Trích đăng

Chương 1 “Chuyện xứ Dran xưa” (Lâm Trung Châu)

“Chuyện xứ Dran xưa” miên man theo dòng hồi ức của một “ông già” hóm hỉnh đi vào miền sương khói hoang vu của một thời quá vãng. Trong dòng chảy hoài niệm ấy, Dran hiện ra mơ màng, sống động. Dran – vùng đất ai cũng từng nghe tên một lần nhưng để hình dung thưòng khó ai miêu tả được. Lâm Trung Châu với hết đời người gắn bó với vùng đất này để dắt tay người đọc qua thăng trầm của lịch sử, qua những gương mặt người, qua biến động thời cuộc.

Published

on

Trích từ: Chuyện xứ Dran xưa

Tác giả: Lâm Trung Châu

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Tái bản: tháng 7.2020

Chi tiết tác phẩm

*

Tôi tha thiết muốn kể chuyện Dran xưa

Một lần dạo chơi trên Danhim.net, tôi tình cờ được biết có một số bạn trẻ muốn nghe chuyện Dran xưa. Chợt nghĩ, ừ nhỉ, sao mình không kể cho các bạn ấy nghe. Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng dễ chừng hơn nửa năm sau tôi mới quyết định viết ra.

Thực lòng mà nói, cái trí nhớ của một người U751 rất chi là tồi tệ, chợt nhớ chợt quên như trời chợt mưa chợt nắng. Đó cũng là lý do vì sao tôi cứ mãi phân vân, do dự trước khi viết loạt bài Dran Xưa. Rất vui khi bài viết được các bạn nhiệt tình đón đọc. Riêng tôi, mỗi khi đọc lại vẫn chưa thấy hài lòng. Nó thiêu thiếu thế nào ấy. Thì ra, cái trí nhớ khốn khổ của mình đã bị thời gian bào mòn một cách khủng khiếp. Tỉ như, lứa học sinh đầu tiên của Thiên Mẫu, lẽ ra phải nhắc đến Lâm Tuyết, Hồ Thị Kim thì mình lại quên béng đi. Tỉ như, chuyện đánh nhau với bọn “giặc Tàu” đâu phải chỉ đơn giản cầm ná thun rồi bạ thứ gì cũng lượm lên làm đạn. Không, không phải thế đâu! Muốn bắn tốt phải có đạn tốt; muốn có đạn tốt phải vất vả lắm chứ. Trước tiên phải tìm một miếng đất sét loại tốt, thêm tí nước vào rồi nhồi cho thật nhuyễn, lăn cho miếng đất sét thành hình một sợi dây dài rồi ngắt ra từng miếng, vo tròn lại như viên bi sau khi đã cho vào giữa một viên muối hột, sau đó đem phơi một nắng. Chẳng biết ai bày ai biểu là cho một viên muối hột vào giữa thì “thương tích” sẽ trầm trọng hơn. Không hiểu tác dụng thực hư ra sao nhưng đứa nào cũng làm. Chi tiết quan trọng như thế mà cũng quên. Đã trót thì phải trét. Đã kể thì phải kể cho đàng hoàng, tử tế. Cố nhớ thêm một tí nữa xem sao. Và tôi xin tiếp tục kể chuyện Dran xưa, nhớ đâu kể đó…

Đã gọi là nhớ đâu kể đó thì nó không thể theo trình tự thời gian. Câu chuyện đôi khi sẽ thiếu mạch lạc, đọc nghe tưng tức. Những mẩu chuyện riêng rẽ, cái này chẳng dính dáng đến cái kia, lại có phần khô khan nhưng mong các bạn hãy chấp nhận như thế, vì dẫu sao nó vẫn là một phần trong cuộc sống của Dran thuở ấy.

Tôi viết hoàn toàn theo trí nhớ lại càng không mang chất sử liệu, tất nhiên có đôi chỗ thiếu chính xác. Vì vậy, nếu biết rõ hơn, bạn hoàn toàn có quyền tự sửa chữa hoặc góp ý. Hy vọng đã cung cấp được cho các bạn đôi điều về Dran xưa và nếu các bạn là người trong cuộc, tin rằng các bạn sẽ có được những kỷ niệm xưa ùa về. Bằng không, thì nói như Nguyễn Du: “Mua vui cũng được một vài trống canh”. Cám ơn bạn!

Bây giờ, mời các bạn cùng tôi dạo quanh một vòng Dran Xưa.

*

NGÀY XƯA Ở XỨ DRAN

Cây đa giếng nước

“Làng tôi có cây đa cao ngất tầng xanh. Có sông sâu lơ lửng vờn quanh êm xuôi về Nam… Làng tôi, bao mái tranh san sát kề nhau…” Có lẽ chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà lời bài hát Làng Tôi của Chung Quân lại đúng là hình ảnh của làng tôi với cây đa giếng nước của thuở xa xưa.

Làng tôi có cái tên xấu xí, dị hợm: Càn Rang, đúng hơn là Cần Răng. Người phương xa nghe vậy thường trêu, cần gì không cần lại cần răng, răng ai mà chẳng có, khéo vẽ. Thực ra, nó còn có một cái tên khá quý phái, tên Tây đàng hoàng: Dran. Với cái tên này, nó nghiễm nhiên có mặt trên tất cả các tấm bản đồ chính thống.

Làng tôi, ý tôi muốn nói là làng tôi của cái thuở trên dưới sáu mươi năm về trước2, cái thuở mà làng vẫn còn là làng. Cái thuở mà làng chưa nhuốm bụi trần ai.

Từ Saigon ra, từ Dalat xuống hoặc từ Phanrang lên đến ngã ba đầu làng người ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh đầu tiên đó là cây đa, giếng nước.

Ngoài một số cơ ngơi kinh doanh của người Pháp được xây dựng kiên cố, vài ba chục ngôi nhà gỗ lợp tôle (tôn), còn lại chỉ là nhà tranh vách đất đơn sơ. Cả làng dùng chung một cái giếng. Giếng nằm ngay ở đầu ngã ba (giờ hay gọi là ngã ba Trung Dung). Không phải giếng tròn như ta thường thấy mà là giếng vuông, thành giếng cao ngang bụng, trên có mái ngói chữ A. Nước giếng trong leo lẻo.

Chiều chiều, nhà nào cũng có người đến đây gánh nước. Giếng còn là trung tâm thu phát tin tức trong làng. Ai thích hóng chuyện, cứ đến ngồi đây khắc biết tất tần tật, từ chuyện con Gái xóm trên bỏ nhà theo gánh Sơn Đông mãi võ, tới chuyện thằng Ghẻ mê cô đào hát cải lương, ôm quần áo theo đoàn xin được một chân kéo màn.

