở mình và hơn hết chính là niềm tin dựa vào văn chương. Thế nên mới có một câu của Farewell mang đầy gợi ý trong đám tang Neruda, bọn trẻ con này chúng nó là ai, và còn mấy ai đọc lại những cuốn sách kia, những trước tác cũ của các nhà văn lỗi lạc nay đã mục ruỗng? Cái thứ mật đen mà giờ đây chính nó đang bào mòn thân xác tôi, nó đang làm cho tôi trở nên ẽo ợt và nó đang làm tôi trào nước mắt. Văn chương của nước Chile, mà không, của cả thế giới, đang chết dần mòn trong cơn nóng rẫy.

Ngoài chính ba mặt của một con người, nhân vật Farewell liệu phải gã già trước tuổi mà Cha nhắc tới? Farewell là đường trục chính, đưa Cha vào giới tinh hoa; đồng thời là người lắng nghe và phán xét Cha. Một lần Farewell kể về câu chuyện xây đồi Hellenberg và những nỗ lực không được đền đáp; lần sau ông ngắm cái bóng di chuyển trên tường khi nghe câu chuyện về tướng Pinochet. Farewell vẫn luôn ở đó, lắng nghe, phân tích và xoáy sâu vào Cha. Farewell là nơi tụ hội, Farewell là điểm phân kỳ. Và chính câu hỏi tu từ không hề giải đáp Chùm bóng đen của Sordello, Sordello, mà Sordello nào? lại đến trong đêm quán ăn trước cơn đói khổ.

Quê hương bé nhỏ

“Ông than khóc trước chiến tranh, trước cảnh đảo chính hay bị giằng xé bởi những thế lực thù địch. Tình yêu văn chương, tình yêu đất nước của thời kỳ đầy biến động có lẽ thúc bách ông viết về một đất nước đã chết mục ruỗng từ căn bệnh tiêu tâm.”

Cũng từ trong đây, Roberto Bolaño hướng về Chile trong một tình cảm vô cùng khắc khoải. Ông nhắc đến Chile không những chỉ bằng câu hỏi tu từ Nền văn học đã được tạo ra như thế đó, mà còn bởi chính những vùng vẫy của đất nước này lên trên bề nổi chính trị. Từ trong chi tiết chuyến công du châu Âu nghiên cứu quá trình bảo trì nhà thờ, khi quan sát con những con chim ưng giết đi những chú bồ câu ị quá nhiều, Cha Sebastián có một liên tưởng đến đất nước mình. Tôi mơ thấy một bầy chim ưng, có đến hàng nghìn con, đang bay trên cao không của Đại Tây Dương, hướng về châu Mỹ. Đôi lần mặt trời bị thâm đen trong giấc mơ của tôi.

Ở đó Chile của ông đang bị phanh thây bởi đàn đàn những con chim sắt. Hay ở một mặt khác, trong quán cà phê khi ông kể lại cho Farewell nghe câu chuyện với Pinochet, liệu cú khóc sau cùng là khóc vì một văn nhân đã phải từ mình đi dạy lý luận Mác xít; hay liệu đó là cú sốc cho người phục vụ chính tên độc tài của đất nước mình? Không hề biết được. Chỉ biết trong chính những đoạn đối thoại với tên độc tài ấy, Cha đã không chỉ một lần nhún nhường vì bản thân mình. Vị trí luồn cúi, bản chất bấp bênh; có lẽ đó là tiếng khóc bật ra sau cùng, tiếc cho Chile tươi đẹp của nền văn chết, tiếc cho cả một đất nước tự do.

Kết

Với Đêm Chile, Roberto Bolaño đã dùng ngòi bút khắc họa nên hai vấn đề văn chương – quê hương trong tiểu thuyết này. Đêm Chile là cuốn tiểu thuyết ngắn, thế nhưng sức mạnh chứa đựng trong đó lại vô cùng lớn –  sức mạnh của nỗi tuyệt vọng, của những thở than, của những mất mát. Chile cuối cùng đã chết dần mòn vì nền văn chương thiếu sót, đất nước Chile sau cơn giãy đạch cuối cùng cũng dần chìm sâu. Và cũng chính như Cha Sebastián, mọi thứ đã dần dần chết.

