Trích đăng

Chương 1 “Bẻ khóa sinh học trong 90 ngày” – Đóng lại khoảng hở trong nhân cách

Published

on

Mệt mỏi và trầm cảm, Ben Angel quyết định bỏ ra 90 ngày đi tìm nguồn cơn của những triệu chứng tinh thần nhằm giải quyết chúng một cách triệt để. Theo tác giả, phần lớn sách về self-help đều tập trung giải quyết các vấn đề tâm lý, tinh thần hoặc thái độ, trong khi nguyên nhân lại nằm ở khía cạnh hóa sinh của cơ thể. Ben Angel đề cập đến việc “biohack” cơ thể và tâm trí, thông qua một chương trình dinh dưỡng phù hợp, kết hợp thiền tập, đồng thời áp dụng những thiết bị kỹ thuật hiện đại. Nếu cơ thể được bẻ khóa sinh học đúng cách, vấn đề tâm lý sẽ được giải quyết, từ đó con người phá được thói quen xấu, tạo được thói quen tốt, giải quyết được tâm bệnh, có được năng lượng mới và đạt được hiệu quả mong muốn trong cuộc sống và công việc.

Trích từ: Bẻ khóa sinh học trong 90 ngày

Tác giả: Ben Angel

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Tái bản: tháng 9.2020

*

CHƯƠNG 1
Một sự chuyển đổi mô hình trong nhiều thập kỷ: Đóng lại khoảng hở trong nhân cách

Đang trên bờ vực suy sụp thần kinh, bắt đầu có ý nghĩ tự tử, không còn chỗ nào bấu víu, cuộc sống của tôi tại thời điểm đó hoàn toàn là một lời nói dối. Tôi được quảng cáo là “Người gây ảnh hưởng” đến hàng trăm ngàn doanh nhân và công ty, vậy mà tôi thậm chí không thể tạo động lực cho bản thân hướng tới mục tiêu tiếp theo. Tôi giận dữ.

Ước mơ của tôi là chuyển đến New York và tiếp tục sự nghiệp viết lách. Đã bao nhiêu lần tôi hình dung về mục tiêu này. Tôi tưởng tượng cảnh mình đi dạo trên những con đường thành phố náo nhiệt, đi đến quán cà-phê và nhà hàng, và, vâng, thậm chí có khoảnh khắc sến súa y như nhân vật nữ chính Carrie Bradshaw trong loạt phim Sex and the City, tư lự ngồi viết bài bên cửa sổ một ngôi nhà phố cổ điển đắt tiền ở New York (Độc giả đừng phán xét tôi nhé!). Tuy nhiên, không biết vì lý do gì, tôi thậm chí không dám nhìn vào danh sách việc cần làm; thật quá sức. Tôi đang nhanh chóng trở thành kẻ hết thời, đó là những gì mà những người trong ngành này nhìn nhận. Ước mơ của tôi ngày càng xa tầm với, và việc tôi cố gắng thuyết phục bản thân rằng mình vẫn ổn chẳng có nghĩa lý gì nữa. Sự thật là tôi không ổn, nhưng không ai trả lời cho tôi biết tại sao.

Có lẽ bạn hiểu được điều tôi nói. Bạn biết mình có khả năng, nhưng vì lý do nào đó bạn không thể mở khóa tài năng này, thể hiện nó triệt để bằng mục đích, tầm nhìn và mục tiêu của bạn. Bạn luôn cảm thấy ước mơ của mình ngoài tầm với. Và dù có cố gắng nắm lấy nó bao nhiêu, giấc mơ đó vẫn luôn tuột qua tay bạn. Bạn cố gắng thuyết phục bản thân rằng sẽ dậy sớm hơn, làm việc chăm chỉ hơn và làm bất cứ điều gì cần thiết để đạt được mục tiêu của mình, nhưng hết lần này đến lần khác, bạn thất bại. Chúng ta là như vậy sao? Có phải chỉ vì chúng ta có thái độ kém? Chúng ta chỉ cần cứng rắn lên? Những người siêu thành công đang làm điều gì mà chúng ta không làm được? Tôi đã làm theo chiến lược của họ, nhưng tôi không nhận được kết quả giống họ. Tại sao?

Chúng ta được dạy rằng để hết buồn thì cần suy nghĩ tích cực lên. Nếu tức giận, bạn cần tìm sự bình yên. Nếu bạn hay trì hoãn, bạn là kẻ lười biếng. Nếu bạn kiếm cớ, bạn yếu đuối. Mọi thứ đều ở trong đầu bạn thôi. Hãy cầm lấy một quyển sách dạy cách tự lực và vượt lên chính mình đi.

Hoặc nếu đến chỗ bác sĩ để phàn nàn về các triệu chứng tương tự, bạn sẽ được chẩn đoán y khoa là bị trầm cảm và được kê đơn thuốc chống trầm cảm để khắc phục sự mất cân bằng hóa học trong não bộ. Ngay cả khi đó, do những hạn chế trong đào tạo, thái độ và thời gian của mình, bác sĩ cũng không thể dành thời gian để tìm hiểu nguyên nhân sự xuống dốc của bạn.

Tệ hơn là ngành công nghiệp sách tự lực cũng nhìn vào cùng những triệu chứng này, và họ tin rằng tiêm cho bạn một liều động lực và một câu chuyện truyền cảm hứng sẽ chữa được cho bạn. Những quyển sách đó cũng không quan tâm đến việc tìm ra nguyên nhân gốc rễ.

Nhận thức này khiến tôi phải đặt câu hỏi: Nếu đây là những triệu chứng của tôi, vậy nguyên nhân đằng sau đó là gì?

Tất cả chúng ta đều trải qua những thất bại ở các mức độ khác nhau trong suốt cuộc đời của mình, một số người gặp những thất bại lớn hơn người khác. Trong một cuộc khảo sát trực tuyến qua Facebook vào năm 2018 mà nhóm của tôi đã thực hiện với 2.000 doanh nhân trên khắp thế giới, chúng tôi đã có những phát hiện sau:

  • 75% từng bị chứng “sương mù não” hay chứng đờ đẫn, mất tập trung.
  • 82% cũng hay trì hoãn.
  • 82% dễ bị phân tâm.
  • 65% dễ cảm thấy quá tải.
  • 71% trải qua mức độ căng thẳng cao.
  • 58% không cảm thấy sảng khoái khi thức dậy buổi sáng.
  • 47% cảm thấy buồn bã.
  • 62% có năng lượng lên xuống thất thường trong suốt cả ngày.
  • 65% mắc kẹt trong những suy nghĩ tiêu cực.

Những con số này đáng kinh ngạc ở chỗ chúng chứng minh một tỷ lệ lớn trong những người này đều gặp phải các triệu chứng có thể liên quan đến trầm cảm. Mà những đối tượng cụ thể này, hầu hết là những người có động lực cao, những người say sưa với mục tiêu của họ và tham gia vào một lực lượng lao động gồm những con người năng động, có tầm ảnh hưởng trong thế giới kinh doanh, ấy vậy mà một lượng lớn những người này lại không hoàn toàn vui vẻ khi nói đến sức khỏe tinh thần của mình. Do những nhân tố sinh học, bao nhiêu người trong số họ sẽ kiệt sức trước khi có thể đạt được giấc mơ của mình?

Bằng cách xem xét kỹ hơn, chúng ta có thể thấy rằng có một nguyên nhân cơ bản gây ra các triệu chứng này. Tôi tin chắc rằng chúng ta có thể tự chữa khỏi “căn bệnh” khỏe mạnh ảo tưởng này. Đặc biệt là tại Hoa Kỳ, chúng ta đang chứng kiến việc sử dụng thuốc tràn lan nhằm chữa trị các triệu chứng này và ngành y tế chưa sẵn sàng thay các đơn thuốc bằng những bảng câu hỏi để khám phá nguyên nhân gốc rễ cho sự tuột dốc tinh thần của chúng ta.

Thu hẹp khoảng cách với con người thật của mình

Câu chuyện của tôi không phải là ngoại lệ của quy tắc; đó là quy tắc. Đây là tất cả các triệu chứng thể hiện ra ngoài của một vấn đề cơ bản ẩn bên dưới, một vấn đề đã bị ngành công nghiệp phát triển bản thân và ngành y tế hoàn toàn ngó lơ.

Giống như con ếch chết dần khi được cho vào nước ấm sau đó đun sôi dần dần, chúng ta cũng sẽ thích nghi với sự đau khổ của mình mà không nhận thức được cho đến khi các triệu chứng nghiêm trọng xuất hiện và cần phải can thiệp y tế. Và đến lúc đó, ta lo đi chữa bằng một biện pháp quyết liệt nào đó, thay vì sử dụng một biện pháp mang tính phòng ngừa ngay từ đầu.

Tất cả các triệu chứng này làm đầu óc ta giảm khả năng xử lý thông tin mới, gây ra hậu quả nguy hiểm khi nói đến việc thu hẹp khoảng hở nhân cách giữa bản thân hiện tại của chúng ta với người mà chúng ta cần trở thành để đạt được mục tiêu. Cụ thể, nó giới hạn niềm tin của ta về bản thân, giới hạn khả năng nhận thức cần thiết để hiện thực hóa những viễn cảnh ta tưởng tượng về cuộc sống của mình. Ngay cả khi những triệu chứng này chỉ ở thể nhẹ, chúng vẫn có thể khiến chúng ta lâm vào tình trạng tồi tệ nhất.

Mãi cho đến khi gặp một bác sĩ tại thành phố nông thôn Dubbo ở New South Wales, Úc, sau buổi nói chuyện với điệu bộ trịch thượng của người bác sĩ này thì lần đầu tiên tôi mới mở mắt.

Nhìn vào câu hỏi hóc búa

Tôi không mệt mỏi vì tôi bị trầm cảm; mà tôi trầm cảm vì tôi mệt mỏi. Tôi muốn biết tại sao tôi mệt mỏi! Bị trầm cảm do mệt mỏi là điều đầu tiên trong nhiều phát hiện giúp tôi khám phá ra giải pháp, không chỉ giải pháp cho các triệu chứng của tôi, mà còn là giải pháp để đạt được mục tiêu và viết lại mô hình thành công đi từ nền tảng. Nếu tôi có thể khám phá lý do tại sao tôi mệt mỏi, tại sao tôi lại kiếm cớ và chần chừ, mọi thứ khác sẽ quay lại đâu vào đó. Cuối cùng tôi sẽ lại có được động lực của mình, thôi kiếm cớ, và thắp lên lại nguồn năng lượng và niềm đam mê cho các dự án tôi từng yêu thích.

Giống như hàng triệu người khác, lúc bắt đầu tôi bị các triệu chứng nhẹ mà tôi nhanh chóng quy kết là do làm việc quá sức, thái độ tinh thần yếu đuối hoặc thức khuya và căng thẳng với những thời hạn sít sao. Tôi đã tán thành triết lý “cứ làm đi” mà không nhận thức được đầy đủ về hậu quả khi làm theo triết lý đó.

