Phía sau trang sách

Đêm Chile, đêm văn chương giãy chết

Cuộc đời là cả một chuỗi những lầm lạc dẫn dắt người ta đến sự thật cuối cùng, sự thật trầm uất

Published

on

Tôi bắt đầu đến với văn chương Mỹ Latin bằng Márquez. Không riêng gì tôi, thiết nghĩ, phần lớn những người đọc đều bắt đầu hành trình văn chương của họ bằng Trăm năm cô đơn hay Tình yêu thời thổ tả. Từ Márquez, tôi bước một chân vào lãnh địa của Juan Rulfo qua Pedro Páramo, và một lần nữa lại kinh ngạc trước vẻ đẹp kỳ ảo huyền bí của văn chương lục địa này. Từ Juan Rulfo tôi dấn bước sâu hơn đến thế hệ kế thừa và bắt gặp Carlos Fuentes viết Nàng Aura như thước phim thiếu sáng chiếu suốt cái cô độc con người. Cứ mỗi lần tôi đọc một tác gia mới, người ta đều gọi họ như thể khởi đầu của một nền văn chương kỳ lạ, là cây bút xuất sắc nhất của thế hệ mình, của khu vực nói tiếng Tây Ban Nha và hằng hà sa số những mỹ từ khác. Và gần đây nhất, khi trải nghiệm Roberto Bolaño với câu chào mời “thiên tài văn chương Tây Ban Nha”, tôi lại không nghĩ nó sai. Vì chỉ với Đêm Chile rất mỏng và rất ngắn gọn, cũng như Pedro Páramo của Juan Rulfo hay Nàng Aura của Carlos Fuentes, nó đã đưa Roberto Bolaño vào trải nghiệm văn chương của riêng cá nhân tôi, một trải nghiệm thú vị, chuyển động không ngừng, xuyên thời gian và dĩ nhiên, là vô tiền khoáng hậu.

Với Đêm Chile, Roberto Bolaño đã dựng nên một trải nghiệm vô cùng cá nhân về giới văn chương mà ông đang sống. Ông dùng khái niệm dòng suy tưởng để xây dựng năm chương của cuốn sách này. Đó là lời đối thoại của ba hình thái cùng một người, như bức tranh một lần tự họa của Sylvia Plath – một yếu đuối hiện tại, một phán xét về sau và một thuần khiết bắt đầu. Song song cùng cái ngột ngạt của thời đại ấy, ông cũng đồng thời cho thấy tình yêu mãnh liệt của mình trước mảnh đất Chile chật hẹp. Ông than khóc trước chiến tranh, trước cảnh đảo chính hay bị giằng xé bởi những thế lực thù địch. Tình yêu văn chương, tình yêu đất nước của thời kỳ đầy biến động ấy có lẽ thúc bách ông viết về một đất nước đã chết mục ruỗng từ căn bệnh tiêu tâm. Từ đó một Roberto Bolaño lạ lẫm hiện ra, yếu thế, mong manh và đầy vẻ chán chường.

Chân dung ba mặt (1950 – 1951), chân dung tự họa Sylvia Plath

Tiểu thuyết mở đầu bằng cơn sốt cuối đời của nhân vật Sebastián Urrutia Lacroix – Cha xứ, nhà văn, nhà thơ mà ta dễ thấy sau này là hình bóng phản chiếu chính ông. Chính trong cơn thập tử nhất sinh ấy, Cha có dịp đối thoại cùng cái tôi phán xét của mình – một gã mà Cha gọi là già trước tuổi – luôn có mặt thập thò trong suốt câu chuyện. Như một đường thẳng nối dài, từng câu chuyện đã từng trải qua trong cuộc đời Cha dần dần hiện lại trong từng lát cắt ký ức. Từ chuyện cải đạo trở thành Cha xứ trong sự phản đối của cha mình và cái bất lực người mẹ; cho đến những cuộc gặp gỡ văn chương đầu tiên ở trang trại của Farewell. Từ ôm mộng vung tay trở thành ngôi sao sáng trong bầu trời văn chương Chile cho đến phản tỉnh nhìn ra cái mục ruỗng của đất nước này.  Tất cả trở đi trở về chỉ trong một đêm của cái sốt leo thang, từ đó câu chuyện chậm rãi và từ từ trôi. Cũng từ trong đó, Roberto Bolaño dần dần bóc tách lớp lang của tâm hồn mình ra trước người đọc, mở toang, phơi bày và đi vào tiểu phẫu chúng.