Nhắc đến thằng Ghẻ thì có nhiều chuyện để kể. Tỉ như chuyện ghẻ của nó nói hoài cũng không hết. Chẳng hạn, buổi sáng ngồi sưởi nắng, nó thường gỡ mày ghẻ bỏ vào miệng nhai có vẻ ngon lành lắm. Hoặc như nó thường xuống sông ngâm hai cái chân ghẻ dưới nước rồi để mặc cho lũ cá lòng tong xúm nhau rỉa rói, vài hôm sau khắc lành… Chuyện cô Ba cứng tuổi rồi, buồn chuyện tình duyên hay tiền bạc gì đó treo cổ tự tử hai ngày sau người ta mới biết… Gần như là tất cả chuyện buồn vui của mọi gia đình đều được phơi bày bên giếng nước này.

Chếch vào bên trong một tí là cây đa. Chẳng biết cây bao tuổi mà lớn quá chừng chừng, tán cây xòe ra che mát cả một khoảng rộng. Đây là điểm hẹn của bọn trẻ chúng tôi. Chiều nào cũng vậy, cơm nước xong, đứa trước đứa sau lần lượt tề tựu về đây. Những đêm trời tối om om, bọn chúng tôi chia phe chơi trò u mọi nhờ vào ánh sáng từ những ngọn đèn măng-sông (manchon) từ trong nhà hàng hắt ra. Cuộc chơi kéo dài đến khuya lơ khuya lắc.

Dòng sông Danhim lượn lờ uốn quanh làng. Ban ngày, ngoài giờ học chúng tôi đóng đô ở bãi sông, suốt ngày bì bõm. Nước sông trong vắt. Đôi lúc lại thách nhau, làm dấu một viên đá rồi ném ra giữa sông, đứa nào lấy được về trước thì được cõng một vòng. Vậy mà tụi nó tìm ra như chơi. Nói như thế để bạn biết rằng, nước sông trong đến ngần nào. Chẳng thế mà các hộ ven sông đều lấy đó làm nguồn nước sinh hoạt.

Từ ngã ba, một con đường nhỏ chạy xuyên làng. Đến cuối đường, qua khỏi trường học là một dòng suối. Suối trong leo lẻo, thấy rõ từng đàn cá lòng tong tung tăng bơi lội. Hai bên bờ suối đoạn này thoai thoải, không có cầu. Xe trâu, xe bò chở rau quả cứ lội thẳng xuống suối rồi lên. Bên kia bờ suối là nhà bà Sáu Tiết, đây là điểm tham quan định kỳ hằng năm của chúng tôi.

Nhà bà Sáu cũng chỉ là một liếp nhà tranh đơn sơ có gì mà tham quan? Tôi đâu có ý nói tham quan nhà. Chả là nhà bà Sáu có một cây nhãn, phải nói là ngon hết ý.

Mùa quả chín, hương nhãn thơm lừng lựng điếc cả mũi. Cơm nhãn dày, mọng nước, ngọt lịm, cái vị ngọt vô cùng quyến rũ đến con kiến còn phải tương tư chứ chẳng đùa. Không ăn bỏ qua rất uổng. Cứ tầm trưa trưa, áng chừng bà Sáu đang an giấc là cả bầy gần chục đứa tấn công vào, thoáng một cái đã vắt vẻo trên cành như một bầy khỉ. Bà Sáu sống một mình. Mỗi khi nghe tiếng động, bà chỉ la í ới lên vài tiếng là bầy khỉ khắc biến mất…

Thời gian trôi đi. Làng tôi như mơ. Làng tôi ngu ngơ trở nên phố thị lao xao nửa quê nửa tỉnh. Làng tôi ngày xưa, giờ đây còn đâu bình yên.

Cây đa giếng nước còn chăng chỉ là trong ký ức.

Thời gian vẫn trôi đi…

Đâu phải Dran xưa bé tí teo

Nếu bạn nghĩ Dran chỉ là một nhúm ba khu phố lèo tèo thêm chín thôn lân cận thì đó là một nhầm lẫn lớn. Dran xưa thuộc vùng đất Hoàng Triều Cương Thổ (Domaine de la Couronne). Người ở nơi khác đến phải có người địa phương bảo lãnh. Còn người ở Dran muốn đi xa phải xin giấy “Laissez-Passer” (giấy thông hành). Dran xưa rộng lắm.

Để xem nên bắt đầu từ đâu. Thôi thế này nhé, mình cứ lấy cái vòng xoay ở ngã ba trước café Lễ Ký làm điểm xuất phát. Nào, cùng đi về hướng tây…

Không biết tại sao, rõ ràng là một con đèo – đèo Dran, thế mà xưa kia nó không được gọi là đèo. Người ta chỉ gọi nó là dốc – dốc Hòn Bồ.

Dốc Hòn Bồ chạy theo hướng nhà thờ, lượn quanh ôm gần trọn một vòng Đồi Cam. Lại phải dừng ở đây một tí để tìm hiểu vì sao gọi là Đồi Cam. Rất đơn giản, vì nguyên quả đồi chỉ trồng toàn là cam. Giống cam rất ngon, phần nhiều dùng để chế biến thành công-phi-tuya (confiture)3 ngay tại trung tâm thị trấn. Đặc biệt ở chân đồi, khoảng từ sau chùa Giác Hoàng đến cua Lan Can có trồng xen kẽ mận. Giống mận vàng, trái có vị chua ngọt, tuy không ngon bằng mận Trại Hầm nhưng cũng đủ sức làm bọn học trò chúng tôi mê mẩn.

Rời Đồi Cam ta đến Cua Đôi (còn gọi là cua Cánh Chỏ), qua Cầu Xéo rồi vượt Cầu Treo là đến Ac-broa-dê (Arbre Broyé) tức Trạm Hành, cái tên nghe kỳ cục.

Nhắc đến Trạm Hành tôi lại nhớ đến nhà thơ Phạm Cao Hoàng (thầy giáo Phạm Công – Phòng Giáo dục Đức Trọng) lúc dạy học tại đây đã có bài thơ Mẹ ơi, con đang ở Trạm Hành trong đó có những câu:

Con đi qua rừng cao quá đỗi…
Con đi về rừng quá đỗi cao…
Núi cao đụng trời con đụng nỗi đìu hiu…

Nhắc đi nhắc lại từ “cao” để biết rằng Trạm Hành nằm ở độ cao xấp xỉ 1.600m, cao hơn cả Dalat. Chính độ cao này cùng với cái rét cắt da quanh năm đã cho các cô gái nơi đây sở hữu một làn da mịn màng hồng thắm như thứ rượu hồng đào chưa uống đã say…

Rời Trạm Hành ta đến Ân-Tray (Entre-Rays) là tên gọi xưa của Cầu Đất. Nói đến Cầu Đất là phải nói đến Sở Trà.