Khi lực bất tòng tâm, cơ thể không thể hoàn thành nhiệm vụ mà linh hồn đặt ra. Linh hồn thì lúc nào cũng sẵn sàng, sẵn lòng. Mặc dù đã đọc vô số sách tự lực, tham dự nhiều hội thảo, và đắm mình trong các chiến lược tạo động lực cho bản thân trong suốt 15 năm qua nhưng rốt cuộc tôi nhận ra rằng những thông tin mình có không hề đầy đủ.

Chúng ta đã được dạy rằng tâm lý của mình là chìa khóa số một để thành công; các chức năng sinh hóa của chúng ta không được đề cập đến trừ khi bạn là một vận động viên ưu tú hoặc gặp các triệu chứng thể chất nghiêm trọng mà ai cũng thấy. Nhưng ngay cả các vấn đề sinh hóa nhẹ cũng có thể ngăn cản bạn đạt được mục tiêu của mình.

Lập kế hoạch chiến lược, chuẩn bị tinh thần và ý chí là điều cần thiết để có được khả năng suy nghĩ và cạnh tranh trong công việc và cuộc sống. Những yếu tố này có thể giúp ta trở thành một đối thủ mạnh. Tuy nhiên, các cơ chế hóa sinh, những chức năng tạo ra sức bền và khả năng chịu đựng của một người, chính là thứ tạo ra vận tốc đạt tới thành công.

Chúng ta có xu hướng tự động cho rằng mình cũng có cơ chế sinh hóa ngang bằng với diễn giả Tony Robbins, doanh nhân Richard Branson, Đức Đạt Lai Lạt Ma hay những người đỉnh cao khác. Nhưng chúng ta không biết nhiều người trong số đó tích cực làm việc để nâng cao cơ chế sinh hóa của mình. Những người khác, thông qua sự kết hợp của các yếu tố mà chúng ta sẽ nói trong cuốn sách này, đã gặp may mắn; cơ chế sinh hóa của họ tự nhiên làm cho họ ít bị căng thẳng, đờ đẫn và buồn bã, giúp dọn đường cho sự thành công của họ.

Điều đó không có nghĩa là họ không trải qua những tình trạng này; họ có bị chứ nhưng ở những mức độ nhẹ hơn, kiểm soát được. Cũng không phải để nói rằng họ không làm việc chăm chỉ; chỉ là với họ không quá khó khăn như những người khác vì họ có cơ chế sinh hóa ổn định hơn, đây là một nền tảng vững chắc để từ đó mọi thứ khác có thể phát triển.

Chúng ta bắt chước chiến lược của họ. Chúng ta muốn biết họ thức dậy mấy giờ, họ ăn gì, họ nghĩ như thế nào, niềm tin cốt lõi và thói quen đọc sách của họ là gì, nhưng không một giây nào chúng ta nhìn ra một điều: mỗi người là một hệ thống sinh hóa độc nhất vô nhị không ai giống ai. Mỗi người chúng ta xử lý thức ăn, suy nghĩ và cảm xúc rất khác nhau do nhiều yếu tố – các yếu tố mà chúng ta bỏ qua trong quá trình tìm kiếm thành công cá nhân, trừ khi một trong những mục tiêu của chúng ta là giảm cân.

Bất cứ ai cũng có thể áp dụng các nguyên tắc tâm lý giống như những người siêu thành công, nhưng nếu bạn bị suy giảm nghiêm trọng những thứ như vitamin D, omega-3, vitamin C, vitamin B12, dopamine, serotonin hoặc thậm chí là testosterone (cả ở phụ nữ và nam giới), bạn có thể bị đờ đẫn từ nhẹ đến nặng, mệt mỏi, thờ ơ, lo lắng, căng thẳng và trầm cảm, tất cả những điều này sẽ cản trở nghiêm trọng khả năng duy trì sự tập trung và đạt được mục tiêu của bạn. Nó giống như trồng cây trong đất độc hại rồi lại mong nó lớn lên được. Bất kể bạn có nói với nó là nó có khả năng làm được mọi điều thì cái cây xui xẻo đó kiểu gì cũng sẽ chết mà thôi!

Sự thiếu hiểu biết về cơ chế hóa sinh làm suy yếu các nguyên tắc tâm lý mà chúng ta được dạy để áp dụng. Đó là yếu tố vô hình làm chúng ta trật đường ray, một bàn tay vô hình giữ bạn lại không cho vượt qua vạch đích. Không có thông tin này, bất kỳ chiến lược nâng cao năng suất và hiệu suất nào cũng không đầy đủ và không hiệu quả.

Thay vì nhận ra cơ chế hóa sinh bất ổn của mình, chúng ta gắn một trạng thái tinh thần cảm xúc tiêu cực vào các mục tiêu của mình và tự quyết định mục tiêu đó là quá khó hoặc quá cao. Rốt cuộc chúng ta tự hình thành những suy nghĩ thối chí, chẳng hạn như “Tôi quá mệt mỏi”, “Tôi không có thời gian cho việc này”, “Làm điều đó rồi được gì?” hay “Tôi căng thẳng quá”. Để tránh viễn cảnh đó, có lẽ chúng ta nên tự hỏi bản thân một vài câu:

  • Điều gì sẽ xảy ra nếu thay vì chỉ nghiên cứu thói quen của những người thành công, những bộ óc sáng tạo nhất, những tư tưởng triệu đô, chúng ta dành tâm sức đó để soạn một cơ sở dữ liệu y tế của họ để kiểm tra mức serotonin, dopamine và cơ cấu hệ vi sinh vật cơ thể của họ và so sánh với những người thường xuyên bỏ cuộc, kiếm cớ hoặc trải nghiệm những cảm xúc tiêu cực dữ dội hơn?
  • Liệu cơ chế hóa sinh kém có ảnh hưởng đến khả năng của họ, ngăn họ về đích? Những mức độ sinh hóa này có ảnh hưởng đến khả năng của những người thành công cao để giúp họ vượt qua những thất bại và cán đích? Những quá trình sinh học này có giúp chúng ta hiểu đúng, hiểu đầy đủ tại sao những người thành công lại cư xử theo một cách cụ thể nào đó chứ không chỉ dựa trên thái độ tinh thần và giáo dục?
  • Giả sử một người suy giảm mức độ dopamine và serotonin, hành vi của họ sẽ thay đổi như thế nào?
  • Liệu một người thành công, tự tin có thể bị mất khả năng về thể chất và tinh thần nếu thiếu hụt dinh dưỡng?
  • Nếu nhìn vào mức độ sinh hóa khi họ gặp phải một trở ngại lớn, chúng ta sẽ khám phá ra điều gì?
  • Bằng việc xem xét các khía cạnh khác của cuộc sống khi một người gặp một trở ngại lớn về thể chất và cảm xúc, chúng ta sẽ tìm thấy gì? Họ đã ăn gì vào thời điểm đó? Hành vi của họ đã thay đổi như thế nào? Điều gì xảy ra trong cơ thể chứ không chỉ trong thái độ của họ?

(Tất nhiên ở đây ta đang bỏ qua những nan giải về đạo đức khi thu thập một cơ sở dữ liệu như vậy; những câu hỏi này hoàn toàn là giả thiết.) Lần duy nhất chúng ta xem xét cơ chế hóa sinh là khi chúng ta suy nhược hoặc cố gắng giảm cân, chứ không phải khi chúng ta cố gắng trở thành một phiên bản tốt hơn của chính mình. Khi không đạt được mục tiêu của mình, điều đó ngụ ý rằng chúng ta có một thái độ tinh thần yếu đuối chứ không phải một điểm yếu sinh hóa có thể nhanh chóng được khắc phục nếu có sự giúp đỡ đúng đắn. Quá trình cải biến cá nhân đúng đắn đòi hỏi thay đổi ở cả mặt sinh hóa lẫn tâm lý mới có thể duy trì được sự thay đổi đó về lâu dài. Nếu không, chúng ta sẽ quay trở lại ngay với những gì dễ dàng.

Khi tâm trí yếu đuối, bạn sẽ chẳng làm được việc gì ra hồn. Một phát hiện trong cuộc khảo sát 2.000 doanh nhân khiến chúng tôi khá bất ngờ, nhưng khi nhìn lại thì rõ ràng: 57 đến 65% những người bị “sương mù não” hay đờ đẫn là những người dễ bị phân tâm, thường trì hoãn, mất đi dòng suy nghĩ, cảm thấy quá tải và buồn bã, và cũng cảm thấy thèm ăn. Đây là một yếu tố sinh hóa chính yếu giải thích tại sao họ dễ đi chệch hướng và tại sao họ có xu hướng bỏ cuộc. Khám phá này càng khiến tôi tin rằng thành công không chỉ ở trong tâm trí hay cơ thể; nó ở trong cả hai nơi.

Để thực sự thành công có nghĩa là không chỉ bẻ khóa tâm trí mà còn phải bẻ khóa cả cơ chế hóa sinh của bản thân nữa. Nhìn nhận câu hỏi hóc búa này từ một quan điểm mới đã thách thức mọi thứ tôi từng tin về sự tự lực. Tôi, cũng như những người khác, đã bị thuyết phục rằng mình có thể dùng ý chí để thoát khỏi những lý do, sự trì hoãn, sự đờ đẫn, suy nghĩ tiêu cực và nỗi buồn, nhưng khi bị trầm cảm bạn lại cần uống thuốc.

Nhưng nếu điều đó không đúng thì sao?

Tâm lý đóng vai trò như thế nào trong thành công của bạn, còn cơ chế sinh hóa đóng vai trò bao nhiêu?

Thực tế là bạn không thể sử dụng khả năng tinh thần để bù đắp cho một cơ chế sinh hóa yếu kém. Tinh thần tốt có thể hỗ trợ, nhưng nếu không hiểu và giải quyết được các vấn đề tiềm ẩn, bạn sẽ tiếp tục tránh né và trì hoãn. Những hoạt động thực hành phát triển cá nhân của bạn sẽ chỉ có hiệu quả khi cơ chế hóa sinh của bạn hoạt động với hiệu quả cao nhất và hỗ trợ cơ thể bạn hoạt động ở mức tối đa.

Cách tiếp cận mới đối với các vấn đề cũ

Bạn giải quyết vấn đề gì trước tiên, tâm lý hay sinh lý của mình? Trước đây, chúng ta sẽ chọn một cuốn sách tự lực hoặc tìm kiếm một nhà trị liệu, người có thể hoặc không thể giải quyết sự thiếu hụt dinh dưỡng của chúng ta.

Nếu là một thập kỷ trước, cách này có thể hiệu quả, vì đó là trước khi có những thay đổi lớn diễn ra trong môi trường và nguồn cung thực phẩm, trước khi ô nhiễm ánh sáng và tác động tâm lý của phương tiện truyền thông xã hội bắt đầu ảnh hưởng đến hành vi hàng ngày của chúng ta. Tuy nhiên, bộ não thời tiền sử của chúng ta đã không bắt kịp những tiến bộ công nghệ ngày nay; hệ thống sinh hóa của chúng ta bị mắc kẹt trong quá khứ tiến hóa. Do đó, chúng ta dán mắt vào màn hình máy tính, điện thoại và máy tính xách tay 24/7, và việc nghiện công nghệ này đang có tác động sâu sắc đến cách chúng ta cư xử.