Khuôn mặt ba phía

“Đó là lời đối thoại của ba hình thái cùng một người – một yếu đuối hiện tại, một phán xét về sau và một thuần khiết bắt đầu.”

Lớp da đầu tiên xuyên suốt tiểu thuyết là Cha Sebastián. Ở đây dễ thấy Roberto Bolaño xây dựng hình tượng Cha như chính vẻ bề ngoài của ông nói riêng và của giới văn nhân nói chung. Ở Cha ta thấy một sự mong manh, mềm yếu, sự thiên về cảm tính hơn lý trí cá nhân. Chẳng hạn như những lần nhớ về quá khứ, từ lời mời gọi của Chúa, lối cư xử khách khí của người mẹ hay nhớ về cách sắp đặt những đồ vật ở nhà; đó dường như là cái yếu thế nhạy cảm mà những văn nhân vẫn luôn gặp phải. Hay ở một chi tiết khác, khi cô độc giữa chốn mông quạnh trên đường đến điền trang nhà Farewell, khi không thấy xe ngựa đến đón và thay vì đứng lên làm vài thứ mà người thường vẫn làm, Cha chỉ biết ngồi đó cầu kinh từ Đức mẹ Maria Đồng Trinh, Đức bà Lourdes Đồng trinh, Nữ thần Thống khổ Đồng trinh cho đến Nữ thần Sáng suốt Đồng trinh; cầu mong điều gì đó sẽ đến.

Đến khi đã ở trang trại nhà Farewell, bản tính văn nhân lại một lần nữa trồi lên và cái giả hình cá nhân lần đầu tiên xuất hiện. Ở đó Cha xứ vốn là một nhà phê bình, một nhà thơ; được gặp Pablo Neruda lần đầu tiên, và không gì khác chiếm lấy Cha bằng lòng ngưỡng mộ vị văn sĩ ấy. Cũng ở đó, khi gặp những người nông dân làm việc cho Farewell ở điền trang, vì một lý do nào đó, Cha lại cảm thấy xa cách. Có thể vì địa vị, tầng lớp, màu da; thay vì văn chương vốn không khoảng cách, Cha lại chạy trốn họ, không những chỉ với tư cách cá nhân, mà còn là một Cha xứ phụng sự Chúa trời. Từ đó ta thấy, lớp vỏ văn nhân mà cha hay Farewell khoác lên người không gì khác lớp áo tàng hình. Họ trang hoàng chúng bằng những cuộc gặp gỡ, bằng hội hè liên miên, bằng những ảo danh đầu lưỡi; nhưng thật chất bên trong, họ trống rỗng, tiêu tán phân ly từ muôn nghìn kiếp trước.

Lớp da thứ hai, sâu hơn và thâm căn hơn, là một nhân vật không hề có thực, có lẽ chỉ xuất hiện trong đầu óc Cha Sebastián như cách phán xét những chuyện đã qua. Nhân vật ấy không có tên, chỉ thường trực xuất hiện vào những nực cười câu chuyện, và được gọi với cái tên – lão già trước tuổi. Ở đây, Roberto Bolaño cho ta một gợi ý về nhân vật này, khi ông viết lão già ấy chỉ mới năm, sáu tuổi vào thập niên 50, và cũng trùng hợp thay, chuếnh choáng vào đúng thời khắc ông sinh ra. Lão già trước tuổi ở đây đại diện cho con người thật của ông, cho cách ông nhìn vào lớp giả hình của văn chương ấy. Lão già trước tuổi mờ mờ ảo ảo như chính cái bóng của Sordello, nó ngự trị và hàm ẩn trong mọi câu thoại lời nói, như phe hiếu chiến trong cuộc tranh giành giữa Cha và cái tôi thức tỉnh của mình. Và lớp da cuối cùng, non hơn, tươi mới hơn và cũng đầy hy vọng hơn – là cậu bé sinh ra trong ngôi nhà đầy rẫy tiệc tùng những thây ma sống của cha mẹ cậu. Cậu bé không vì một dụng ý gì lại trùng cái tên Sebastián như Cha, và cũng đôi lần Cha nhìn thấy chính mối liên kết giữa mình và cậu. Cậu bé chỉ vừa mới tròn bảy, tám tháng ấy như cái thuần khiết chưa bị ô nhục che lấy. Cậu ngủ trong vòng vây những ảo danh xung quanh mình, cậu bị niêm phong chặt chẽ trong thân xác mình. Và cũng vì thế, cậu là đại diện chính nơi văn chương vẫn còn giữ vững những giá trị thuần khiết nhất định.