Dân Cầu Đất một số ít buôn bán lẻ, còn hầu hết sống nhờ vào cái Sở Trà này. Trà Cầu Đất không ngon, chẳng mấy ai dùng. Nhưng ít ai biết rằng cái loại trà mà ai cũng chê ỏng chê eo đó đã được đóng bao xuất khẩu để rồi sau khi được “cà, giũa, bôi keo”, nó thay hình đổi dạng rồi ẩn mình trong chiếc hộp thiếc sang trọng mang nhãn hiệu Tê-noa (Thé noir) tức trà đen. Lúc ra đi giá rẻ như bèo, khi trở lại bằng trăm lần giá xuất. Một ly Thé noir mà cho vào hai viên đường Hiệp Hòa, loại đường cát trắng tinh được nén thành viên hình hộp cỡ lóng tay cái, đã trở thành thức uống cao cấp của giới trưởng giả.

Ra khỏi Cầu Đất, qua cầu Xui Giục chạy thêm một quãng nữa là đến Bốt-kê (Bosquet) còn gọi là Trạm Bò. Phía tây tạm dừng tại đây vì đi thêm chút nữa là đến Trại Mát thuộc thành phố Dalat rồi.

Ngược xuống đông thì sao?

Từ ngã ba đi dọc theo đường Lê Lợi, các bạn nhìn thấy những dãy phố cũ nát hai bên, từ Lễ Ký đến Tân Mỹ, từ Tư Lén đến café Tín, nói chung những ngôi nhà xây ấy đều có chung một sở hữu chủ người Pháp là ông A-vi-a (Aviat), kể cả khu xưởng cưa, kho lương thực, nhà thương cũ. Aviat chiếm lĩnh gần hết vùng trung tâm. Riêng chỗ Trung Dung xưa là Ret-tô-rân – Ba Đăng-xinh (Restaurant – Bar dancing) phục vụ cho người Pháp. Chủ nhân của nó là một viên sĩ quan tên Lores. Cả vùng đất đó từ đầu đường Hai Bà Trưng cho đến sau rạp hát là trại gia cầm của ông ta.

Đi đến cuối đường Lê Lợi, bên trái là chợ Lạc Nghiệp. Chợ Lạc Nghiệp không phải là chợ Dran. Chợ Dran xưa rất nhỏ, nằm đối diện với rạp chiếu bóng tức khu đất trước nhà ông Bảy Nóc mà giờ người ta thường gọi là chợ cũ.

Sở dĩ tôi kể về chợ Lạc Nghiệp vì nó có câu chuyện hay hay. Là người Dran chắc bạn từng nghe câu vè: Chùa (của) ông Dậu

Chợ (của) ông Danh
Xã (của) ông Thành
Gỗ xăng (của) ông Phú

Người ta nói vậy có lẽ thuận miệng cho vui thôi vì thấy nhân vật này quá gắn bó với sự việc kia chứ chùa làm sao là của riêng ông Dậu? Xã đâu thể nào là của ông Thành? Gỗ xăng thì chắc chắn của ông Phú rồi vì ông là doanh nhân mà. Riêng chợ ông Danh thì cần xem lại. Tất nhiên chợ không thể nào là của ông Danh nhưng nhờ có ông nên mới có chợ. Ông được coi như là người hiến kế để ông TouProng-Hiou hiến đất xây chợ. Hiến đất xây chợ vừa được danh vừa có lợi tại sao không hiến? Ông Tou-Prong-Hiou hiến diện tích đất vừa đủ xây ngôi chợ nhưng được phân lô bán nền phần đất chung quanh.

Có lẽ nên phác họa đôi nét về nhân vật này. Ông TouProng-Hiou là một địa chủ thực sự. Gần hết cánh đồng khóm III là của ông. Ông cũng là mạnh thường quân có nhiều đóng góp cho Dran. Gia đình Tou Prong cùng với gia đình Hán Đăng ở Diom là hai gia đình người Thượng nhưng sống theo phong cách Âu tây. Nhắc đến nhà Tou Prong chắc chắn là phải nhắc đến các cô gái xinh đẹp Tou Prong Nay

Thương, Tou Prong Nay Sương, Tou Prong Nay Annette… Thôi, mình qua cầu Dran nhé!

Chiếc cầu này được xây xong năm 1922. Cầu hẹp, đó là cầu cũ. Còn cầu hiện nay được công binh xây lại sau trận lụt 1970. Từ đầu cầu xuống đến ngã ba Đường Mới gọi là xóm Đường Dầu chứ chưa có tên là Đường Mới. Phía bên phải là một sân vận động cực lớn. Đây là nơi tổ chức các lễ hội hằng năm như đá bóng, đua ngựa, đua xe đạp, thi điền kinh, v.v… (Trong một cuộc thi chạy cự ly 3.000m có một vận động viên mang áo số 7. Anh ta chạy mới hai phần ba đường thì đuối sức nên xẹt vào trong bụi rậm bên lề nằm thở dốc. Thế là đất Lạc Thiện có một nhân vật mang chết tên Bảy Xẹt).

Chúng ta đi tiếp nhé. Hết quãng Đường Dầu đến ngã ba Đường Mới mình nên rẽ phải để vào thăm thác Hòa Bình. Thác Hòa Bình tuy không hùng vĩ nhưng rất đẹp, đặc biệt khi ta lội ngược dòng để chiêm ngưỡng vẻ đẹp thác chồng lên thác.

Mình nghỉ chân một lúc ở chùa Bà Xám.

Tại sao lại có tên chùa Bà Xám? Bà Xám là một phụ nữ Việt có chồng người Pháp – ông Houiller. Tứ thời bát tiết, mỗi khi ra đường ông luôn mặc bộ complet màu xám. Dân địa phương cứ gọi là ông Xám cho tiện, lâu ngày thành tên. Bà Xám là người mộ đạo, bỏ tiền ra xây dựng ngôi chùa này nên mới gọi là chùa Bà Xám. Chùa còn có tên là Giác Nguyên nhưng chẳng mấy ai dùng tên này. Ngày nay, chùa Giác Nguyên được sửa sang, xây dựng thêm đồ sộ hơn, rực rỡ hơn nhưng đã mất đi cái không gian yên tĩnh, trầm mặc trước kia mà mỗi khi ai có tâm sự gì buồn, cứ lên chùa ngồi trước cổng tam quan lắng nghe tiếng chuông chùa nhẹ rơi, mắt nhìn về dòng Danhim lượn lờ trôi thì bao phiền muộn đều tan biến.