Các nghiên cứu cho thấy các công ty phát triển ứng dụng và mạng xã hội đang sử dụng công nghệ của họ để tạo ra những nền tảng gây nghiện mà chúng ta vô tình phải trả giá.[1] Họ sử dụng những biểu tượng cảm xúc dễ thương và theo dõi số lần chúng ta sử dụng ứng dụng của họ, do đó tạo ra thói quen truyền thông xã hội gây nghiện. Những thói quen này thỏa mãn người dùng, tạo ra cho họ nhu cầu phải lặp lại hành vi đó một lần nữa để có được niềm vui thích ngắn ngủi như thế. Facebook đúng là đã tấn công một trong những chất dẫn truyền thần kinh của chúng ta, dopamine, để thu lợi tài chính. Dopamine, hay còn được gọi là “hormone khen thưởng” do nó chịu trách nhiệm về hệ thống khen-thưởng-gợi-cảm-giáchài-lòng (pleasure-reward system) của não bộ, mang lại cho chúng ta động lực và sự tập trung mà chúng ta cần để làm việc hiệu quả. Thật không may, chúng ta luôn luôn không nhận thức rằng điều này đang xảy ra, cho đến khi chúng ta cảm thấy nó ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác trong cuộc sống.

Dopamine là thành tố quan trọng tham gia vào nhiều chức năng khác nhau của não bộ, liên quan đến giấc ngủ, học tập, điều khiển vận động, trí nhớ làm việc, khả năng tập trung và chú ý.[2] Trong phổ nồng độ dopamine từ thấp tới cao, các bệnh như Parkinson, rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) và các tình trạng bệnh khác nằm ở phân cực nồng độ dopamine thấp. Nói cách khác, nghiện mạng xã hội có phải là kết quả của mức độ dopamine thấp hơn do tình trạng căng thẳng và thế giới hiện đại mà chúng ta đang sống? Những lời bào chữa, tính chần chừ và tình trạng đờ đẫn là những triệu chứng có thể do mức độ thiếu hụt dopamine gây ra, chứ chúng không phải là nguyên nhân gây thiếu dopamine.

Bạn không phải là một người giống như trong những cái cớ bạn đưa ra; cái nguyên cớ đúng lý ở đây chính là cơ chế hóa sinh của bạn.


Đó chính là khi một tia sáng chói lóa giúp tôi nhận ra: Những lời bào chữa của tôi, những suy nghĩ tiêu cực, sự thiếu động lực và tinh thần không chỉ đơn giản là kết quả của một thái độ tinh thần yếu đuối. Vấn đề nằm ở sự thiếu hụt chất dẫn truyền thần kinh kết hợp với nhiều yếu tố khác. Vốn dĩ không ai là không xứng đáng, vô dụng hoặc yếu đuối; tất cả chúng ta luôn thay đổi trong suốt cuộc đời của mình. Cuộc sống, như bạn sẽ tìm hiểu trong suốt cuốn sách này, không phải là một thử nghiệm có kiểm soát. Suy nghĩ tích cực không thể thay thế cho sự thiếu hụt dinh dưỡng. Thật không may, chúng ta không liên kết các triệu chứng mơ hồ như lòng tự trọng thấp, tức giận, cơn thèm carbohydrate, rối loạn tiêu hóa, cảm thấy quá tải, mất ngủ, không vui, đờ đẫn, chức năng nhận thức kém với mức độ serotonin thấp. Thay vào đó, chúng ta tự hành hạ bản thân vì không giỏi được như những người khác.[3]

Khi nghĩ đến điều đó, liệu cơ chế hóa học bên trong có phải là yếu tố kích hoạt sự trì hoãn, sợ hãi, lo lắng, muốn bỏ cuộc không? Trong quá khứ, tôi đã từng trải nghiệm những điều này nhưng chúng chỉ thoáng qua và luôn lắng xuống. Còn lần này chúng đã cắm rễ, tôi phải đào lên. Câu trả lời ngắn gọn là một tiếng CÓ vang vọng.

“Chẩn đoán” sự thất bại

Vấn đề lớn nhất với cách tiếp cận cũ về thành công là nó không thể thu hẹp khoảng cách giữa cơ chế hóa sinh và tâm lý học. Cả hai hòa quyện đến mức không thể tách rời, tuy nhiên hệ thống y tế của chúng ta, lĩnh vực phát triển cá nhân, nhà tâm lý học, những người tin tưởng liệu pháp chữa bệnh tự nhiên, các chuyên gia dinh dưỡng và nhà trị liệu đã phân tách các phương pháp của họ trong nhiều thập kỷ, dẫn đến việc tâm lý học được nhấn mạnh hơn sinh hóa hoặc ngược lại chứ không kết hợp cả hai.

Sự tiến hóa thực sự sẽ xảy ra khi chúng ta có sự hội tụ của tất cả các ngành y học. Điều này đang bắt đầu xảy ra trong lĩnh vực dược chức năng, và nó sẽ cách mạng hóa việc chăm sóc sức khỏe và cách chúng ta nghĩ về bản thân, về khoa học của sự thành công. Nhưng trước khi nói về thành công, hãy nói về thất bại.

Tại sao chúng ta thực sự thất bại

Thất bại không chỉ do mức độ dopamine thấp. Đó còn là vấn đề làm chủ phản ứng “chiến đấu hay trốn chạy” của chúng ta. Khi chúng ta bị căng thẳng, hệ thống thần kinh soma của cơ thể (hệ thần kinh thân thể) sẽ kích hoạt phản ứng chiến đấu hoặc trốn chạy. Cơ thể rơi vào trạng thái tập trung cao độ và dồn các nguồn năng lượng của nó vào việc chống lại mối đe dọa hoặc chạy trốn khỏi kẻ thù.

Phản ứng chiến đấu hay trốn chạy giải phóng các hormone adrenaline và cortisol, tạo ra một loạt các quá trình bên trong, bao gồm hô hấp nhanh, tim đập nhanh và mạch máu giãn ra ở tay và chân, kích hoạt hệ thống tiêu hóa tăng mức đường huyết để đối phó với tình huống khẩn cấp. Một khi tình trạng khẩn cấp kết thúc, mọi thứ trở lại bình thường.[4]

Tuy nhiên, nếu điều này tiếp tục trong một thời gian dài, căng thẳng mãn tính có thể gây ra các vấn đề từ suy giảm nhận thức và mất ổn định cảm xúc cho tới bệnh tật thể chất. Các triệu chứng cảm xúc bao gồm kích động, ủ rũ, cảm thấy quá tải, không có khả năng thư giãn, lòng tự trọng thấp, cảm giác vô dụng, trầm cảm và cô lập. Các triệu chứng thể chất có thể bao gồm đau đầu, năng lượng thấp, đau dạ dày, căng cơ, đau ngực, mất ngủ, cảm lạnh và nhiễm trùng, mất ham muốn, hồi hộp, run rẩy hoặc khó nuốt. Căng thẳng cũng có thể dẫn đến các triệu chứng nhận thức: suy nghĩ lướt qua nhanh, hay quên, vô tổ chức, không có khả năng tập trung, đờ đẫn, phán đoán kém, bi quan và lo lắng liên tục.[5]

Căng thẳng, thèm ăn và không có khả năng tập trung vào những gì quan trọng

Căng thẳng có tác động rất lớn. Một tỷ lệ đáng kinh ngạc 71% trong số 2.000 người được hỏi cho biết họ đã trải qua mức độ căng thẳng cao, và điểm thú vị là: Căng thẳng gây ra cảm giác thèm ăn, đặc biệt thèm đường và thực phẩm chế biến nhiều lần. Quá trình tiêu hóa loại thực phẩm này giải phóng chất dẫn truyền thần kinh serotonin, mang lại cho chúng ta làn sóng bình tĩnh và thư giãn, cho phép chúng ta lấy lại sự tập trung tạm thời, cho đến khi mức serotonin giảm dần.

Từ 57 đến 65% số người đang bị đờ đẫn, cảm thấy choáng ngợp, lo lắng và buồn bã cũng trải qua cảm giác thèm ăn.

Cảm giác thèm ăn carbohydrate có thể là do mức serotonin thấp vì loại “hormone hạnh phúc” này được tiết ra trong quá trình tiêu hóa thức ăn. Điều này dẫn đến một vòng luẩn quẩn khi người ta tiêu thụ lượng carbohydrate quá mức nhằm cảm thấy vui vẻ hơn. Những cảm giác thèm ăn này thường thấy ở những cá nhân phải chịu mức độ căng thẳng cao.[6]

Mối liên hệ với việc chúng ta không có khả năng thành công nằm ở hai yếu tố đang diễn ra hàng ngày. Khi cảm thấy thèm ăn hoặc căng thẳng, phản ứng chiến đấu hay trốn chạy của chúng ta được kích hoạt lên. Quá trình này dẫn máu ra khỏi vỏ não trước, nơi điều khiển vô số chức năng điều hành, bao gồm các hành vi phức tạp như phối hợp, kiểm soát xung lực, phản ứng cảm xúc, tính cách, tập trung, tổ chức, lập kế hoạch phức tạp và ưu tiên thông tin đồng thời.[7]

Điều này tạo ra một vòng luẩn quẩn khó chịu: Lượng đường trong máu của chúng ta giảm, cảm giác thèm ăn của chúng ta tăng lên và lượng cortisol tăng, làm hạn chế khả năng kiểm soát các xung động, sự chú ý và phản ứng cảm xúc của chúng ta. Chúng ta tìm đến carbohydrate ngọt hoặc tinh chế cao và lượng đường trong máu tăng lên, sau đó là sự sụt giảm đột ngột, dẫn đến sự đờ đẫn, không thể tập trung, mất động lực, mất khả năng đạt được mục tiêu.

Chúng ta cố gắng giải quyết vòng luẩn quẩn này ở con cái bằng cách hạn chế lượng đường của chúng, nhưng lại không kiểm soát nó vì sức khỏe tâm lý của chính mình. Chúng ta cũng đã bị bịt mắt bởi các công ty nói rằng họ đang đưa “nhân tố lành mạnh” vào sản phẩm, mặc dù nhiều sản phẩm trong số đó có nhiều đường, chất làm ngọt nhân tạo sucralose, carbohydrate tinh chế, caffeine và chất bảo quản, tất cả đều ảnh hưởng đến khả năng suy nghĩ thông suốt của chúng ta.

Khi lượng đường trong máu của bạn giảm hoặc bạn gặp phải mức độ căng thẳng cao, não của bạn sẽ chuyển sang chế độ sinh tồn, thúc đẩy bạn liều lĩnh hơn và đưa bộ não nguyên thủy của bạn vào trạng thái hưng phấn kích thích cao độ. Sự thay đổi này khiến tính cách, tâm trạng và bản sắc của bạn dao động suốt cả ngày. Động lực của bạn có thể cao vào buổi sáng, nhưng vào buổi chiều, bạn thà ngồi trên ghế và xem tivi còn hơn vì bạn đã sử dụng hết khả năng tinh thần của mình trong ngày.