Khánh kiệt văn chương

Trong chính ba mặt của một nhân vật, từ đó nỗi thống khổ văn chương như được thành hình. Từ những truyện lồng trong truyện, ta thấy hiện lên Chile của nơi văn chương không thể bén rễ, rằng “Trên đất nước của những ông điền chủ này, văn học là một thứ hiếm và biết đọc là việc chẳng bõ công”. Ở đó, những nhà văn nhà thơ thay vì là những nhạy cảm động chạm trước thời cuộc, họ lại chìm ngập trong nỗi sầu uất một thời đã quá ủ ê, mà điển hình chính nhất là anh họa sĩ người Gutemala. Vì những cuộc chiến bùng phát bên ngoài, anh bị mắc kẹt ở Paris trong khi tâm tưởng hướng về nơi khác. Anh mắc chứng bệnh mà như Roberto Bolaño gọi, là chứng sầu uất. Chính căn bệnh ấy ăn héo mòn dần những người văn sĩ, họ chỉ có thể ngồi trơ ra đó ngắm nhìn Paris từ bệ cửa sổ; họ cũng vì thế đi dạy học thuyết Karl Marx cho Pinochet, họ phải vung tay cho lời thóa mạ không hề hợp lẽ. Nội tình đất nước biến họ đâm ra an nhàn, họ mất động lực sáng tác, động lực trở mình và hơn hết chính là niềm tin dựa vào văn chương. Thế nên mới có một câu của Farewell mang đầy gợi ý trong đám tang Neruda, bọn trẻ con này chúng nó là ai, và còn mấy ai đọc lại những cuốn sách kia, những trước tác cũ của các nhà văn lỗi lạc nay đã mục ruỗng? Cái thứ mật đen mà giờ đây chính nó đang bào mòn thân xác tôi, nó đang làm cho tôi trở nên ẽo ợt và nó đang làm tôi trào nước mắt. Văn chương của nước Chile, mà không, của cả thế giới, đang chết dần mòn trong cơn nóng rẫy.

Ngoài chính ba mặt của một con người, nhân vật Farewell liệu phải gã già trước tuổi mà Cha nhắc tới? Farewell là đường trục chính, đưa Cha vào giới tinh hoa; đồng thời là người lắng nghe và phán xét Cha. Một lần Farewell kể về câu chuyện xây đồi Hellenberg và những nỗ lực không được đền đáp; lần sau ông ngắm cái bóng di chuyển trên tường khi nghe câu chuyện về tướng Pinochet. Farewell vẫn luôn ở đó, lắng nghe, phân tích và xoáy sâu vào Cha. Farewell là nơi tụ hội, Farewell là điểm phân kỳ. Và chính câu hỏi tu từ không hề giải đáp Chùm bóng đen của Sordello, Sordello, mà Sordello nào? lại đến trong đêm quán ăn trước cơn đói khổ.

Quê hương bé nhỏ

“Ông than khóc trước chiến tranh, trước cảnh đảo chính hay bị giằng xé bởi những thế lực thù địch. Tình yêu văn chương, tình yêu đất nước của thời kỳ đầy biến động có lẽ thúc bách ông viết về một đất nước đã chết mục ruỗng từ căn bệnh tiêu tâm.”