Rằng với Chile:“Toàn cõi Chile đã biến thành cây muồng hoa đào, cây Judas, một cái cây trụi lá, bề ngoài có vẻ như đã chết nhưng vẫn còn bám rễ rất chắc trong nền đất đen, nền đất đen phì nhiêu của chúng ta mà con sâu cũng dài đến 40 centimet”.

Và với văn chương:“Cậu nhìn nhưng không thấy, hai môi cậu bị niêm phong, hai mắt cậu bị niêm phong, toàn thân hình bé nhỏ cua cậu cũng bị niêm phong. Dường như cậu không muốn xem, không muốn nghe, và cũng không muốn nói gì trước đám văn nhân vui vẻ vô tư giữa buổi tiệc hàng tuần do mẹ cậu triệu tập đến”.

Một tiểu thuyết hay. Vô tiền khoáng hậu.

Hết.

minh.


Tìm hiểu thêm về văn chương Mỹ Latin


Phía sau trang sách

Giải mã hạnh phúc: Khám phá nguồn gốc của niềm vui và sự hài lòng

Liệu có bí mật nào cho hạnh phúc? Đây là câu hỏi đã xuất hiện từ hàng thập kỷ trước, và nhiều triết gia, lãnh tụ tôn giáo cũng như nhà khoa học đã đưa ra câu trả lời của riêng họ. Nhưng liệu có thể dùng khoa học để giải mã sự mưu cầu hạnh phúc được không?

Published

on

Hãy cùng đến với “Giải mã hạnh phúc”. Đây là một giả thuyết được đưa ra bởi chuyên gia tâm lý Jonathan Haidt, cho rằng hạnh phúc đến từ những khao khát nội tâm và đồng thời cũng đến từ các yếu tố bên ngoài. Nói cách khác thì hạnh phúc vừa là “bẩm sinh”, vừa là “nuôi dưỡng”.

Cụ thể thì như vậy nghĩa là gì? Hãy cùng phân tích các thành phần tạo nên “Giải mã hạnh phúc”, cũng như cách ứng dụng chúng vào cuộc sống để tìm kiếm niềm vui và sự hài lòng.

Bẩm sinh

Yếu tố di truyền đóng một vai trò nhất định trong cảm nhận chung về hạnh phúc của chúng ta. Một số người sinh ra đã có cái nhìn lạc quan, trong khi những người khác có thể phải vật lộn với lo âu và trầm cảm. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là mặc dù di truyền có thể ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc cơ bản, nhưng chúng không phải là yếu tố quyết định duy nhất.

Nuôi dưỡng

Môi trường và trải nghiệm cũng định hình hạnh phúc, điều này  bao gồm các mối quan hệ, công việc và thậm chí cả cộng đồng nơi chúng ta sống. Bằng cách tạo ra một môi trường hỗ trợ và trọn vẹn, chúng ta có thể nuôi dưỡng hạnh phúc lớn hơn trong cuộc sống.

Cân bằng giữa mong muốn và hoàn cảnh: “Giải mã hạnh phúc” cho rằng chúng ta có thể tìm thấy hạnh phúc bằng cách cân bằng giữa mong muốn bên trong và hoàn cảnh bên ngoài. Ví dụ, nếu bạn có mong muốn mạnh mẽ về an ninh tài chính, có thể bạn cần tìm một công việc mang đến nguồn thu nhập ổn định. Mặt khác, nếu bạn có niềm đam mê sâu sắc với sự sáng tạo, việc theo đuổi một sự nghiệp cho phép niềm đam mê đó phát triển có thể quan trọng hơn.

Vậy, làm cách nào để áp dụng “Giải mã hạnh phúc” vào thực tiễn? Dưới đây là một vài mẹo giúp bạn tìm thấy niềm vui và sự hài lòng trong cuộc sống:

1. Xác định các giá trị của bản thân: Hiểu được điều gì thực sự quan trọng với bạn có thể giúp định hướng các quyết định và tạo ra một cuộc sống viên mãn hơn.