Trong trạng thái nguyên thủy này, mục đích chính của bộ não là duy trì sự sống chứ không phải để khiến bạn tập trung vào việc đạt được mục tiêu của mình. Não bộ thậm chí còn không xếp việc “đạt được mục tiêu” vào danh sách các chức năng quan trọng cần thiết để duy trì cuộc sống. Trong trạng thái này, còn được gọi là chế độ tự bảo tồn, não bộ mặc định duy trì hiện trạng của bạn chứ không làm thêm gì khác.

Vấn đề là hầu hết chúng ta không thể tắt chế độ này đi, hoặc nếu chúng ta làm vậy, nó sẽ nhanh chóng quay trở lại sau đó, tạo ra một chuyến tàu lượn đầy cung bậc cảm xúc và cảm giác bất lực không thể hoàn thành các dự án đúng hạn. Sự xáo trộn cảm xúc này dễ dàng diễn ra như vậy là do ảnh hưởng trực tiếp của quá trình chúng ta học cách xử lý các mối đe dọa tiềm tàng. Quá trình đó dựa trên nhiều yếu tố như giáo dục, di truyền và cả mức độ các hormone như serotonin và dopamine. Nếu mức serotonin hoặc dopamine của bạn thấp, bạn sẽ khó đương đầu với những thất bại, và nhiều khả năng có tâm thế thụ động thay vì chủ động.

Ngày qua ngày, lối sống hiện tại tàn phá chúng ta bằng các yếu tố căng thẳng, bắt đầu từ một yếu tố nhỏ nào đó tưởng chừng vô hại. Ví dụ về các yếu tố căng thẳng này có thể là phản ứng với thực phẩm không lành mạnh, dị ứng, tin xấu, mất ngủ, ô nhiễm, đồng nghiệp thù địch, căng thẳng tài chính, quá nhiều caffeine, xung đột trong các mối quan hệ, vấn đề gia đình, căng thẳng liên tục hoặc đơn giản là ai đó trên đường nhìn bạn đầy soi mói. Sự căng thẳng bắt đầu tăng tốc và kết quả là các vấn đề khác xuất hiện. Quá trình này xảy ra chậm đến mức ban đầu chúng ta không nhận ra cho đến khi mọi nỗ lực thoát ra đều trở nên vô ích vì các chức năng nhận thức của chúng ta đã bị vô hiệu hóa; nó giống như đi tìm chìa khóa trong một căn phòng tắt đèn tối om vậy.

Để tìm ra công tắc bật đèn, chúng ta phải thay đổi nhân cách và nguồn nhiên liệu, ngay cả khi chỉ trong chốc lát, để khởi động lại tinh thần, cơ thể và tâm trí của chúng ta cùng một lúc.

Các mô hình điều trị cũ

Khi nói chuyện với các chuyên gia trong lĩnh vực y học, tâm thần học, phát triển cá nhân, bẻ khóa sinh học, phản hồi thần kinh, phản hồi sinh học và khoa học thần kinh, tôi phát hiện ra một điều thú vị. Mỗi người trong số họ đều có công thức riêng để thành công, nhưng họ hiếm khi hợp nhất chúng thành một khuôn khổ gắn kết để tạo ra sự thay đổi lâu dài cho chúng ta, những người đang đòi hỏi nhiều hơn từ chính mình. Một số khung này bao gồm:

  • Mô hình y tế: chẩn đoán và điều trị bệnh, kê đơn thuốc để kiểm soát các triệu chứng mà thường không phát hiện và giải quyết nguyên nhân gốc rễ, dẫn đến các tác dụng phụ có thể xảy ra. Mô hình này xem cơ thể như một tập hợp các cơ quan độc lập được phân chia theo các chuyên ngành y tế.
  • Mô hình tự lực: thúc đẩy nhận thức, khám phá hành vi tự phá hoại, truyền cảm hứng thông qua cách kể chuyện, khuyến khích khách hàng thay đổi niềm tin của họ và noi gương những người thành công, có bàn luận thêm các yếu tố tâm lý. Thật không may, phương pháp này không xác định được bất kỳ sự thiếu hụt dinh dưỡng nào có thể góp phần vào những hành vi này, những thiếu hụt dinh dưỡng vẫn tạo ra được thành công nhưng chỉ trong ngắn hạn chứ không thể tạo được sự thay đổi lâu dài. Khách hàng được “tiêm” một luồng ý chí, nhưng khi hết, họ mặc định trở lại chế độ cài đặt trước đây của mình.
  • Các mô hình trị liệu: gồm nhiều liệu pháp như nhận thức, chánh niệm, liệu pháp hành vi và liên nhân. Tương tự như mô hình tự lực, những liệu pháp này có thể khiến bệnh nhân không thực hiện những thay đổi cơ bản trong cơ chế sinh hóa của họ mà chỉ đưa cho họ một mảnh ghép về lý do tại sao họ lại thiếu động lực, thiếu tinh thần, thiếu tập trung, thiếu bình tĩnh.

Lĩnh vực y học chức năng đang thay đổi cách thức điều trị bệnh tật. Nó tìm kiếm và giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của bệnh. Không giống như y học truyền thống vốn xem cơ thể là một tập hợp các cơ quan độc lập, y học chức năng xem cơ thể như một hệ thống tích hợp. Mục tiêu của nó là điều trị toàn bộ cơ thể, không chỉ các triệu chứng.

Những hiểu biết tôi nhận được từ các chuyên gia mà tôi đã nói chuyện và từ vô số các thực phẩm chức năng, chế độ ăn uống, chiến lược chánh niệm và các thiết bị đeo tôi thử nghiệm trong thời gian 90 ngày này dẫn đến việc tôi suy ngẫm lại toàn bộ ngành khoa học về thành công, nhìn nhận lại đâu là gốc rễ để đạt được thành công đó. Tôi đã thử nghiệm một phương pháp y học chức năng hoàn chỉnh để đạt hiệu suất cao nhất và giờ tôi sẽ hướng dẫn bạn bắt đầu từ việc tìm ra khoảng hở trong nhân cách cho đến trở thành người dẫn đầu, thành người không thể cản ngăn. Hãy cùng tìm hiểu nào.

-Còn tiếp-

Chú thích:

  1. Eva Ritvo, “Facebook and Your Brain: The Inside Dope on Facebook” (Facebook và bộ não của bạn: Thuốc mê trên Facebook), Psychology Today, 24/5/2012, www.psychologytoday.com/us/blog/vitality/201205/facebook-and-your-brain.
  2. Deane Alban, “Dopamine Deficiency, Depression and Mental Health” (Thiếu hụt dopamine, trầm cảm và sức khỏe tâm thần), Be Brain Fit, https://bebrainfit. com/dopamine-deficiency/.
  3. Deane Alban, “Serotonin Deficiency: Signs, Symptoms, Solutions” (Thiếu hụt serotonin: Dấu hiệu, triệu chứng, giải pháp), Be Brain Fit, https://bebrainfit. com/serotonin-deficiency/.
  4. “Stress Effects on the Body” (Tác động của căng thẳng đến cơ thể), Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ, www.apa.org/helpcenter/stress-body.aspx.
  5. “Stress Symptoms” (Các triệu chứng căng thẳng), WebMD, 11/7/2017, www.webmd. com/balance/stress-management/stress-symptoms-effects_of-stress-on-the-body#2.
  6. R.J. Wurtman, “Brain serotonin, carbohydrate-craving, obesity and depression” (Serotonin của não, thèm carbohydrate, béo phì và trầm cảm), 3/11/1995, www. ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/8697046.
  7. “Prefrontal Cortex” (Vùng vỏ não trước trán), GoodTherapy.org, www. goodtherapy.org/blog/psychpedia/prefrontal-cortex.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Voi trong căn phòng – Trích “Fuzz – Khi tự nhiên phạm luật”

Published

on

Trích từ: Fuzz - Khi Tự Nhiên Phạm Luật

Tác giả: Mary Roach

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 04.2025

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

Ngộ sát nơi đường cùng

Ở Ấn Độ có cái gọi là “trại nâng cao nhận thức”. Lần đầu tiên tôi nghe được từ này là từ một nhà nghiên cứu tại Viện Động vật Hoang dã của Ấn Độ, người điều hành các trại nâng cao nhận thức về voi và báo hoa mai. Tôi tưởng tượng ra đấy là một khu trại kiểu Mỹ, với giường tầng và kẹo dẻo, và cố gắng liên tưởng điều này trong đầu với những con vật to lớn, nguy hiểm. Theo lẽ tự nhiên, tôi muốn đến đó. Hóa ra, trại nâng cao nhận thức này giống với ngày nhận thức toàn dân hơn. Tôi từng thấy danh sách các trại nâng cao nhận thức về bệnh sốt xuất huyết, trại nâng cao nhận thức về bệnh tiểu đường, trại nâng cao nhận thức về an toàn giao thông và ít nhất một trại nâng cao nhận thức về chứng ngáy và ngưng thở khi ngủ, nghe khá giống phòng ngủ nhà tôi. Đó là những buổi họp mặt cung cấp thông tin nhằm nâng cao nhận thức về những nguy hiểm mà mọi người có thể không biết rõ hoặc không muốn nghĩ đến và đưa ra hướng dẫn về cách tốt nhất để tránh hoặc sống sót qua các tình huống đó.

Mỗi năm cứ đến tháng Mười hai, Dipanjan Naha, nhà nghiên cứu vừa nhắc ở trên lại khóa cửa văn phòng mình ở Dehradun, dán tấm thẻ THI HÀNH CÔNG VỤ của Chính phủ Ấn Độ trên chiếc xe thuê bốn bánh, rồi bắt đầu chuyến đi trại-nâng-cao-nhận-thức. Năm nay, người em họ Aritra sẽ đi cùng anh với tư cách là trợ lý, và tôi cũng có mặt trong chuyến đi này. Chúng tôi đang khởi hành từ Bắc Bengal – thật khó hiểu, lại là khu vực thuộc Tây Bengal – nơi mỗi năm, voi hoang dã giết chết trung bình 47 người và làm bị thương 164 người khác. Bốn mươi bảy người mỗi năm, trong khu vực có diện tích bằng Connecticut (Khoảng 13.000 km2 - ND). Cơ quan lâm nghiệp Ấn Độ sẽ cho kiểm lâm viên can thiệp các trường hợp này, nhưng họ không giết con voi. Một số kiểm lâm viên sẽ có mặt tại trại nâng cao nhận thức đầu tiên của Naha, ở làng Bamanpokhri. Tôi háo hức muốn biết các hoạt động sẽ diễn ra thế nào.

Bên ngoài cửa kính ô tô là cảnh quan nông nghiệp: đồn điền chè, trang trại cúc vạn thọ, những hàng lúa thẳng tắp cắm sâu vào lòng đất như lông bàn chải đánh răng xơ cứng. Những ngôi làng nhỏ nằm xen kẽ với cánh đồng và khoảnh đất – những ngôi nhà bằng tôn và mái tranh, một ngôi đền, một vài cửa hàng rượu lộ thiên. Đàn bò lang thang trên đường và mấy con dê đen nhỏ đi song song dọc hai bên, nhưng tôi không thấy con vật nào khác, bối cảnh này không hợp lý với lũ voi.