Cũng từ trong đây, Roberto Bolaño hướng về Chile trong một tình cảm vô cùng khắc khoải. Ông nhắc đến Chile không những chỉ bằng câu hỏi tu từ Nền văn học đã được tạo ra như thế đó, mà còn bởi chính những vùng vẫy của đất nước này lên trên bề nổi chính trị. Từ trong chi tiết chuyến công du châu Âu nghiên cứu quá trình bảo trì nhà thờ, khi quan sát con những con chim ưng giết đi những chú bồ câu ị quá nhiều, Cha Sebastián có một liên tưởng đến đất nước mình. Tôi mơ thấy một bầy chim ưng, có đến hàng nghìn con, đang bay trên cao không của Đại Tây Dương, hướng về châu Mỹ. Đôi lần mặt trời bị thâm đen trong giấc mơ của tôi.

Ở đó Chile của ông đang bị phanh thây bởi đàn đàn những con chim sắt. Hay ở một mặt khác, trong quán cà phê khi ông kể lại cho Farewell nghe câu chuyện với Pinochet, liệu cú khóc sau cùng là khóc vì một văn nhân đã phải từ mình đi dạy lý luận Mác xít; hay liệu đó là cú sốc cho người phục vụ chính tên độc tài của đất nước mình? Không hề biết được. Chỉ biết trong chính những đoạn đối thoại với tên độc tài ấy, Cha đã không chỉ một lần nhún nhường vì bản thân mình. Vị trí luồn cúi, bản chất bấp bênh; có lẽ đó là tiếng khóc bật ra sau cùng, tiếc cho Chile tươi đẹp của nền văn chết, tiếc cho cả một đất nước tự do.

Kết

Với Đêm Chile, Roberto Bolaño đã dùng ngòi bút khắc họa nên hai vấn đề văn chương – quê hương trong tiểu thuyết này. Đêm Chile là cuốn tiểu thuyết ngắn, thế nhưng sức mạnh chứa đựng trong đó lại vô cùng lớn –  sức mạnh của nỗi tuyệt vọng, của những thở than, của những mất mát. Chile cuối cùng đã chết dần mòn vì nền văn chương thiếu sót, đất nước Chile sau cơn giãy đạch cuối cùng cũng dần chìm sâu. Và cũng chính như Cha Sebastián, mọi thứ đã dần dần chết.

Rằng với Chile:“Toàn cõi Chile đã biến thành cây muồng hoa đào, cây Judas, một cái cây trụi lá, bề ngoài có vẻ như đã chết nhưng vẫn còn bám rễ rất chắc trong nền đất đen, nền đất đen phì nhiêu của chúng ta mà con sâu cũng dài đến 40 centimet”.

Và với văn chương:“Cậu nhìn nhưng không thấy, hai môi cậu bị niêm phong, hai mắt cậu bị niêm phong, toàn thân hình bé nhỏ cua cậu cũng bị niêm phong. Dường như cậu không muốn xem, không muốn nghe, và cũng không muốn nói gì trước đám văn nhân vui vẻ vô tư giữa buổi tiệc hàng tuần do mẹ cậu triệu tập đến”.

Một tiểu thuyết hay. Vô tiền khoáng hậu.

Hết.

minh.


Tìm hiểu thêm về văn chương Mỹ Latin


Phía sau trang sách

Thế giới nội tâm u uẩn của những người phụ nữ dưới ngòi bút Dazai Osamu

Published

on

Thường người ta vẫn nghĩ rằng có phụ nữ mới hiểu nhau. Ít khi nào mà một người đàn ông có thể hiểu rõ chân tơ kẽ tóc người phụ nữ, đặc biệt là những rung động thầm kín tế vi hay những khát khao mãnh liệt. Trong chừng mực nào đó, một Don Juan hay Casanova có thể trở thành bậc thầy trong việc am hiểu tâm lý người phụ nữ để chinh phục, ghi dấu tình trường. Nhưng đặt mình vào thế đứng, vị trí của những người phụ nữ để cùng họ đồng cảm, đấu tranh vượt lên trên số phận đến mức viết được những tác phẩm kinh điển thì những văn hào đó chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ta có thể kể đến Nguyễn Du khi sáng tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều), Tào Tuyết Cần viết “Hồng lâu mộng”, Gustave Flaubert viết “Bà Bovary”, Tolstoy viết “Anna Karenina” và Dazai Osamu khi viết “Tà dương” hay “Nữ sinh”.