Bạn sinh ở Lâm Tuyền? Thế bạn có biết Bàu Nước ở đâu không? Xin thưa, Bàu Nước chính là Lâm Tuyền đó. Cuối Lâm Tuyền mình xuống dốc La-Se (Lachaise). Tên dốc Lachaise chỉ có từ khi ông Lachaise về cư ngụ ở đây. Trước kia nó được gọi là Dốc Am Bà. Ở đây cây cối um tùm, rậm rạp, đường sá vắng tanh hiếm thấy bóng người, cảnh vật cứ rờn rợn. Bọn chúng tôi mỗi lần đi ngang đây, đứa nào cũng lấy ngón tay cái bấm đầu ngón áp út làm ấn Kiết Tường để… đuổi ma!

Thế là mình đã đến Suối Cát tức Phú Thuận. Xin nhắc rằng, trước năm 1955 không hề có những địa danh như Lâm Tuyền, Phú Thuận… Suối Cát còn gọi là Eo Gió, nếu muốn cho Tây hơn cũng có thể gọi là Ben-lờ-vuy (Bellevue). Bellevue cũng là tên nhà ga xe lửa và cả của con đèo từ Dran xuống Krôngpha. Đèo Bellevue quanh co trên 25km được đổi thành đèo Ngoạn Mục cũng sát nghĩa vô cùng. Thả xuống dốc quãng chừng 9km ta đến Ac-brơ-xec (Arbre Sec) – Cây Khô. Bót gác Cây Khô là chốt chặn cuối cùng, mình phải quay lại vì nếu thò chân sang bên kia là giẫm phải Ninh Thuận rồi.

Về phương nam có gì?

Lên hướng Nhà Thờ đường hẹp và hơi thiếu vệ sinh. Xuống hướng cầu thì nhà cửa san sát nên từ café Lễ Ký đến cầu Lạc Thiện có thể coi là đoạn đường đẹp nhất. Hai bên đường toàn dã quỳ. Đêm đến, quãng đường này là nơi hẹn hò của các đôi bạn, họ sóng vai nhau tỉ tê trò chuyện, đi đến cầu Lạc Thiện thì quay lại. Chỉ thế thôi mà có lúc nó được gọi bằng cái tên thơ mộng “Con đường tình ta đi”.

Bạn có để ý không, phía bên trái khi đến gần cua Lạc Thiện có xóm nhà ga, đó là ga Càn Rang. Không, phải gọi cho đúng là ga Cần Răng. Có lẽ hai chữ Cần Răng đọc nghe thô thô, cưng cứng thế nào ấy nên người ta đọc trại thành Càn Rang.

Lạc Thiện là lãnh địa của Ô-gia-ri (Osari) người Pháp. Hội trường Lạc Thiện bây giờ, xưa vốn là chuồng bò của Osari. Tới cây số 2 tức Cua Đá. Đoạn đường này nhiều cây cối to cao rậm rạp, tán cây che phủ hai bên. Đây là nơi đêm đêm lũ cọp thường ra rình rập. Rủ nhau đi bắn chim mà vào đến đây được xem là “ghê gớm” lắm. Qua Lạc Xuân mình đến La-bui (Labuye). Đây là vùng của người dân tộc nhưng có một hộ người Kinh là ông Xu Nghĩa. Nhắc đến ông Xu Nghĩa không phải vì ông là dưỡng phụ của bà Dương Thị Kiêm (cô giáo Kiêm) mà vì ông đã trồng dâu và chế biến thành loại rượu dâu được nhiều người ưa thích. Rượu ông làm ra không bán ngay mà phải lưu giữ một thời gian lâu mới bán. Vì thế rượu rất ngon. Một ly rượu dâu cho thêm đá vào chắc chắn là một thức uống tuyệt vời.

Vùng Lạc Viên, Lạc Lâm, Lạc Sơn chỉ xuất hiện sau cuộc di cư 1954. Trước đó, vùng này chỉ lau lách, rừng rậm. Thạnh Mỹ ngày nay công sở tòa ngang dãy dọc, đường xá thênh thang, đèn đêm rực sáng, nhưng các bạn có biết M’Lon mới là tên cúng cơm của Thạnh Mỹ? Người ta thường gọi là Lọn cho nó gọn. M’Lon là vùng của người dân tộc thiểu số, lưa thưa vài mươi hộ người Kinh. Dân ở đây muốn mua sắm thứ gì thì phải ra Dran, còn trẻ em nếu có điều kiện đi học phải kiếm nhà quen để ăn ở trọ.

Qua Fimnom rồi đến Liên Khương, còn gọi là Liên Khàng, nếu rẽ phải chạy một mạch thì đến Cội Gia hay La Ba. Xứ La Ba cho ta một giống chuối rất ngon mà mãi cho đến bây giờ nó vẫn giữ được thương hiệu: chuối La Ba. Trong các siêu thị ở Sài Gòn hiện nay chuối La Ba bán cao giá hơn các giống chuối khác.

Còn nếu chạy thẳng ta sẽ đến Gougah (Phú Hội) vì vùng Tùng Nghĩa chỉ xuất hiện sau năm 1954, nơi phần đông người tộc Thái sinh sống. Thác Gougah là một danh thắng nằm trong tour du lịch của Đà Lạt. Rời Phú Hội chạy thêm non chục cây số là Đại Ninh, nơi vừa xây xong một đập thủy điện khá đẹp, nghe đâu trong tương lai đây sẽ là một điểm dừng chân mới cho du khách bốn phương.

Đến đầu cầu Đại Ninh, phương nam dừng tại đây.

Các bạn thấy Dran xưa rộng lớn đấy chứ!

-Còn tiếp-

Chú thích:

  1. Khi tập sách này được in ra thì tác giả đã bước sang tuổi 83. Những bài viết trong tập này được viết rải rác trong khoảng mười năm, chủ yếu đăng tại diễn đàn Danhim.net.
  2. Tức là khoảng trước năm 1950.
  3. Mứt trái cây.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Trích đăng “Hành trình người viết” – Christopher Vogler

Published

on

Trích từ: Hành Trình Người Viết
Tác giả: Christopher Vogler
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH

“Loài người thật ra chỉ có tầm hai hay ba câu chuyện thôi,

và chúng được lặp đi lặp lại mải miết cứ như lần đầu được kể.”

— Willa Cather, trong O Pioneers!

Về lâu dài mà nói, Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt của Joseph Campbell là một trong những quyển sách có sức ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20.

Những tư tưởng mà quyển sách truyền tải đang ảnh hưởng to lớn tới cách thức kể chuyện. Các tay viết đang dần nhận thức rõ hơn về các hình mẫu trường tồn mà Campbell đã đưa ra, và góp phần làm giàu thêm bằng chính công sức của họ.