Voi! Naha đảm bảo với tôi rằng chúng không ở đâu xa. Đang là mùa đông, thời điểm các đàn di chuyển trong năm. Chúng kiếm ăn vào ban đêm và ngủ vào ban ngày trong các mảnh gỗ tếch và lal – tàn tích của những khu rừng từng trải dài từ bang Assam của Ấn Độ qua Bắc Bengal đến tận biên giới phía đông của Nepal. Sau đó, “hành lang voi” này bị đứt gãy và thu nhỏ lại, đầu tiên là do nhiều đồn điền chè rộng lớn của người Anh và gần đây là do các căn cứ quân sự và khu định cư của người tị nạn và người nhập cư từ Nepal và Bangladesh. Ngày càng nhiều người đến các khu rừng này để đốn gỗ và chăn thả gia súc, biến môi trường sống của voi thành của người. Trong nỗ lực đi qua vùng đất này, voi phải đối mặt với các rào cản, nguy hiểm, ngõ cụt. Hành lang giờ đã thành trò bắn đạn. Đàn có thể bị cô lập trong một khoảnh rừng sâu biệt lập. Chúng trở thành “những con voi cô lập”. Để voi sống trong một vùng biệt lập là không nên. Vốn gene sẽ bị thoái hóa và mật độ dân số tăng đột biến. Chẳng bao lâu sẽ không có đủ nguồn thức ăn cho chúng nữa. Chúng lang thang vào các ngôi làng để ăn những gì có thể tìm thấy, và đó chính là mùa màng và kho thóc của người dân. Khởi nguồn của xung đột giữa người và voi.

Aritra chỉ ra ngoài cửa sổ khi chúng tôi ngang qua một lối rẽ. “Đi thêm 2 cây số lên con đường đó là nơi voi đã giết chết một người đàn ông. Vào vài ngày trước. Ba người đang làm việc trên đường. Họ bỏ chạy khi nhìn thấy voi, rồi một người bị tách ra, và con voi đi theo anh ta”.

Tôi thấy điều này thật khó tưởng tượng. Tôi lớn lên cùng với chú voi Babar và chương trình National Geographic. Voi là loài hiền lành và chậm chạp. Chúng đi tất và mặc phục trang màu xanh tươi sáng. Chúng chưa bao giờ là loài đáng sợ. Điều này gây ra sự mất kết nối nhỏ giữa tôi và những người tiếp đón mình. Đêm đầu tiên trên đường, chúng tôi ngụ trong ngôi nhà gỗ thuộc sở hữu của chính phủ trong khu rừng tếch ngay dưới đường từ biển báo đánh dấu khu vực voi băng qua. Đầu bếp của ngôi nhà nói rằng anh đã nhìn thấy một con gần cổng vào đêm trước khi chúng tôi đến đây. Phản ứng với thông tin này, tôi thông báo ý định đi dạo. Lúc đó khoảng 7 giờ tối, cách hai tiếng sau khi voi ra ngoài tìm thức ăn và Dipanjan Naha cùng em họ mình dừng lại gần cánh rừng.

“Đừng đi xa quá, Mary”, Aritra nói. Chúng tôi ngồi ngoài hiên uống trà cùng tắc kè và bướm đêm. Aritra có khuôn đầu tròn và tính cách thân thiện, hay cười. Anh dễ dàng chuyển từ vai trợ lý của Naha sang vai người em họ thân thuộc.

Naha cũng không thích kế hoạch của tôi. “Xin hãy hết sức cẩn thận”.

Họ nhìn nhau, rồi đặt cốc xuống và đứng dậy đi theo tôi.

Chúng tôi đi xa đến tận đường ray xe lửa ở cuối đường lái xe. Naha kể đôi lời về lịch sử đường sắt khổ hẹp ở Ấn. Chúng tôi đứng lại vài phút, như thể đợi một chuyến tàu. Aritra dùng chân mân mê hòn sỏi giữa các thanh ray. “Hãy trở lại bên trong”.

--

Để đánh giá đúng hơn mức độ nguy hiểm của cuộc đụng độ ngoài ý muốn với voi, hãy ngồi lại với người điều tra các vụ tử vong. Saroj Raj là sĩ quan kiểm lâm của Bamanpokhri Beat – cơ quan lâm nghiệp địa phương, nơi mỗi năm kể từ năm 2016 đều có người bị voi giết chết.

Sĩ quan Raj đã đến nhà cộng đồng chỉ gồm một căn phòng của Bamanpokhri – địa điểm của trại nâng cao nhận thức hôm nay – để nói chuyện với mọi người và trả lời các câu hỏi. Cho đến giờ chỉ có mình tôi đặt câu hỏi. Có vẻ những người có mặt đúng giờ ở đây đều do buộc phải đến. Người tham dự gồm một nhóm học sinh mặc đồng phục kẻ sọc và nửa tá kiểm lâm viên đến từ các đội động vật hoang dã địa phương. Naha không bận tâm. Đang là kỳ Diwali – tuần nghỉ lễ – và bây giờ đang là giờ sau bữa trưa. “Nên họ rất miễn cưỡng phải đến đây”.

Sĩ quan Raj cho tôi biết chi tiết về những trường hợp tử vong gần đây nhất. Mỗi lần anh đều bắt đầu với ngày chính xác. Cảm giác rằng có rất nhiều giấy tờ. “Ngày 31 tháng Mười năm 2018. Ba công nhân đang làm đường.” Nơi chúng tôi đã đi qua trước đó. “Đột nhiên một con voi xuất hiện.”

Một con voi có thể đáng sợ hơn nhiều con. Đàn voi gồm những con cái trưởng thành và voi con, những người bạn to xác yêu hòa bình của tuổi thơ tôi. Voi sống cô độc thường là voi đực và voi đực có thể gây rắc rối. Voi đực trải qua giai đoạn rối loạn nội tiết tố định kỳ gọi là musth, khi mức testosterone của chúng tăng cao gấp mười lần so với những thời điểm khác. Điều này mang lại cho chúng lợi thế cạnh tranh với những con đực khác và với voi cái đầu đàn, nhưng cũng có một mức độ thất thường nào đó. Theo cách nói của chuyên gia về voi châu Á Jayantha Jayewardene, trạng thái musth trải dài gồm “dễ nổi cáu” đến “khuynh hướng tấn công hay phá hoại” đối với những con voi khác và con người, “thậm chí cả những vật vô tri vô giác”. Dân làng biết điều này. Sĩ quan Raj nói: “Những người đàn ông đã cố trốn vào bụi rậm. “Một người không may bị ngã.”

Sĩ quan Raj cung cấp chi tiết mà Aritra đã cẩn thận bỏ qua. Con voi giẫm lên đầu người đàn ông. Với cân nặng 3 tấn, con voi chỉ cần giẫm hoặc quỳ lên một người – hay (vào năm 1992) trong trường hợp voi diễn xiếc nổi giận thực hiện động tác trồng cây chuối lên nạn nhân – thì đúng là cách giết người hiệu quả. Nhưng dựa trên dấu chân và sự xáo trộn của thảm thực vật xung quanh trong trường hợp này, quyết định của Sĩ quan Raj chính là chết do tai nạn.

“Ngày 16 tháng Mười năm 2016. Cũng là một tai nạn.” Một người đàn ông đang trèo lên bờ sông thì gặp một con voi. Sĩ quan Raj nhớ lại: “Chỗ đó trơn trượt. Cả hai đều trượt xuống bờ sông. Con voi lăn qua người anh ta.” Đôi khi voi giết người y như cách của ô tô: một thứ to lớn lao tới hoặc cán qua thứ gì đó nhỏ hơn nhiều. (Những người chăm sóc voi cố gắng không chen vào giữa bức tường và con voi.) (Tại sở thú nơi tôi làm việc ở độ tuổi 20, mức lương cho người trông giữ voi cao hơn một chút so với những người chăm sóc các động vật khác – mặc dù không phải vì rủi ro. Cô ấy được trả một khoản “bồi thường phân” vì phải xúc phân quá nhiều. Như thế cũng đúng. Theo tài liệu Smithsonian Contributions to Zoology (Cống hiến Smithsonian cho ngành Động vật học) năm 1973, một con voi châu Á đi vệ sinh 18 đến 20 lần trong ngày, thải ra “4 đến 7 cục phân” nặng khoảng 1,8kg mỗi lần, với sản lượng hằng ngày hơn 180kg. - TG)

Sĩ quan Raj nói: “Những con voi này không có ý định giết người.” Làm sao anh biết được? Bởi vì xác còn nguyên vẹn. “Nếu voi thật sự tức giận, cái xác sẽ không còn nguyên mà sẽ bị xé nát thành nhiều mảnh.” Một cuốn sách của Jayantha Jayewardene liệt kê danh sách ghi lại chín cách thức mà một con voi giận dữ hoặc hung hãn giết người. “Đặt một chân trước lên một chi của nạn nhân và dùng vòi xé toạc chân kia” là cách số 3. (Voi sử dụng kỹ thuật neo và kéo tương tự khi tước cành lá một bụi cây bị bật gốc để ăn.) Người ta cho rằng tầng lớp cai trị ở Tích Lan (nay là Sri Lanka) vào những năm 1600 đã tận dụng hành vi tự nhiên này nhằm huấn luyện voi làm đao phủ. Bản in khắc từ cuốn Mối quan hệ lịch sử của Đảo Ceylon đã mô tả một con voi như vậy. Một chân trước đặt trên thân của nạn nhân, còn vòi quấn quanh chân trái đang giơ lên của người đàn ông. Nếu không có chú thích (“Cuộc hành quyết bởi một con voi”) và cánh tay nát tả tơi ở phía trước, bạn có thể lầm tưởng rằng các quốc vương Tích Lan đã huấn luyện voi phục vụ như hộ vệ.

Phần trình bày nâng cao nhận thức của Naha sẽ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tránh khiến cho một con voi khó chịu. Điều này được tóm tắt trong mục 20 trên áp phích “Những phương pháp tốt nhất để giảm thiểu xung đột giữa người và voi” mà Aritra vừa treo trên tường của nhà cộng đồng: “Không được hành động theo kiểu Rambo!”. Bắn voi không chỉ bất hợp pháp mà còn vô nghĩa, tùy thuộc vào cỡ nòng của vũ khí. Tại Palm Bay, Florida, voi Janet đã chịu được 55 phát đạn bắn ra từ khẩu súng lục ổ quay 9mm của các sĩ quan cảnh sát cũng như loạt súng đầu tiên do một sĩ quan SWAT đang ngoài giờ thi hành nhiệm vụ bắn với loại đạn thiết kế nhằm xuyên thủng cả xe bọc thép. (Loạt đạn thứ hai đã khuất phục con voi này.) (Vào ngày 1/2/1992 tại rạp xiếc Great American ở Palm Bay, Florida, một con voi tên Janet đã mất kiểm soát khi đang chở một người mẹ cùng hai đứa con của bà và ba đứa trẻ khác. - ND)

Khi nhìn thấy một con voi hoặc đàn voi trong khu vực, điều an toàn mà dân thường có thể làm là gọi đến đường dây nóng 24/7 để đội chuyên trách về voi của Sĩ quan Raj xử lý. Đội biết voi là động vật có tính xã hội nên chúng sẽ bình tĩnh hơn nếu bị dồn đi theo đàn. Các kiểm lâm viên dồn chúng vào từ các phía, giống như người chăn bò, di chuyển cả nhóm về hướng khu rừng nơi chúng sinh sống. Lúc này, động vật trong rừng đã nhận ra âm thanh của đoàn xe lùa voi. “Chúng tôi lái xe vào khu vực, và chúng rời đi.” Sĩ quan Raj khẽ mỉm cười. Anh không phải người hay cười. “Điểm này có lợi cho chúng tôi.”