Dazai Osamu (1909-1948) là một nhà văn nổi tiếng của văn học Nhật Bản hiện đại. Kiệt tác “Thất lạc cõi người” của ông đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong lịch sử văn học Nhật Bản với hơn mười triệu bản in. Tuy cuộc đời 39 năm ngắn ngủi của Dazai trải qua nhiều nỗi bi kịch với năm lần tự sát, nghiện thuốc giảm đau, ly dị vợ…nhưng tác phẩm của ông luôn chan chứa cái nhìn ấm áp trân trọng về những người phụ nữ. Những tác phẩm xuất sắc của Dazai như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Người vợ Villon” mà chúng tôi dịch là “Vợ gã hoang đàng” đều được dựng thành phim. Trong đó “Nhân gian thất cách” (Thất lạc cõi người) đã được nhiều lần chuyển thể điện ảnh. Vì đây là tiểu thuyết tự thuật về cuộc đời Dazai nên thường cuộc đời Dazai được lồng ghép vào trong phim. Mới đây nhất bộ phim “Nhân gian thất cách và 3 người đàn bà trong cuộc đời Dazai” (人間失格 太宰治と3人の女たち) do nam diễn viên Oguri Shun đóng vai chính mới được công chiếu vào tháng 9 năm 2019 đã gây một làn sóng đồng cảm với Dazai trên toàn cõi Á Châu.

Như chúng tôi đã nhận định trong bài “Mưa trên thánh giá” (Lời tựa cho “Nữ sinh” lần tái bản thứ sáu, Nxb Hội nhà văn và Công ty Sách Phương Nam, trang 9):

“Con chim trước khi bay vào khu rừng sâu âm u hoang phế trong ánh chiều tà sắp tắt còn để lại một tiếng kêu thương ngân dài. Dazai đúng là như vậy. Từ mảnh tàn dư của văn chương vô mệnh (“Độc tiểu thanh ký” của Nguyễn Du “chi phấn hữu thần liên tử hậu, văn chương vô mệnh lụy phần dư”), cả một thế giới nội tâm u uẩn hiện ra không riêng gì Dazai mà của cả tinh thần Nhật Bản. Những người phụ nữ trong tác phẩm của ông từ thiếu nữ mười bốn tuổi nhẫn nhục cam chịu rồi phản kháng đến những người phụ nữ trung niên vẫy vùng giữa buổi tà dương đều không thoát ly khỏi dòng lịch sử với những buộc ràng thân phận gần như đến mức phi nhân. Với chính bản thân Dazai nữa, công cuộc sinh tồn đã là một trường đấu tranh mà để sống còn được đã là một chiến công hiển hách. Nhưng niềm trân trọng cùng sự xót xa thương cảm của Dazai đưa vào văn chương đã làm cho những dáng hình bé nhỏ kia và chính mình trở nên bất tử. Đó cũng chính là ân sủng của đau thương dành cho một đời văn ngắn ngủi. Nỗ lực âm thầm và đầy đau đớn của Dazai đã làm chúng ta nhận ra cả tiếng dế hắt hiu vọng lên từ xương cốt, những tiếng thét gào nhẫn nhục trong đêm câm, những giọt rượu mềm môi chát đắng và những giọt lệ nhỏ trên máu xương đều là lời ru ngọt của đoạn trường”.