Hiển nhiên Hollywood cũng đã nhận ra công trình của Campbell hữu ích thế nào. Những nhà làm phim như George Lucas và George Miller đều bày tỏ lòng biết ơn tới Campbell, tầm ảnh hưởng của ông còn được thể hiện trong các phim của Steven Spielberg, John Boorman, Francis Coppola, Darren Aronofsky, Jon Favreau, và nhiều người khác.

Không có gì ngạc nhiên khi Hollywood rất ưng các tư tưởng mà Campbell trình bày trong tác phẩm của mình. Những khái niệm ông đưa ra như hộp dụng cụ vào nghề cho biên kịch, nhà sản xuất, nhà thiết kế… Chúng ẩn chứa đầy đủ các công cụ chắc chắn để phục vụ hoàn hảo cho mục đích sáng tác. Những công cụ này cho phép người dùng dựng nên câu chuyện đáp ứng đủ loại tình huống, một câu chuyện vừa có thể ẩn chứa bi kịch, lại vừa mang tính giải trí, và còn chuẩn xác về mặt tâm lý. Chúng cho phép người dùng chẩn đoán mọi vấn đề ẩn chứa trong các kịch bản khó nhằn, cũng như cung cấp giải pháp chỉnh sửa để đưa kịch bản lên tới tầm khả thi đỉnh cao của nó.

Thời gian là bảo chứng rõ ràng nhất cho tác dụng của hộp đồ nghề này. Chúng tồn tại lâu đời hơn cả những kim tự tháp, vòng tròn đá Stonehenge hay những hình vẽ sơ khai trên vách hang động.

Bộ công cụ này được Joseph Campbell hoàn thành khi ông bỏ công sức góp nhặt và quy mọi nhánh tư tưởng về một mối, sau đó nhìn nhận, diễn giải, đặt tên, và sắp xếp lại toàn bộ. Chính ông là người đầu tiên đem những hình mẫu chứa đựng trong các câu chuyện ra ánh sáng.

Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt là bản báo cáo của Campbell về cấu trúc bền vững nhất trong văn học, xét cả văn nói lẫn văn viết: thần thoại về người anh hùng. Trong nghiên cứu của mình về thế giới thần thoại, Campbell nhận ra rằng về bản chất mọi câu chuyện đều y hệt nhau, một cấu trúc lặp đi lặp lại bất tận với vô hạn biến thể.

Ông nhận ra rằng trong mọi cách kể chuyện, dù vô tình hay hữu ý, thì cũng theo các khuôn mẫu cổ đại từ thần thoại. Và mọi câu chuyện, từ những chuyện đùa thô thiển nhất cho tới đỉnh cao văn học, đều có thể diễn giải dựa trên Hành Trình Anh Hùng: vòng lặp hành trình cùng các nguyên tắc của nó.

Các hình mẫu trong Hành Trình Anh Hùng mang tính chung nhất, áp dụng ở bất kỳ nền văn hóa, bất kỳ thời điểm nào. Hệt như chính loài người chúng ta, khả năng biến thể tái lặp của các hình mẫu là vô hạn, dẫu cho bản chất nguyên thủy không hề thay đổi. Hành Trình Anh Hùng là một chuỗi các yếu tố bền bỉ bật lên từ sâu thẳm nhất trong tâm trí con người, có khác biệt qua các nền văn hóa, nhưng về bản chất vẫn là một.

Suy nghĩ của Campbell cũng song hành với nhà tâm lý học người Thụy Sỹ Carl G. Jung, người từng viết về các cổ mẫu (hoặc nguyên mẫu) như sau: chúng là những nhân vật hoặc nguồn năng lượng được lặp lại, liên tiếp, xuất hiện trong giấc mơ của mọi người và các câu chuyện thần thoại trong mọi nền văn hóa. Jung cũng gợi ý rằng những nguyên mẫu trên phản ánh những khía cạnh khác nhau của tâm trí con người, rằng bản dạng của chúng ta được phân thành nhiều tính cách để đối ứng với những thăng trầm khác nhau của cuộc đời. Ông nhận ra có sự tương thích mạnh mẽ giữa các hình ảnh trong giấc mơ của bệnh nhân mình chăm sóc với các cổ mẫu trong thần thoại. Ông cho rằng cả hai đều xuất phát từ những nguồn sâu thẳm hơn: vô thức tập thể (collective unconscious) của loài người.

Những nhân vật được lặp đi lặp lại trong thế giới thần thoại cũng chính là những thứ thường xuyên xuất hiện trong giấc mơ và tưởng tượng của chúng ta: các anh hùng trẻ tuổi, những bô lão thông thái, người biến hình, và các nhân vật phản diện núp trong bóng tối. Điều đó lý giải tại sao thần thoại và các câu chuyện được dựng nên từ hình mẫu của chúng đều chứa đựng triết lý về tâm lý.

Các câu chuyện như thế là những hình mẫu chính xác cho việc khai thác tâm trí con người, bản đồ chân thực của tâm hồn. Chúng chính xác về mặt tâm lý, và đưa ra cảm xúc chân thật ngay cả khi được dùng để diễn giải các sự kiện siêu phàm, phi thường, phi thực tế.

Vì lẽ đó, các câu chuyện trên đều sở hữu tính phổ quát. Bất cứ ai cũng có thể cảm thụ được sức hấp dẫn của những câu chuyện dựa trên mô hình Hành Trình Anh Hùng, chính bởi nguồn gốc phổ quát và phản ánh được vạn vật tự nhiên.

Chúng giải thích những câu hỏi phổ biến thuở còn trẻ thơ của mọi người: Tôi là ai? Tôi đến từ đâu? Khi chết rồi tôi sẽ tới đâu? Thiện ác là gì? Tôi phải đối phó với chúng ra sao? Ngày mai sẽ thế nào? Ngày hôm qua đã trôi về đâu? Bên ngoài kia còn ai không?

Những tư tưởng được lồng vào trong thần thoại, sau đó được Campbell định dạng lại trong tác phẩm Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt có thể được dùng để thấu hiểu hầu hết vấn đề nhân sinh. Chúng là chìa khóa hữu ích cho cuộc sống, cũng như công cụ hiệu quả để lôi cuốn đám đông khán giả.

Nếu bạn muốn hiểu rõ các tư tưởng đằng sau Hành Trình Anh Hùng, chẳng có cách nào khác ngoài việc tìm đọc tác phẩm của Campbell. Đó sẽ là trải nghiệm thay đổi đời người.