2. Nuôi dưỡng các mối quan hệ: Mối quan hệ bền chặt với gia đình và bạn bè có thể mang lại tình yêu thương, sự hỗ trợ và cảm giác được thuộc về.

3. Theo đuổi đam mê: Tham gia vào các hoạt động và sở thích mang lại niềm vui có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc và hài lòng.

4. Thực hành lòng biết ơn: Dành thời gian để trân trọng những điều tốt đẹp trong cuộc sống, dù nhỏ bé, có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc tổng thể của bạn.

5. Cho đi: Giúp đỡ người khác có thể mang lại ý nghĩa và sự trọn vẹn cho cuộc sống của chúng ta.

Jonathan Haidt là một nhà tâm lý học và nhà tâm lý học xã hội, nổi tiếng với các công trình nghiên cứu về tâm lý học đạo đức và tâm lý học tư tưởng chính trị. Ông là giáo sư ngành Lãnh đạo Đạo đức tại Trường Kinh doanh Stern thuộc Đại học New York, và đã xuất bản một số cuốn sách và nhiều bài báo nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý học.

Các công trình của Haidt thường tập trung vào ý tưởng rằng niềm tin và giá trị đạo đức của chúng ta được hình thành bởi nhiều yếu tố, bao gồm văn hóa, sự nuôi dạy và kinh nghiệm cá nhân. Ông lập luận rằng đạo đức không chỉ là vấn đề lý trí mà còn bị ảnh hưởng bởi cảm xúc và trực giác của chúng ta.

Một trong những đóng góp đáng chú ý nhất của Haidt cho lĩnh vực tâm lý học là mô hình “trực giác xã hội” về phán đoán đạo đức. Mô hình này cho rằng các phán đoán đạo đức thường dựa trên những đánh giá tự động, vô thức về các tình huống, thay vì lý luận có ý thức và có chủ ý. Công trình này thách thức quan điểm truyền thống cho rằng việc ra quyết định đạo đức là một quá trình hoàn toàn lý trí, và nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc và trực giác trong việc hình thành niềm tin đạo đức của chúng ta.

Nghiên cứu của Haidt cũng đã khám phá vai trò của đạo đức trong hệ tư tưởng chính trị, và ông đã chỉ ra rằng những người theo chủ nghĩa bảo thủ và tự do thường có nền tảng đạo đức khác nhau. Ví dụ, những người theo chủ nghĩa bảo thủ có xu hướng coi trọng các giá trị như lòng trung thành, quyền lực và sự thiêng liêng, trong khi những người theo chủ nghĩa tự do có xu hướng coi trọng sự công bằng và chăm sóc. Haidt lập luận rằng những khác biệt về đạo đức này đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình thái độ và hành vi chính trị.

Các công trình của Haidt đã được trích dẫn rộng rãi và nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm Giải thưởng William James Fellow từ Hiệp hội Khoa học Tâm lý. Các cuốn sách của ông được ca ngợi vì dễ tiếp cận và chứa đựng những hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người.

Nhìn chung, những đóng góp của Jonathan Haidt cho lĩnh vực tâm lý học đã làm sáng tỏ vai trò của đạo đức và cảm xúc trong việc định hình niềm tin và hành vi, đồng thời giúp mở rộng hiểu biết về sự phức tạp của tâm trí con người.

Tóm lại, “Giải mã hạnh phúc” nhắc nhở chúng ta rằng hạnh phúc là sự kết hợp của cả bẩm sinh và nuôi dưỡng. Bằng cách cân bằng những mong muốn bên trong với hoàn cảnh bên ngoài, chúng ta có thể tạo ra một cuộc sống viên mãn và vui vẻ hơn. Vậy nên, hãy thử kiểm chứng “Giải mã hạnh phúc” và xem liệu nó có khiến bạn hạnh phúc hơn không nhé!

Lam dịch từ MindfulMac

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Cafe sáng