Ngoài tiểu viết tiểu thuyết tự thuật (tư tiểu thuyết – 私小説) miêu tả trải nghiệm cá nhân, Dazai còn nổi tiếng về những tác phẩm xuất sắc miêu tả tâm lý và khắc họa tâm tình thời đại của người phụ nữ, từ một cô bé nữ sinh đến một người vợ đảm của nhà thơ nghèo. Tất nhiên không có một tác phẩm hư cấu nào gây đồng cảm và kinh ngạc cho độc giả mà không dựa vào trải nghiệm có thật. Như tác phẩm “Nữ sinh” được sáng tác dựa trên nhật ký của một độc giả nữ tên là Ariake Shizu (lúc bấy giờ 19 tuổi) gửi cho Dazai vào tháng 9 năm 1938, Dazai đã viết lại thành một truyện vừa nói về biến chuyển nội tâm của một nữ sinh 14 tuổi gói gọn trong vòng một ngày từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ. Tâm lý bi quan trầm uất của một thiếu nữ tuổi dậy thì được ngòi bút xuất sắc của Dazai khắc họa bằng một văn phong vô cùng tinh tế. Ngay cả văn hào Kawabata Yasunari (người được giải thưởng Nobel văn chương đầu tiên của Nhật Bản với các kiệt tác “Xứ tuyết”, “Ngàn cánh hạc”, “Cố đô”…) cũng không tiếc lời khen ngợi. Và chính nhật ký của Ariake cũng đã trở thành một tư liệu văn học quý và được trưng bày tại bảo tàng văn học cận đại Aomori vào tháng 2 năm 2000. Cô bé nữ sinh trong tác phẩm vẫn mơ ước sống một cuộc đời đẹp đẽ mặc dù bắt đầu dần dần nhận thấy cuộc đời có nhiều cảnh trái ngang. “Cái lối giáo dục đạo đức ở trường lớp với những luật lệ của cuộc đời này vốn khác nhau quá xa, mà tôi biết rằng dần dần sự khác biệt này còn trở nên rộng lớn hơn nữa. Nếu như tuyệt đối tuân thủ theo những bài học đạo đức ở trường người đó sẽ bị xem là kẻ ngu ngốc lập dị, không thể thành đạt và trở nên bần cùng…Tôi muốn cái thứ đạo đức này nhanh chóng thay đổi. Nếu được vậy thì tôi sẽ không còn phải đê tiện và sống nhỏ giọt từ ngày này qua tháng khác không phải vì mình mà để chiều lòng người”…Đến tận bây giờ câu nói này vẫn gợi cho chúng ta suy ngẫm nhiều điều về giáo dục, nơi cách biệt giữa giáo điều và thực tiễn ngày càng sâu xa hơn.

Tà dương” được bình chọn là tác phẩm hay nhất của văn học Nhật Bản viết về thời hậu chiến nói về một gia đình quý tộc sa sút và sự can đảm đấu tranh để sống còn. Người mẹ quý tộc chết đi như chấm dứt tất cả sự đẹp đẽ của thời vàng son dĩ vãng. Chỉ còn lại Naoji ngập ngụa trong sự tự hủy lưu đày để cố gắng xóa nhòa đi cốt cách quý tộc nơi mình nhưng cuối cùng cũng phải tự sát vì “cuối cùng em vẫn là quý tộc”. Chỉ riêng Kazuko khi thức tỉnh rằng “con người được sinh ra vì tình yêu và cách mạng” mới quyết tâm sinh con với nhà văn Uehara, can đảm sống tiếp dù chỉ là một “nạn nhân” trong thời đại mới. Trong bức thư cuối cùng gửi Uehara, Kazuko đã viết: “Cuối cùng em đã hiểu tại sao có hòa bình, chiến tranh, các nghiệp đoàn, thương mại, chính trị trong cuộc đời này. Chắc là ông không biết đâu, phải không? Vì thế mà ông cứ bất hạnh mãi. Để em nói cho ông biết nhé. Đó là vì phụ nữ đẻ ra những đứa con ngoan”.

(Tất cả những trích dẫn được lấy từ tác phẩm “Tà dương” và “Nữ sinh” của Dazai Osamu, Hoàng Long dịch, nxb Phương Nam tái bản năm 2023 và 2024.)