Đọc nhiều thần thoại cũng là ý hay, nhưng đọc sách của Campbell thì hiệu quả cũng chẳng khác là bao bởi lối kể chuyện bậc thầy, và ông cũng thích minh họa những luận điểm bằng ví dụ lấy từ chính kho tàng thần thoại đồ sộ.

Trong Chương 4 của Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt có tên “Những Chiếc Chìa Khóa”, Campbell đã đưa ra dàn bài cho Hành Trình Anh Hùng. Tôi đã mạn phép thay đổi dàn bài một chút, cố gắng phản ánh thêm về các chủ đề phổ biến trong điện ảnh bằng các minh họa trích từ các bộ phim đương đại, và cả một vài phim cổ điển khác. Độc giả có thể so sánh hai dàn bài và các thuật ngữ thông qua Bảng 1 ngay dưới đây.

HÀNH TRÌNH NGƯỜI VIẾTNGƯỜI HÙNG MANG NGÀN GƯƠNG MẶT
HỒI MỘTKHỞI HÀNH, LY BIỆT
Thế Giới Bình Phàm
Tiếng Gọi Phiêu Lưu
Lời Từ Chối
Gặp Gỡ Sư Phụ
Vượt Ải Đầu Tiên
Thế Giới Thường Nhật
Tiếng Gọi Phiêu Lưu
Lời Từ Chối
Sự Trợ Giúp Siêu Nhiên
Vượt Ải Đầu Tiên
Bụng Cá Voi
HỒI HAIDẤN THÂN, KHỞI ĐẦU, VƯỢT QUA
Thử Thách, Đồng Minh, Kẻ Thù
Tiếp Cận Hang Động Trong Cùng
Khổ Hình   



Phần Thưởng
Con Đường Thử Thách 

Gặp Gỡ Nữ Thần
Ải Mỹ Nhân
Chuộc Tội Cùng Thánh Thần
Sự Sùng Bái
Ân Huệ Tối Thượng
HỒI BATRỞ VỀ
Con Đường Trở Về




Hồi Sinh
Quay Về Cùng Thần Dược
Từ Chối Trở Về
Hành Trình Kì Diệu
Sự Giải Cứu
Vượt Qua Thử Thách
Trở Về
Bậc Thầy Ở Hai Thế Giới
Tự Do Để Sống
BẢNG 1
So sánh dàn bài và thuật ngữ

Tôi sẽ kể lại giai thoại Anh Hùng theo cách riêng mình, và độc giả cũng nên làm tương tự. Mọi tay viết đều có thể nhào nặn các hình mẫu thần thoại theo mục đích riêng, hoặc theo nhu cầu của một nền văn hóa cụ thể nào đó.

Đó là lý do tại sao người hùng lại có muôn vàn gương mặt.

Một chú thích về thuật ngữ “anh hùng” được dùng ở đây, cũng tương tự như “bác sĩ”, hay “nhà thơ”, hoàn toàn có thể chỉ bất kỳ giới tính nào.

HÀNH TRÌNH ANH HÙNG

Dẫu cho có muôn vàn biến thể, bản chất câu chuyện về Anh Hùng luôn là một hành trình. Họ từ bỏ cuộc sống dễ chịu quen thuộc cố hữu để dấn thân vào thế giới xa lạ đầy thử thách. Đó có thể là một hành trình hướng ngoại đến một địa điểm cụ thể nào đó: một mê cung, một khu rừng, hay một hang động, một thành phố, một quốc gia xa lạ, một địa điểm mới toanh, nơi sẽ trở thành võ đài cho chính họ chiến đấu với những thế lực phản diện khó nhằn.

Nhưng cũng có nhiều câu chuyện đưa ra hành trình hướng nội, tìm về tâm trí, trái tim, linh hồn của con người. Trong bất kỳ câu chuyện hấp dẫn nào cũng chứa đựng hành trình trưởng thành và thay đổi của nhân vật chính: từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ yếu ớt đến mạnh mẽ, từ điên cuồng đến khôn ngoan, từ yêu thành hận, và ngược lại. Những hành trình đầy cảm xúc này mê hoặc khán giả và tăng cường giá trị theo dõi của chính câu chuyện.

Có thể nhận ra các chặng đường trên Hành Trình Anh Hùng ở khắp mọi câu chuyện, không chỉ gói gọn trong các phiên bản phiêu lưu hành động nảy lửa. Nhân vật chính luôn là người hùng trong mọi hành trình, dù cho con đường phiêu lưu kia chỉ xoay quanh tâm lý hay những mảng quan hệ của họ.

Các chặng trong Hành Trình Anh Hùng xuất hiện và liên kết theo một lẽ tự nhiên, ngay cả khi người viết chẳng hề để ý tới, nhưng những kiến thức góp nhặt từ kho tàng xa xưa này vẫn chứng tỏ độ hữu dụng trong việc nhìn nhận vấn đề và cải thiện cách kể chuyện. Hãy xem 12 chặng đường này như một địa đồ cho Hành Trình Anh Hùng, không chỉ để soi rọi đường đi, mà còn là con đường bền bỉ, linh hoạt, và đáng tin cậy bậc nhất.

CÁC CHẶNG ĐƯỜNG TRONG HÀNH TRÌNH ANH HÙNG

1. THẾ GIỚI BÌNH PHÀM

2. TIẾNG GỌI PHIÊU LƯU

3. LỜI TỪ CHỐI

4. GẶP GỠ SƯ PHỤ

5. VƯỢT ẢI ĐẦU TIÊN

6. THỬ THÁCH, ĐỒNG MINH, KẺ THÙ

7. TIẾP CẬN HANG ĐỘNG TRONG CÙNG

8. KHỔ HÌNH

9. PHẦN THƯỞNG (ĐOẠT LẤY GƯƠM BÁU)

10. CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ

11. HỒI SINH

12. QUAY VỀ CÙNG THẦN DƯỢC

Đọc bài viết

Trích đăng

Vài chuyện linh tinh mà cây cối dạy cho mình về tình yêu – Trích “Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành”

Published

on

Trích từ: Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành
Tác giả: Anh Khang
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Có một dạo, cứ mỗi lần nhớ người thương cũ, mình lại đi mua một cái cây, về trồng ngoài ban công.

Thói quen ấy đều đặn thành nếp sống. Đến một ngày, trước cửa sổ phòng, đã là cả một khu vườn nho nhỏ xinh xanh.

Những buổi sáng, tỉnh dậy, nắng len qua ô kính, dụi mắt đánh thức mình. Điều đầu tiên mình nhìn thấy, là cả một khoảng trời xanh mướt của từng phiến lá khẽ đung đưa, như vẫy tay chào, và bảo: “Ê, ngày mới tới rồi. Đừng nằm lì ở ngày hôm qua nữa. Dậy đi tưới cây, ngắm nắng, tỉa lá, chăm hoa,... Vườn nhà biết bao việc. Nằm đó nhớ nhung gì!”.