Sĩ quan Raj khiến việc tuần tra voi nghe như kiểm soát an ninh ở trung tâm thương mại, nhưng rõ ràng có nhiều rủi ro. Một sĩ quan tuần tra ngồi cùng chúng tôi đã bị buộc tội bốn lần. “Họ nói bạn không được chạy,” anh nói. “Và phải nói thật với cô, rất khó làm thế khi con voi đang lao thẳng vào mình!” Đề nghị đi cùng của tôi bị từ chối, và lần thứ hai cũng vậy. Vẻ mặt của Sĩ quan Raj cho thấy tôi đã trở thành một “chuyện phiền toái”, nên tôi đành từ bỏ.

Nếu có, thương vong thường xảy ra trong nửa giờ hoặc hơn trước khi đội đến nơi. Khi phát hiện voi phá hoại mùa màng của mình, dân làng chạy ra khỏi nhà, la hét, ném đá, đốt đuốc và đốt pháo (Lửa thường làm voi hoảng sợ và bom đạn đã hạn chế tính hữu dụng của voi trong chiến tranh. Mặc dù nhìn từ xa, hình ảnh những “chiến tượng” mặc áo giáp với thanh kiếm buộc vào vòi mang lại lợi thế về mặt tâm lý, nhưng điều này nhanh chóng biến mất khi hai bên xích lại gần nhau hơn. Các tài liệu ghi chép rằng voi quay đầu và bỏ đội hình khi nghe tiếng súng hỏa mai hoặc thấy những mũi tên rực lửa. Một con voi bỏ chạy, vung kiếm xông vào đội quân của chính mình có thể gây ra nhiều thương vong tương tự điều chúng có thể gây ra cho kẻ thù. - TG). Một ngôi làng có thể có những “người chăn voi” tự do chuyên dùng chày và thực hiện các biện pháp dân gian không được khuyến khích khác. Voi đực và voi cái đầu đàn có thể lao vào phòng thủ, còn các con voi cái và voi con bình thường vốn điềm tĩnh thì có thể hoảng sợ và giẫm đạp. Trong bóng tối của cánh đồng, con người dễ vấp ngã và voi lại không thấy đường để chạy và, như mẹ tôi thường nói, sẽ có ai đó bị thương.

Sĩ quan Raj nói: “Dẫn voi là việc dễ dàng. Hướng dẫn mọi người mới là việc khó khăn. Họ không để tâm lắng nghe.” Họ khó chịu và điều đó cũng dễ hiểu. Nông dân trong làng làm việc quần quật và không dư dả nhiều. Một con voi châu Á có thể tiêu thụ đến 136 kg thực vật trong ngày. Trong lúc đột kích và giẫm đạp, một đàn voi nhỏ có thể nhanh chóng ngốn hết công sức lao động và sinh kế cả một vụ mùa.

Một con voi giữa cánh đồng là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy hành động thiếu khôn ngoan. Naha cho biết, đưa ra phán đoán lung tung và thiếu khả năng kiểm soát xung lực của cơn cuồng loạn có thể dẫn đến kết cục rất thảm khốc. Anh ngồi xổm trước cái loa, gỡ một đống dây điện. “Đây là những gì chúng tôi thấy. Một nhóm người say rượu. Có người muốn làm anh hùng nên đi tới trước mặt con vật, quấy rối nó và để tự vệ, con vật đó...” Naha cũng tránh động từ giết khi hạ giọng đầy ngụ ý. “Tai nạn đã xảy ra”. Theo dữ liệu của anh, 36% số người bị voi giết ở Bắc Bengal từ năm 2006 đến năm 2016 là lúc đang say rượu. Về sau, tôi thấy dòng tiêu đề này trên tờ Hindustan Times: “Người đàn ông say rượu thách thức đàn voi, bị giẫm chết ở Jharkhand” (Jharkhand giáp Tây Bengal). “Anh ta đã cố gắng chiến đấu với chúng”, một nhân viên kiểm lâm nói với phóng viên. “Chúng” ở đây là mười tám con voi.

Nguy thay, voi cũng thích chè chén. Ở Bắc Bengal, voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. (Vì voi thiếu enzyme chính để phân hủy ethanol nên cần lượng ít hơn bạn nghĩ). Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng – thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn.

Có dữ liệu củng cố cho các nhận xét của Sĩ quan Raj. Năm 1984, trong một nghiên cứu tại Khoa Tâm thần và Khoa học Hành vi Sinh học UCLA, ba con voi châu Á “không có tiền sử sử dụng rượu” và bảy con voi châu Phi từ Lion Country Safari đã được phục vụ một “thùng phuy lớn” nước có cồn. Các con vật này sau đó có xu hướng đi lang thang, rời xa đàn. Chúng đứng hoặc nghiêng mình, nhắm mắt lại hoặc “quấn vòi quanh mình”. Chúng bỏ bữa. Chúng không buồn tắm. Voi cái đầu đàn trở nên to tiếng và hung dữ hơn, cũng như con voi đực tên Congo.

Để ngăn voi uống rượu và say xỉn, có thể dân làng sẽ kéo rượu mạnh vào trong nhà. Một ý tưởng khủng khiếp. Vì giờ người ta không phải lo lắng về những con voi say xỉn mà là những con voi quyết tâm say xỉn – tức là những con voi ngửi thấy mùi rượu trong nhà và thấy chẳng có lý do gì lại không đập bỏ một bức tường để vào uống. Trong khảo sát của Naha, trong các vụ thương vong do voi gây ra, 8% người dân Bắc Bengal bị giết khi đang ngủ.

Ghế ngồi đã được lấp đầy gần hết và Naha cầm micro lên để bắt đầu bài nói của mình. Tất nhiên, anh nói bằng tiếng Hindi nên Aritra sẽ phiên dịch, thỉnh thoảng cúi sang và khum tay vào tai tôi để nói một câu đơn với nhịp điệu dứt khoát, bí hiểm. “Đã say thì không nên đi trước voi”. “Luôn luôn phải đi phía sau voi.”

Naha là một diễn giả biểu cảm với vốn từ vựng trôi chảy về cử chỉ tay. Tôi không ngờ tới điều này. Ngoài sân khấu, anh là người tiết kiệm cả chuyển động lẫn lời nói. Anh đứng với đôi vai vuông vức và bàn chân hướng ra ngoài như để tạo một chỗ dựa vững chắc. Anh giống người đàn ông tôi vẫn thường thấy trên các biển quảng cáo Xi măng Ambuja, dáng đứng vững vàng và bình thản với cả đập thủy điện ầm ầm trong tay. Tôi đã nghe anh nói “Tôi từng bị một con hổ đuổi theo” với giọng điệu như thường ngày bạn hay tôi vẫn nói “Tôi từng ở Omaha”.

Triết lý đằng sau trại nâng cao nhận thức rất đơn giản. Nếu muốn tiếp cận ai đó, hãy nói chuyện với họ khi họ đang thoải mái và tỉnh táo. Cho họ ngồi xuống và để Aritra phục vụ họ một tách trà và samosa. Mọi người càng hiểu rõ về đặc điểm sinh học của voi và hành vi của đàn voi thì các cuộc chạm trán càng an toàn. Mấu chốt là phải giữ bình tĩnh và cho con vật không gian. Đặc biệt là voi mẹ đi cùng con, đặc biệt hơn nữa là voi đực đơn độc, và đặc biệt hơn hơn nữa là voi đực đang kỳ musth. (Một số đặc điểm nổi bật của kỳ musth, nhờ được Jayantha Jayewardene hỗ trợ thông tin: các tuyến trên thái dương tiết rỉ nhiều, cương cứng thường xuyên và “đôi mắt yêu tinh mở to hoàn toàn với nhãn cầu di chuyển”.)

Có một điểm khác cần phải nhấn mạnh với mọi người. Sĩ quan Raj đã đề cập đến trước đó, khi chúng tôi trò chuyện: “Con người chúng ta, đang làm phiền chúng.”

Bối rối thay, điều này bao gồm cả công việc chuyên môn của các chuyên gia như Sĩ quan Raj. Chăn dẫn voi về khu rừng gần nhất mang lại lợi ích tức khắc cho dân làng nhưng về lâu dài, Naha nói với tôi, việc này khiến vấn đề trầm trọng hơn. Vì điều này chọc tức voi. Chúng bắt đầu gán con người với nỗi lo lắng và thiếu thốn khi bị đuổi đi đương lúc kiếm ăn. Chúng bắt đầu kiên quyết hơn để bảo vệ mình. Báo cáo từ các khu vực có xung đột ở bang Assam lân cận cho biết voi cái đang bắt đầu trở nên hung dữ y như voi đực.

Naha tin rằng một hệ thống tốt hơn sẽ kết hợp các cảm biến để phát hiện đàn voi đang tiếp cận. Cảnh báo được gửi tới các trưởng làng và các đội phản ứng địa phương đã qua đào tạo, họ sẽ theo dõi tình hình và cố gắng can thiệp trước khi ruộng nương bị giẫm đạp và sự hỗn loạn nổ ra. Naha không có ý nhắc đến cảm biến chuyển động hay cảm biến nhiệt, cả hai đều kích hoạt với các động vật hữu nhũ khác. Ý anh là cảm biến địa chấn: loại được kích hoạt bởi các rung động mạnh đến mức chỉ có tiếng bước chân của một con voi (hoặc động đất nhỏ) mới làm được. Trong khi đó, điều bạn có thể làm để giảm bớt gánh nặng cho nhân loại: tiếp tục nỗ lực khôi phục rừng và để yên cho các khu bảo tồn.

--

Phó quản lý của đồn điền trà Gopalpur mặc quần short dài gọn gàng và đi giày thể thao phồng màu neon. Đầu nghiêng ra sau khiến anh trông có vẻ xa cách, hoặc chỉ vì anh cần một cặp kính mới. Anh ra chào khi chúng tôi lái xe vào. Trại nâng cao nhận thức dành cho công nhân, điểm dừng chân thứ hai của chúng tôi trong tuần này, dự kiến sẽ bắt đầu sau nửa giờ nữa. Nhưng trước tiên phải làm một tách trà đã.

Phó quản lý là dạng người của những con số. Anh nói, khu đất này rộng 1.200 mẫu Anh và đặt các tách trà trước mặt chúng tôi. Hai nghìn một trăm công nhân thu hoạch lá trà. Chúng tôi vừa lắng nghe vừa nhấm nháp, rồi anh dẫn chúng tôi ra khỏi cửa và băng qua đường, đến một cái rạp mở nơi Naha sẽ diễn thuyết.