Những đứa con ngoan đó chăm chỉ học hành trở thành những người con ưu tú của gia đình và dân tộc. Chính người con ngoan đó mới trở thành chính trị gia, nhà kinh doanh lỗi lạc và rồi từ đó chiến tranh, các cuộc chiến thương mại châm ngòi cho máu xương và hoang tàn đổ nát trên mặt đất này. Từ đó mặt đất chỉ còn đầy “nạn nhân”. Những người như Uehara tuy phóng đãng mà vô hại. Một đứa con ngoan nào đó có thể trở thành tội đồ cho cả nhân gian. Biết làm sao mà nói. Cuối cùng như nữ nhà văn Kakuta Mitsuyo trong bài cảm nhận về tác phẩm “Tà dương” đã phải thở than “đúng là cuộc đời này không có đạo lý nào cả”. Câu nói của Kazuko thật táng đởm kinh hồn, đủ khiến cho bao nhiêu tư tưởng gia phải ôm đầu xiểng liểng. Cái niềm kiêu hãnh ngất trời đó thật đúng là một bài ca nữ quyền chói lọi.

Bộ phim “Tà dương” với nữ diễn viên Miyamoto Mayu đóng vai Kazuko

Độc giả lúc mới đọc tác phẩm của Dazai thường cảm thấy sự suy sụp tự hủy và nhu nhược ủy mị. Có lẽ vì cái bóng quá lớn của đời tư được phản ánh trong “Thất lạc cõi người” đã khiến chúng ta trở nên thiên kiến. Nhưng khi đã đủ trải nghiệm cuộc đời để bình tâm đọc lại chúng ta sẽ nhận ra được hai điều cốt tủy.

Thứ nhất là tuy cuộc đời đầy đau thương và nhiều lần tìm đến cái chết nhưng tác phẩm của Dazai luôn mạnh mẽ đến mức ngạc nhiên. Như nhà văn Kakuta Mitsuyo đã nhận ra lúc mới đọc thì thấy có vẻ ủy mị yếu đuối nhưng khi đã từng trải đọc lại đều thấy tê người. Như câu kết truyện “Vợ gã hoang đàng”: “Nửa người nửa ngợm cũng không sao. Miễn mình còn sống là được rồi anh ạ”*. Câu nói này phải chăng hàm nghĩa dù bị đày đọa đau thương, dù nhân gian chối bỏ thì cuối cùng sự sống còn luôn là một chiến công hiển hách, đầy kiêu hãnh phẩm giá mà những con người yếu đuối tuyệt đối không thể hình dung.

(*Nguyên văn “人非人でもいいじゃないの。私たちは、生きていさえすればいいのよ”. Từ “nhân phi nhân” (人非人) nghĩa là tuy mang hình dáng con người nhưng đi chệch khỏi con đường làm người, nửa người nửa ngợm, không có phẩm giá con người)

Phim “Vợ gã hoang đàng” với nữ diễn viên Takako Matsu đóng vai chính

Như câu thơ của Ibaraki Noriko, một nhà thơ nữ Nhật Bản:

Cho dù vấp ngã bao lần

Tôi cũng phải tiếp tục sống

Dù không biết vì sao

Nhưng sống mới có thể bênh vực loài đang sống

この失敗にもかかわらず
私もまた生きてゆかねばならない
なぜかは知らず
生きている以上 生きものの味方をして

Thứ hai là tác phẩm của Dazai luôn khắc họa vẻ đẹp tâm hồn những người phụ nữ Nhật Bản với lòng trân trọng cảm thông. Điều lạ lùng là tất cả những nhân vật nhà thơ, họa sĩ, nhà văn trong tác phẩm Dazai vốn là những kẻ được trời ban cho khả năng thiên phú tìm kiếm cái đẹp và sống vì nó thì lại hết sức tầm thường dung tục, ham luyến hư danh còn những người phụ nữ của họ thì lại vô cùng đẹp đẽ dù trong hoàn cảnh giản dị hay cao sang. Trong “Tà dương” Naoji đã nhìn thấy nét đẹp dịu dàng đời thường của vị phu nhân họa sĩ “Bầu trời chiều mùa đông Tokyo xanh ngắt, nàng ôm con gái ngồi bên cửa sổ như chẳng để làm gì. Cái gương mặt nghiêng nghiêng đoan chính với những đường nét thanh tú nổi bật lên nền trời, đẹp như một bức tranh chân dung thời Phục Hưng”. Ngoài ra cung cách hành xử của người vợ của nhà thơ Otani trong truyện “Vợ gã hoang đàng” lúc nghe tin chủ quán rượu đến đòi nợ, khi đút khoai cho con ăn nơi chiếc ghế đá sứt mẻ bên bờ ao công viên Inokashira cho đến khi trả hết nợ và chờ chồng mình trở về hay phu nhân của nhà văn trong tác phẩm “Một ngày trọng đại”, vợ của ký giả trong truyện “Người vợ”…đều được khắc họa cao quý vô song. Đặc biệt là người vợ họa sĩ trong tác phẩm “Tiếng dế nỉ non” đã không chịu nổi sự thay đổi biến chất vì hư vinh của chồng mình đã quyết tâm chia tay “Vì em cảm thấy rằng tự sát chính là thứ tội lỗi ghê gớm nhất cho nên em nghĩ sau khi chia tay anh mình sẽ cố gắng sống thử cách sống mà mình cho là đúng đắn một thời gian xem sao. Anh làm cho em hãi sợ. Có lẽ trên thế gian này, cách sống của anh là đúng đắn đấy. Tuy nhiên em không thể nào tiếp tục sống như vậy được nữa”.

Tại sao những người phụ nữ trong tác phẩm của Dazai lại đẹp đến thế? Có lẽ vì trong sâu thẳm tim mình họ luôn có một thứ ánh sáng dù hiu hắt chiếu soi, trong tâm tư mình có một tiếng lòng đẹp đẽ không bao giờ tắt đi bất chấp hoàn cảnh, thời đại. Như câu kết của tác phẩm “Tiếng dế nỉ non”:

Khi em tắt đèn nằm ngửa nhìn lên trần nhà thì nghe dưới lưng em có tiếng dế kêu rền rĩ. Tiếng dế kêu ở dưới hành lang bên ngoài nhưng nghe vang vọng ngay từ dưới lưng em khiến em cảm thấy tiếng dế như nỉ non từ trong xương sống của em vậy. Em định sẽ sống cả đời với tiếng kêu hiu hắt nhỏ bé kia cất giữ mãi trong xương cốt. Có lẽ trên thế gian này, anh đã làm đúng còn em mới là người sai chăng? Thế nhưng em lại không biết mình sai ở đâu, sai như thế nào và tại sao mình sai nữa”.

Có lẽ cuộc đời này không có đúng sai. Chỉ có những gã đàn ông dung tục, những đứa con ngoan và những người phụ nữ đẹp đẽ đang cùng nhau tranh đấu và sống theo kiểu của riêng mình thôi chăng? Không có một đáp án chung cho tất cả mọi người. Như thế chúng ta phải dùng chính đôi mắt của mình để phân biệt giá trị xem điều gì là phù hợp hay không phù hợp. Từ đó mà tiếp tục hiên ngang sống. Sự mạnh mẽ quyết đoán đó ngạc nhiên thay lại toát ra từ những con người nhỏ bé, yếu đuối, “dù biết thua cuộc nhưng vẫn không ngừng đấu tranh”.

Đó có lẽ là điều Dazai Osamu muốn gửi gắm qua tác phẩm.

Và độc giả chúng ta cũng cần đọc kỹ để tìm ra những câu văn ngời sáng chứa đựng tiếng lòng đẹp đẽ của những người phụ nữ nói riêng và thân phận con người nói chung để khích lệ chính mình bước tiếp. Ý chí sống truyền đời đó sẽ không bao giờ tắt nghỉ và chỉ duy nhất văn chương mới có thể gọi tên. Ngay cả trong thời đại công nghệ thay đổi chóng mặt, thách thức và cải hoán các giá trị cũ hôm nay, khi con thuyền cuộc đời chới với biển sâu thì chúng ta vẫn luôn có thể tìm thấy ánh sáng niềm tin nơi ngọn hải đăng từ những tác phẩm văn học chân chính.

Sài Gòn, ngày 6/3/2025

Hoàng Long

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Cafe sáng