Đó là khi mình nhận ra, sau rất nhiều năm tháng chia tay, điều đầu tiên mình nghĩ đến khi thức dậy, không còn là người ấy nữa.

Mình bắt đầu nghĩ về bổn phận của một người làm vườn có trách nhiệm với mầm xanh trước cửa, của một người “nông dân cày xới trên mảnh đất tinh thần”. Và nhất là, không còn nghĩ về danh phận mà mình đã truy cầu suốt thời tuổi trẻ, khiến xói mòn tiêu hao rất nhiều “hạt giống niềm tin” vào quả ngọt mang tên “tình yêu” chưa bao giờ kết trái.

Hồi xưa, mình từng cho rằng bản thân chẳng có tay trồng cây, mọi hạt giống gieo xuống đều chẳng nảy lên xanh. Cũng giống như bản tính thích yêu và được-yêu, nhưng lại chẳng có duyên với mấy chuyện yêu đương. Nhưng, nhờ những ngày tháng hiện tại, bầu bạn cùng cỏ cây, quanh quẩn bên hoa lá, chăm chút từng mầm xanh,... mình học thêm được vài bài học mới, vài cách nghĩ khác đi, từ “người thầy” xanh màu diệp lục tố.

Như là, tại sao cứ mặc định bản thân là “vô năng bất khả”, tại sao cứ hạn định mọi nỗ lực và cố gắng của chính mình?

Dù là chuyện trồng cây.

Hay là chuyện yêu đương cũng thế.

#1

Càng bớt cố chấp, càng đỡ mệt thân

Mình có một chấp niệm, với cây hương thảo.

Loài thảo mộc bản địa của vùng Địa Trung Hải, vốn đã theo chân mình suốt dặm đường rong ruổi hồi trẻ qua biết bao thành phố ở vùng cựu lục địa. Thế nên, một trong những chậu cây đầu tiên mà mình mang về khu vườn nhỏ của mình, hiển nhiên, phải là hương thảo.

Dù đã được nhiều người chủ vựa cây kiểng dặn dò về thuộc tính đỏng đảnh “ưa nước nhưng ghét ẩm”, “thích nắng nhưng sợ hạn” của loài cây thơm lừng từ ngọn tới lá này, mình vẫn một mực tìm mua đủ mọi giống hương thảo. Từ loại giâm cành chiết ngọn ở miền Bắc đến miền Tây, rồi cả giống cây thuần khí hậu miền Nam, hay được dưỡng thân hóa gỗ thành dáng bonsai vững vàng...

Nhưng bất kể bao cố gắng kiên trì của mình, thì không một chậu cây hương thảo nào chịu sống đời dai dẳng, ở lại bên mình dài lâu được cả.

Mình càng cố, thì kết quả, vẫn chỉ là cành khô ngọn rủ, từng bụi hương thảo cứ thế héo hắt rời đi. Vì nhiều lý do, từ giá thể thổ nhưỡng đến vị trí trồng trọt, và còn hằng hà sa số điều kiện thiên thời địa lợi đã không thể chiều lòng chấp niệm “trồng hương thảo” của mình.

Không phải mình cứ cố gắng là sẽ đạt được ý nguyện ban đầu. Có những thứ mà ngay từ đầu, có lẽ, đã là chấp niệm viển vông của riêng bản thân. Chứ chẳng thể thành toàn viên mãn.

#2 

Nếu đã là duyên phận thuộc về bạn,

cơ bản bạn chẳng cần làm gì cũng viên mãn

Vẫn tiếp tục câu chuyện về hương thảo.

Trong rất nhiều bụi hương thảo đã bỏ mình đi, thì duy nhất, trong vườn còn lại một bụi thơm lừng, bền bỉ tỏa hương, nhẫn nại vươn cành.

Ban đầu, đây vốn chỉ là một bầu cây nhỏ xíu mình mua hú họa, chẳng dụng công trồng hay đặt nhiều hy vọng. Tiện tay, ướm vào chậu treo, thấy vừa khít, nên tùy ý móc lên mái tôn trước bệ cửa sổ. Ai ngờ, cây hương thảo bé nhỏ chẳng được chăm chút mấy, lại trở thành loài thảo mộc ở lại bên mình kiên tâm lâu dài nhất.

Ngẫm lại, cả khu vườn trải qua bao mùa cây cối tụ tán, hoa lá nở tàn, thì chỉ có duy nhất cây hương thảo treo đó, vẫn cam tâm tình nguyện cùng mình kết một đoạn duyên phận, lặng lẽ nhưng thâm tình, bình đạm nhưng thành tâm.

Để bây giờ, mỗi lần mở cửa sổ, hương thơm the mát vương mùi thảo mộc, thoảng đầy ý vị bình an, cứ thế len lỏi khắp phòng.

#3

Yêu thương khi không thấu hiểu,

chỉ gây thêm gánh nặng cho người mình yêu

Có một lần, quá nôn nóng vì cây hạnh ngọt chưa chịu ra hoa và hoa rụng trước kỳ đậu quả, mình bèn mua đủ loại phân bón.

Khỏi nói cũng biết kết quả. Mình, chẳng chịu tìm hiểu kỹ lưỡng nguyên tắc dưỡng trồng, cứ vung tay quá trớn, sơ sẩy thiển cận. Thành ra, cây hạnh ngọt đang li ti hoa trắng, ngấp nghé vài quả non, chỉ sau một đêm, lập tức khô khốc trụi cành, hoàn toàn héo rũ.

Sau đó, mới nhận ra bản thân đã sai ngay từ đầu, trong những khâu cơ bản như tìm hiểu, chọn lựa thành phần, chế độ, liều lượng,... của các loại chế phẩm chăm cây. Hóa ra, chính sự yêu thương thiếu kiến thức của mình đã đẩy đối tượng mình yêu thương (là cái cây) đi đến chỗ đang xanh-màu thành xanh-cỏ.

Tình yêu, suy cho cùng, nếu thiếu đi sự thấu hiểu, sẽ chẳng thể đồng hành lâu dài, giúp nhau tăng tiến. Mù quáng trao đi yêu thương mà không nhận thức rõ ràng đâu là đủ-thiếu, đâu là đúng-sai, thì chỉ chuốc thêm đau lòng cho chính mình và phiền lòng cho người mình yêu.

#4

Có những kết thúc chính là để bắt đầu

Có mấy chậu cây, mình chăm dữ lắm, nhưng cứ được vài tháng là bắt đầu vàng lá mục cành.