Công nhân đã đến rồi. Họ xem qua tờ rơi để trên mỗi cái ghế, đặt trong loại túi nhựa trong có thể đóng lại được (tên thương hiệu: My Clear Bag). Phụ nữ ngồi một bên, tách biệt với nam giới. Naha loay hoay với hệ thống âm thanh, cửu vật từ thời xưa trước khi có phim phát trực tuyến, khi điền trang này mời đến các ban nhạc sống phục vụ hoạt động giải trí cuối tuần.

Trời nóng và ẩm ướt. Các quản lý đồn điền đến muộn. Công nhân dùng cái túi trong suốt của mình để quạt. Thời gian trôi qua. Có người từ nhà phó quản lý mang khay tới. Thêm trà! Phần của chúng tôi được phục vụ trong cốc sứ có kèm đĩa. Các công nhân thì nhấp từng ngụm từ cốc giấy – loại cốc nhỏ không lớn hơn ly uống rượu. Tôi chỉ muốn nói, Gì vậy trời, các vị có đến 1.200 mẫu đất cơ mà.

Các quản lý đã đến! Những chiếc SUV như xe biệt đội, lao nhanh và phanh gấp. Cửa xe mở ra và đóng sầm lại, và các quản lý, tổng cộng năm người, bước vào hiện trường. Các công nhân đồng loạt đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Thay vì ngồi cùng Aritra và tôi trên ghế khán giả, các quản lý lại bước lên một dãy bàn đặt trên sân khấu. Họ mở những chai nước được đặt ở chỗ ngồi của mình cùng sổ ghi chú và bút. Trên sân khấu đa dạng đến ngạc nhiên các bộ ria mép.

Các quản lý lần lượt cầm micro. Aritra hét lên phần dịch của mình át hẳn tiếng loa âm lượng cỡ sảnh khiêu vũ. Người quản lý đầu tiên nhấn mạnh các công nhân phải chú ý, vì ta ở gần sông và rừng nên sẽ gặp vấn đề với voi. Anh đưa mic cho quản lý bên cạnh, người này vạch ra chiến lược ngăn chặn voi hiện tại của đồn điền: một đội tuần tra bằng máy kéo, đốt pháo khi cần thiết. Micro tiếp tục chuyến hành trình của mình. Quản lý tiếp theo lại là anh chàng của các con số. Trong 12 năm anh ta làm việc ở đây, có bảy hay tám người đã bị voi giết chết.

Cuối cùng micro được trao cho Naha. Trên thực tế, các công nhân rất chú ý lắng nghe, chăm chú đến mức tôi tự hỏi liệu họ có bị phạt nếu nhìn đi chỗ khác hay không. Còn các quản lý lại thì thầm với nhau và lén nhìn điện thoại đặt trong lòng. Một người nhận cuộc gọi, đưa tay che ngang điện thoại như thể, giống như ợ hơi, hành vi đó sẽ đỡ thô lỗ hơn.

Khi phần trình bày kết thúc, Naha mời các công nhân tham gia đặt câu hỏi và nhận xét. Một người hái trà ngay lập tức đứng dậy khỏi ghế. Cô ấy lớn tuổi hơn nhiều người, có lẽ đã 50 và ăn mặc giống mọi phụ nữ ở đây, bộ sari có hoa văn sặc sỡ như khi làm việc trên đồng. Aritra nhảy lên định đưa mic cho cô nhưng cô không cần. Sự tức giận của cô đủ biến thành một bộ khuếch đại. Bộ sậu ria mép ngồi không yên trên ghế.

Aritra tiếp tục dịch. “Các vị bảo chúng tôi thay đổi cây trồng,” người phụ nữ nói, ám chỉ những khu vườn nhỏ của công nhân. “Từ ngô, gạo thành gừng, ớt, những thứ voi không thích. Nhưng chúng tôi trồng ngô và lúa để nuôi sống chính mình. Ngoài ra, khi máy kéo đi rồi, voi sẽ quay lại, lần nữa, lần nữa. Voi cần rất nhiều thức ăn.” Người phụ nữ lại ngồi xuống. “Ta cần các biện pháp khác.”

Cô ấy nói đúng, nhưng giải pháp tốt thường khó thi hành. Trên thực tế, các biện pháp mà trực giác thấy hiển nhiên lại bị hạn chế do chi phí và các vấn đề có thể phát sinh. Hàng rào điện là một ví dụ. Cần đủ lượng để xua đuổi các đàn voi, nhưng không được quá nhiều đến mức cản trở quá trình di cư của chúng. Việc duy trì và sửa chữa các dải hàng rào dài rất tốn thời gian, tốn tiền và thường không hoàn thiện. Hoặc thực hiện sai. Điện áp phải đủ cao để khiến voi nản lòng nhưng không cao đến mức khiến nó bị điện giật. Trung bình mỗi năm có 50 con voi bị điện giật chết ở Ấn Độ.

Và một thách thức đáng kể là trí thông minh của loài voi. Một con voi Ấn Độ khi đối mặt với hàng rào điện có thể sẽ sớm tìm ra cách vượt qua mà không bị điện giật. Nó sẽ nhận ra rằng gỗ không dẫn điện. Nó sẽ đẩy cột xuống hoặc sẽ nhặt một khúc gỗ và dùng nó để đè dây xuống cho con khác bước qua.

Không phải lúc nào trí thông minh cũng có lợi cho voi. Trong lịch sử, voi đã luôn bị bắt làm việc cho quân đội Ấn và gần đây là ngành công nghiệp khai thác gỗ. Chúng được đối đãi như các nhân viên, theo đó Sở lâm nghiệp ghi lại số giờ làm việc của chúng vào sổ đăng ký công việc. Những “công nhân voi” này tất nhiên không được trả lương, nhưng Naha nói với tôi, ở tuổi 50, chúng được hưởng “lương hưu” dưới hình thức chỗ nghỉ hưu tại một pikhana (chuồng voi) với ba bữa ăn và tắm rửa mỗi ngày, kèm theo xoa bóp bằng dầu.

Khi mọi người đứng dậy khỏi ghế để rời đi, tôi nhờ Aritra giới thiệu mình với người phụ nữ đã dám lên tiếng lúc nãy. Tên cô ấy là Padma. Cô phiền muộn là có lý do. Một tuần trước, cô thức dậy lúc 4h30 sáng và thấy một con voi đã dỡ tường và ăn hết số ngũ cốc cô bán trong một quán rượu nhỏ ở khu công nhân. Cô vẫn chưa nhận được tiền bồi thường từ điền trang.

Một nhóm nhỏ các quản lý lượn lờ trong tầm nghe. Một người đứng ra đánh lạc hướng cuộc trò chuyện. “Xin chào, cô đến từ Mỹ, con trai tôi làm việc ở Memphis, khách sạn hạng nhất, cô có biết khách sạn Memphis không?” Quả thực tôi biết khách sạn này, những con vịt đi xuống cầu thang ở sảnh mà không vì lý do rõ ràng nào liên quan đến vịt hay khách sạn. Tôi tập trung vào Padma. (Truyền thống về những chú vịt ở đài phun nước The Peabody: Những năm 1930, Frank Schutt, Tổng giám đốc của The Peabody và một người bạn, Chip Barwick, trở về sau chuyến đi săn cuối tuần đến Arkansas. Họ đã uống quá nhiều rượu whisky và nghĩ rằng sẽ rất buồn cười nếu đặt một số mồi nhử vịt sống của họ (lúc đó những người thợ săn sử dụng mồi nhử sống là hợp pháp) trong đài phun nước Peabody xinh đẹp. Ba chú vịt nhỏ được chọn làm “chuột lang” và phản ứng không kém phần nhiệt tình. Từ đó bắt đầu một truyền thống đã trở nên nổi tiếng trên thế giới. Năm 1940, Bellman Pembroke, cựu huấn luyện viên động vật ở rạp xiếc, đã đề nghị giúp đưa những con vịt đến đài phun nước mỗi ngày và dạy chúng trò diễu hành Vịt Peabody nổi tiếng hiện nay. Ông Pembroke trở thành Peabody Duckmaster, phục vụ với cương vị đó trong 50 năm cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1991. Gần 90 năm sau cuộc tuần hành khai mạc, đàn vịt vẫn ghé thăm đài phun nước ở sảnh từ 11 giờ sáng đến 5 giờ chiều mỗi ngày. - ND)

Aritra tiếp tục dịch. “Đây là lần thứ hai chuyện này xảy ra với cô ấy.”

Người quản lý vẫn tiếp tục: “Năm giờ vịt đi xuống...”

Naha tham gia cùng chúng tôi. Anh đề xuất chúng tôi lái xe đến khu công nhân để xem đống đổ nát ở cửa hàng của Padma. Các quản lý trao nhau những cái nhìn cấp thiết, nhưng đã quá muộn. Chúng tôi chen vào xe với Padma và quay đi.

Tiệm tạp hóa nhỏ bé không hẳn bị cướp phá mà bị san bằng. Một bức tường tôn nằm ọp ẹp bên dưới dầm đỡ bằng bê tông. Lần trước, một con voi đột nhập vào nhà Padma khi cô đang ngủ. Đây là ví dụ khi “con voi trong phòng” không phải là phép ẩn dụ; khi chuyện đùa về voi không phải là chuyện đùa. Voi “đậu” trên hàng rào nhà bạn lúc mấy giờ? Có lẽ là khoảng 11 giờ đêm.

Voi là loài ăn thực vật nhưng chúng không hề kén ăn. Chúng sẽ ăn hầu hết các bộ phận của cây – hạt, cỏ và lá, thân, cành, vỏ cây. Năm 2017, tại một đồn điền trà ở Sonitpur thuộc quận Assam, ba con voi hoang dã đột nhập vào cửa hàng của công nhân vào lúc 2 giờ sáng và lấy sản phẩm làm từ sợi bông có tên là rupee. Chúng đập hộp đựng tiền và ăn sạch 26.000 rupee mệnh giá lớn.

Một thứ mà voi Ấn Độ không ăn là lá trà. Ai ở đây cũng thích uống trà nhưng rất ít ai, dù là người hay thú, thích ăn trà. Lá trà quá đắng. Các thiệt hại nhỏ về mùa màng xảy ra khi voi giẫm nát cây cối lúc đi qua khu đất, nhưng nhìn chung, người chịu thiệt là công nhân chứ không phải chủ sở hữu và quản lý.

Tuy nhiên, Padma và các đồng nghiệp nói rằng họ không tức giận những con voi. Bảy mươi lăm phần trăm số người được Naha phỏng vấn về việc voi đến làng mình đều có cảm xúc tích cực với chúng. Với số lượng thương vong và phá hoại do voi gây ra ở Bắc Bengal, số lượng các vụ giết voi trả thù lại hiếm tới mức ngạc nhiên. Naha cho biết chỉ có 3-5 con voi bị vậy mỗi năm.

Với sự giúp đỡ của Aritra, tôi kể cho Padma nghe điều xảy ra với thú có vú lớn ở Hoa Kỳ khi chúng gây thương tích cho con người hoặc dám đột nhập vào nhà. Tôi hỏi cô ấy liệu những người cô biết có bao giờ bày tỏ mong muốn giết một con voi đột nhập vào nhà hoặc cửa hàng của mình không. “Sao bạn lại giết một vị thần?” cô ấy nói, ám chỉ vị thần Hindu đầu voi Ganesh. “Chúng tôi chỉ nói, ‘Namaste và làm ơn đi đi.’”