Mình, bắt đầu chấp nhận sự đến-đi của vô thường, ngay cả cây cối cũng đâu thể tránh khỏi thành-trụ-hoại-không. Định bụng, chào cái cây lần cuối, xong sẽ bỏ đất, thay chậu, chôn cây, cho xong một vòng tuần hoàn của đời thảo mộc. Ai dè, ngay kế cành cây sắp mục ruỗng ngã đổ, một mầm xanh bé xíu đang gắng sức vươn lên. Chiếc lá non xanh biếc, giống hệt dáng hình của chiếc lá đang ngả vàng của nhánh cây héo rũ kế bên. Một sự tiếp nối, lặng lẽ diễn ra. Những mầm xanh bé nhỏ, còn bền bỉ tách đất vươn lên. Huống hồ tuổi trẻ, vốn chẳng có một giới hạn nào, sao chúng ta lại cứ ngại, sợ? Có kết thúc nào là mãi mãi dừng lại ở đó đâu, khi đằng sau nó luôn là cả một khởi đầu miên viễn. Bạt ngàn. Vô tận.

Đời sống luôn là một bản trường ca mà khi một nốt trầm lặng xuống thì chính là báo hiệu một đoạn tấu khúc réo rắt sắp bắt đầu khởi xướng.

#5

Rừng xanh nào cũng bắt đầu từ hoang sơ

Có những hôm trời bất chợt đổ mưa. Ngó ra khoảng không xanh mướt mắt đang ướt đẫm trong màn nước trong vắt bên ngoài. Mình bỗng mềm lòng, nhớ lại. Chỉ mới vài tháng trước, khoảnh sân này chỉ là một mái tôn trơ trọi xám lạnh. Giờ đã thành vườn xanh. Mấy bông hoa chanh đã đậu quả thành trái non lúc lỉu trên cành. Mấy trái tắc mới vài tuần trước còn li ti như những hạt sương lấm tấm xanh xanh giờ đã tượng hình thành trái múp míp. Và cả bụi hoa hồng đã rụng hết đợt hoa bừng sắc tháng trước, đến nay cũng đã ươm mầm mới nở thành nụ phơn phớt dịu dàng.

Và cái đứa từng nghĩ rằng bản thân không có tay trồng cây, không có thể ươm xanh nụ mầm... sau tất cả, cũng đã tự tay có được khu vườn của riêng mình.

Chỉ cần mình chịu bắt đầu. Từ một việc đơn giản nhất. Là gieo mầm. Thay vì cứ đứng đó trơ mắt nhìn vào trống trải tiêu sơ.

Trộm nghĩ, một khu rừng rậm rạp cách mấy, cũng đều phải khởi sự từ những nhánh cây mầm cỏ bé nhỏ ban đầu. Nếu không có hoang tàn trơ trọi lúc đó, thì làm sao có hùng vĩ trong lành hôm nay? Điều quan trọng là chúng ta đừng chỉ nhìn chăm chăm vào mớ hỗn độn ngổn ngang rồi chùng lòng chán nản, thoái thác tháo lui, mà phải chấp nhận dấn thân, lao tâm khổ tứ. Dù là trồng rừng, trồng cây, hay là trồng lại hy vọng, niềm tin của chính mình. Vào tình yêu. Vào con người.

#6

Ai rồi cũng sẽ có khoảng trời thuộc về mình

Ngồi viết những dòng này, khi bên ngoài, hoàng hôn vừa xuống. Cảm giác bình yên choáng ngợp trong lòng. Có điều, sự choáng ngợp này, không khiến bản thân kinh hãi, mà chỉ càng làm thấm thía trân trọng thêm khoảnh khắc hiện tại.

Đi khắp Đông-Tây-Nam-Bắc. Trải qua yêu-ghét-thương-hờn. Nếm đủ tụ-tan-ly-hợp. Đến giờ, đã có thể bình thản, một mình, ngồi ngắm hoàng hôn mà trong lòng không còn bất kỳ một lời đồng vọng. Dù là nhớ nhung chuyện cũ. Hay là trách cứ tình xưa.

Hoàng hôn để ôn chuyện cũ. Đã từng nghĩ như vậy suốt thời tuổi trẻ. Thế nên, từng có một giai đoạn bị ám ảnh hoảng loạn với hoàng hôn. Cứ thấy trời chiều, là lo lắng. Cứ thấy nắng tắt, là hoang mang. Bởi lẽ, buổi chiều, đã-từng là khi chúng ta hẹn hò, là khi chúng ta đợi chờ đến lúc gặp nhau, là khi anh cùng em rong ruổi phố phường, đuổi bắt hoàng hôn. Buổi chiều, cũng là khi chim về tổ, người về nhà, là khi ai cũng mong cầu tìm cho mình một chốn về nương náu yên thân.

Thế nhưng, bản thân ở hiện tại, đối diện buổi chiều, lại chỉ thấy bình yên. Một mình hay mấy mình, giờ đã không còn mấy quan trọng. Chỉ biết là trong khoảnh khắc mặt trời le lói, vẫn thấy lòng ngập tràn ánh sáng. Thứ ánh sáng của an vui hỉ lạc, của tự tại tùy duyên.

Hóa ra, huyền cơ của việc thuận theo ý trời, tuân lời thiên mệnh, chỉ nằm trong một khoảnh khắc như thế này.

Đó là nhìn trời chiều, không buồn không tiếc, không nấn ná dây dưa cũng không hối hả sợ sệt. Chỉ thấy biết ơn năm tháng dù hối hả trôi qua, ghi ân thời gian dù vội vã giục giã, nhưng vẫn luôn độ lượng khoan dung dành cho chúng ta một chốn về yên ả.

Anh và em. Tôi và người. Bạn và chúng ta. Tất cả rồi cũng đều sẽ có một khoảng trời riêng. Nơi mưa nắng bão dông đều trở nên dịu dàng. Nơi bình minh hay hoàng hôn đều đầy đặn ánh sáng. Nơi mình hiểu ra nhân duyên đẹp đẽ nhất mà ông trời ban tặng, không phải là gặp đúng ý trung nhân trọn kiếp chung tình, mà là được gặp gỡ và trở thành phiên bản trọn vẹn nhất, tốt đẹp nhất, bình an nhất, của chính mình.

Cũng giống như một cái cây, đâu phải vì muốn kết duyên đôi lứa với một cành cây cọng cỏ nào khác, nên mới sum suê xanh tốt. Cây cối, tự mình vươn cành, vì mình xanh mướt.

Việc của cây là xanh. Không bận tâm vì ai mà tươi tốt. Cũng không vì ai lìa bỏ mà héo tàn.

Vậy nên, việc của chúng ta,

là cứ bình an,

là cứ hạnh phúc.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Cafe sáng