Padma dẫn chúng tôi ra cánh đồng trà hiện đang mùa thu hoạch. Công nhân hái trà trải dọc theo các hàng, làm việc trên những bụi cây cao ngang lưng. Chỉ lá non xanh tươi mới được hái. Các công nhân làm tôi nhớ đến những người đánh trống, đứng yên với cánh tay di chuyển nhanh như điện. Họ buộc phải nhanh như vậy. Nếu không đáp ứng được hạn ngạch đã đặt ra, họ sẽ bị trừ lương.

Naha cúi xuống chỉ cho tôi khoảng trống bên dưới bụi trà. Người hái trà đôi khi gây bất ngờ cho một con báo cái đang nằm trong bóng râm cùng đàn con. Có thể con vật hoảng sợ thức dậy và nếu cảm thấy bị dồn vào chân tường hoặc bị đe dọa, nó sẽ lao vào người công nhân. Hiếm có ai tử vong, nhưng vẫn có thương tích. Chín mươi phần trăm các cuộc tấn công của báo hoa mai ở Bắc Bengal xảy ra trong các đồn điền trà.

Chúng tôi quan sát cánh phụ nữ làm việc. Khi hái đầy tay, họ thò tay ra sau đầu để nhét lá vào bao vải đeo trên trán. Bây giờ tôi đã hiểu tại sao Padma trước đó lại rất quan tâm đến chiếc ba lô của tôi. Bạn sẽ thấy rằng các quản lý có thể tìm mua những chiếc túi chuyên dụng phù hợp hơn cho nhiệm vụ của họ. Tôi nói điều này với Naha.

Anh xắn tay áo lên. “Họ được trả 150 rupee một ngày.” Số tiền này thấp hơn giá một ly cà phê cappuccino tại sân bay Delhi. “Đây là tâm lý thuộc địa. Họ chính là những người lao động thuộc bộ lạc mà người Anh đã mang đến từ miền trung Ấn Độ. Người ta thuê họ vì cho rằng họ chăm chỉ và ngoan ngoãn.”

Khi Naha kể cho tôi nghe về sổ đăng ký công việc dành cho động vật, về những chú voi đã nghỉ hưu và chế độ tắm cho chúng, ban đầu tôi rất ấn tượng. Chính phủ ở đây đảm bảo cho động vật làm việc hưởng một số lợi ích tương tự như người lao động bình thường. Bây giờ, nhìn cách người ta đối xử với người hái trà, lối đối xử hợp pháp, thì đánh giá của tôi không còn lạc quan nữa. Tùy thuộc vào giống loài, tôn giáo, giới tính và đẳng cấp của mình, có thể Ấn Độ là nơi làm động vật tốt hơn làm người. Vào năm 2019, chính quyền Delhi công bố kế hoạch cải tạo một trong năm khu bảo tồn mà họ duy trì dành cho những con bò linh thiêng vốn được thả rông, cản trở giao thông của thành phố. Có lẽ để đáp lại chỉ trích rằng thành phố chăm sóc bò tốt hơn người dân, Sở trưởng Sở Chăn nuôi của thành phố đã thông báo: “Chúng tôi đang lên kế hoạch cho một chương trình chung sống độc đáo, nơi người già sẽ được phép ở cùng đàn bò”.

Gần đây mọi chuyện đã trở nên cực đoan hơn. Thủ tướng hiện tại, Narendra Modi lên nắm quyền nhờ sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Hindu. Đây là người đã ban tặng địa vị nhân cách (tư cách pháp nhân) cho sông Hằng. Một dòng sông được bảo vệ nhân quyền, trong khi phụ nữ như Padma kiếm được 150 rupee mỗi ngày và người Hồi giáo bị hành hình vì bán thịt bò.

Khi chúng tôi lên xe để đi, phó quản đốc chạy tới hai tay ôm đầy những chiếc túi Mylar: nửa cân trà cho mỗi người chúng tôi. Aritra cảm ơn anh rồi quay sang Naha khi xe đang chạy. “Đó là CTC.” (Từ viết tắt chỉ một phương pháp xử lý trà.) Với tôi, anh giải thích, “Loại rẻ nhất.”

--

Động vật hoang dã là chủ đề của Khu du lịch Jaldapara thuộc sở hữu của chính phủ, nơi tôi sẽ ở lại tối nay. Khuôn viên gồm mô hình thạch cao kích thước thật các loài động vật hoang dã địa phương. Nhiều tượng đã đổ hoặc có bộ phận bị gãy nằm ngay chỗ đã rơi xuống, trên bãi cỏ được cắt tỉa cẩn thận đến phi lý. Toàn bộ khoảng sân mang đến cảm giác một sân gôn thu nhỏ sau khi có một băng say rượu đến chơi gôn, đánh bại những con vật kỳ quái bằng bóng hoặc gậy đánh gôn.

Tôi yêu nơi này, yêu sự suy tàn siêu thực của nó, yêu người nhân viên không biết bữa sáng được phục vụ ở đâu hay ngay cả chuyện có bữa sáng hay không, thực sự yêu mọi thứ, ngoại trừ phân chuột trên ban công phòng mình. Tôi cố gắng tưởng tượng điều gì có thể thu hút chuột, nơi ban công không có thức ăn và bất cứ gì để làm tổ và thậm chí không có cả tầm nhìn rộng. Dường như lũ chuột chỉ đến để thải ra. Nhà vệ sinh chuột Jaldapara.

Đã có kế hoạch tu sửa khu nghỉ dưỡng này vì Bộ trưởng Lâm nghiệp Tây Bengal đang làm việc với Tổng công ty Phát triển Du lịch Tây Bengal nhằm thiết lập một khu bảo tồn tê giác ở khu rừng lân cận. Đây chính là khu rừng mà Naha, Aritra và tôi sắp tới. Chúng tôi sẽ theo dõi một “con báo thử nghiệm xung đột” đeo vòng cổ sóng vô tuyến – con báo số 26279 – đã được chuyển đến đây một năm rưỡi trước, khi người ta quyết định vùng đất này trở thành khu bảo tồn động vật hoang dã. Khi đó con vật vẫn chưa trưởng thành và Naha muốn kiểm tra để chắc chắn rằng nó không lớn quá cỡ vòng cổ vô tuyến.

Trong lúc ở đây, Naha sẽ diễn thuyết trước những thôn dân sống ở bìa rừng. Vòng cổ vô tuyến chỉ ra các điểm trên bản đồ, nhưng không trả lời các câu hỏi đặt ra khi thả kẻ săn mồi vào sân sau nhà con người. Có phải con báo đã bắt dê của bạn không? Mọi người có thấy ổn với việc nó ở đây không? Naha đã theo dõi, như một nhân viên xã hội đang sắp xếp việc nhận nuôi. Anh đã luôn theo dõi con báo từ xa và gọi điện cảnh báo nếu nhận thấy nó đang di chuyển về phía nhà họ.

Sáng nay chúng tôi có tài xế mới, Ashok. Anh hiếm khi tham gia vào cuộc trò chuyện, chỉ hoàn toàn tập trung lái xe. Một khác biệt so với người tiền nhiệm – anh này để tránh ngủ gật đã đính điện thoại thông minh của mình vào bên trong kính chắn gió và phát một bộ phim hài. (Naha không hề hoảng sợ. “Một mắt nhìn điện thoại, một mắt nhìn đường.”)

Chúng tôi rẽ khỏi đường nhựa để vào một đường đất xuyên qua những bụi cây ngày càng dày đặc. Cành cây cào xước hai bên hông xe. Ashok ngày càng im lặng. Anh có vẻ căng thẳng. Tôi đã nói gì sai sao? Anh đang lo lớp sơn xe sẽ bị trầy sao?

Vừa qua một dãy nhà, chúng tôi tấp vào lề đường bên cạnh một người đàn ông đang phun thuốc trừ sâu từ chiếc can đeo trên lưng cho luống súp lơ của mình. Naha xuống xe và ông tắt vòi phun. Một mắt bị đục. Ba người đàn ông khác đi loanh quanh đó. Aritra lắng nghe. Không có gì để báo cáo. Đã một thời gian họ không nhìn thấy con báo nữa.

Chúng tôi lái xe tiếp. Chúng tôi đi ngang qua một tháp canh các đội chống săn trộm thường sử dụng. Naha yêu cầu Ashok dừng lại để anh có thể leo lên và bắt được tín hiệu tốt hơn. Aritra bảo tôi ở lại trong xe với anh.

Naha bước xuống cầu thang của tòa tháp và quay lại xe. Anh bảo rằng chúng tôi hiện chỉ cách con báo 300m.

Chúng tôi cho xe đi tiếp. Đường cụt dẫn đến một con sông rộng. Naha lại bước ra ngoài. Anh đi dọc bờ sông đầy cát, tay cầm ăng-ten phía trên như ngọn đuốc. Phía bên kia, một nhóm đàn ông đang ngâm mình trong nước sâu đến thắt lưng để dọn sạch đám lục bình mọc um tùm.

Naha thò vào cửa sổ ô tô để cho biết rằng chúng tôi hiện đang cách con báo 150m. Tút-tút-tút-tút, có tín hiệu. Chúng tôi không thể đến gần hơn vì “con mèo” to xác đang ở bên kia sông. Anh chỉ tay. “Ngay sát phía trên những người đó.”

Gần đó không có cây cầu nào nên chúng tôi quay lại. Trên vài dặm cuối của chuyến đi, Ashok phá vỡ sự im lặng của mình. Anh và Naha nói chuyện bằng tiếng Hindi. Sau khi Ashok thả chúng tôi xuống, tôi hỏi Naha họ đã nói gì.

“Cha anh ấy đã bị báo hoa mai giết chết.”

Cha anh đi nhặt củi. Không thấy cha về, Ashok, lúc đó mới 12 tuổi đã cùng vài người bạn đi tìm. Họ tìm thấy ông, vẫn còn sống, dưới lòng sông. Giống nơi những người đàn ông khi nãy làm việc, cách con báo vài chục mét. “Họ đưa ông đến bệnh viện,” Naha nói, “nhưng ông không qua khỏi. Ông bị thương quá nhiều. Mắt, và mọi chỗ. Hẳn ông đã bị tấn công tới tấp”.

Ashok sẽ không làm tài xế chặng tiếp theo và như vậy là tốt nhất. Chúng tôi đang hướng về Pauri Garhwal, điểm nóng có nhiều vụ tấn công của báo hoa mai. Không phải kiểu chạm trán diễn ra trên đồn điền trà khi công nhân bất thình lình nhìn thấy con báo ngủ dưới gốc cây. Đó là những vụ rình rập, giết người được thực hiện có chủ ý.

Đọc bài viết

Trích đăng

Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC

Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.

Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.

Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.

Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.

Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.

Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.

Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.

Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.

Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.

Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.

Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.

Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.

Đọc bài viết

Trích đăng

Lancaster và York: Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

GIỚI THIỆU

Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.

Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.

Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.

Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.

Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.

Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.

Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.

Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?

Alison Weir

Surrey

tháng Hai 1995

Đọc bài viết

Cafe sáng