Phía sau trang sách

Chiếc xe đạp mất cắp: Quá khứ quên lãng dưới điêu tàn của sắt

Một số chuyện từng xảy ra sẽ lưu lại ở đâu đó trong món đồ, giống như hạt giống vậy.

Published

on

Trung Quốc, với phần lãnh thổ to lớn, vốn từ lâu trở thành đất nước của những nghĩa địa: “nghĩa địa xe đạp”, “nghĩa địa xe máy” hay “nghĩa địa ô tô”. Sau các chính sách cấm cửa đi liền với động thái siết chặt quản lý, bong bóng của nền kinh tế chia sẻ sụp đổ một cách không thể lường trước. Và nếu vào ngày nào đó, người thân của ta mất tích cùng chiếc xe đạp thì biết tìm đâu dấu tích của một trong hơn 23.000 chiếc xe ở bãi nghĩa địa của riêng một thành phố?

Dời ngược thời gian trở lại cơn bĩ cực sau thời Hậu đệ nhị Thế chiến, Wu Ming-Yi (Ngô Minh Ích) bằng một chuỗi dài khoan sâu đã viết nên câu chuyện độc đáo, lồng lộng và tràn đầy xúc cảm về thời đoạn kéo dài hơn một thế kỷ với chiếc xe đạp – chiếc xe đạp bị mất cắp trong cuộc đời của một ai đó.

Cuốn sách xoay quanh câu chuyện của nhân vật “tôi” trên hành trình đi tìm lại bóng dáng người cha chỉ qua đầu mối duy nhất là chiếc xe đạp ông mang theo vào ngày ông biến mất mãi mãi. Càng đáng nói hơn, đây không hẳn là lần đầu tiên chiếc xe đạp bị mất cắp. Qua một lịch sử trải dài đằng đẵng từ thời Đệ nhị Thế chiến đến khi Internet phổ cập và mọi ứng dụng trên nền tảng xã hội phát triển, những câu chuyện đời, chuyện người được khắc họa tựu trung vào điểm gốc là chiếc xe đạp. Ở đó ta có thể bắt gặp đời sống Đài Loan cả những năm trước, trong và sau cuộc chiến, những hậu chấn tâm lý ảnh hưởng đến cả một thế hệ đi vào chiến tranh. Từ đó, lịch sử gian khó mà đầy biến động của Đài Loan hiện lên, khắc rõ; để con người và mọi sinh vật khác đều trở nên nhỏ bé trước số mệnh.

Chiếc xe đạp sống đời lận đận như một con người

Điểm gốc của mọi phối cảnh đều tựu trung về chiếc xe đạp. Việc mượn vật thể rồi từ đó khắc họa nên diễn tiến câu chuyện không hẳn là hiếm trong văn chương châu Á. Nếu ta từng bắt gặp Mạc Ngôn trong Phong nhũ phì đồn (Báu vật của đời) với hình tượng mông – vú, thì ở đây, Ngô Minh Ích dùng chiếc xe đạp có dây cu-roa để nối những vòng lịch sử như bánh đằng trước, và vòng đời ở bánh phía sau; bằng sức mạnh vận mệnh để đạp cho xe chuyển động. Cả hai câu chuyện song hành cùng nhau (bi, tiếng Latin), nối nhau như những vòng tròn (kyklos, tiếng Hy Lạp) gắn kết vào nhau, làm nên sự vận động theo hình tròn luân hồi của thời gian và những kiếp người.

Nếu câu chuyện không mở đầu bằng cảnh bé gái chạy vụt lên chiếc xe đạp về nhà khi cánh đồng vừa bị san phẳng, nếu chiếc xe đạp Khổng Minh của nhân vật chính không mất đến tận bốn lần, thì câu chuyện của tiểu thuyết này đã trở nên rất khác. Vì bối rối mượn chiếc xe đạp của một người Nhật mà bọn cảnh sát trói đầu gông cổ không nghe giải thích; vì đem cho đứa con gái khi lỡ đẻ quá nhiều để chờ một mụn con trai, vì chở cu cậu rong ruổi khám bệnh hay hồi hộp vui mừng khi đi xem điểm – mà chiếc xe đạp sống đời lận đận như một con người.

Chiếc xe đứng đó, chứng nhân cho rất nhiều điều, cho phong tục cổ hủ, cho bối cảnh chiến tranh, cho tình cảm trìu mến. Chiếc xe chứng kiến tình cảm cha con vốn thường khó nói, về một cậu bé khi nhỏ rất hay bệnh vặt, về một người cha sung sướng xem điểm cho đứa con trai, về cô gái nhỏ ngồi sau A Vân những chiều tan làm ở xưởng cánh bướm… Xe đạp ở đó lướt đi trong từng tầng gió khác nhau, có tầng tha thiết yêu đương là thế, nhưng cũng có tầng vô cùng muốn quên.

Hơn thế, đó là chiến tranh với chiếc xe đạp là phương tiện mới. Là đơn vị hành quân Bánh xe bạc không lốp lần đầu xuất hiện trong cuộc hành quân xẻ rừng xuyên Myanmar, là quân đoàn Hoa cúc những tối trăng treo, là Basuya chôn chiếc xe đạp ở ngôi làng nọ mà sau này lão Trâu lại một lần nữa khai quật nó lên. Chiếc xe ở đó và là chứng nhân cho những thời đoạn vô cùng biến động. Những chiếc xe đạp không lốp còn như một dấu gạch nối để con người ta tìm về quá khứ, về thời đã qua, thúc đẩy khai quật những gì từng là, dẫn đến công cuộc đi tìm người cha của nhân vật tôi hay quá trình về lại con đường hành quân đi xuyên Miến Điện bằng chiếc xe đạp của Abbas nơi cha cậu một thời chiến đấu.

Dễ thấy xe đạp đóng vai trò quan trọng trong dòng chảy thời gian. Nó ở đó gạn lọc đầy đủ những thứ trôi qua mắt lưới, gìn giữ những thứ còn lại dù cho nhỏ nhất. Xe đạp chứa trong nó không chỉ lịch sử, mà còn con người, phong tục, tập quán, quê hương, nguồn cội và ti tỉ hàng hà thứ khác. Nó như di chỉ, nó như xác ướp; để từ đó niên đại được hoàn về đúng thực tế. Rằng nếu bạn nghe ai đấy gọi xe tự quay, thì người ấy nhất định chịu nền giáo dục của Nhật, nếu gọi ngựa sắt hoặc xe Khổng Minh thì tiếng mẹ đẻ của anh ta là tiếng Đài, nếu gọi xe đơn hay xe tự hành thì rất có khả năng người này đến từ miền Nam Trung Quốc hay xem xét tỉ mỉ tình trạng hoen gỉ của từng chiếc xe, sẽ có thể phát hiện ra điều kiện khí hậu của một số vùng, thói quen của chủ xe hay cảnh ngộ của chiếc xe.

Chiếc xe đạp của thời hậu chiến tranh

Thông qua chính hình tượng ấy, Ngô Minh Ích tiếp tục triển khai để cho ta thấy còn gì ẩn sâu dưới những điêu tàn của vật liệu sắt. Ở đó, con người sau thời hậu chiến trở nên cuồng loạn và mất kiểm soát. Nếu trong Bên dòng sông Hằng, Endo Shusaku viết lại chính cái dằn vặt của nhân vật Kiguchi khi lỡ một lần ăn thịt đồng loại lúc quân Đồng Minh nắm thế thượng phong ở rừng Mã Lai; thì trong Chiếc xe đạp mất cắp, đó là Basuya tự đâm vào tai vì tiếng vo ve cứ tồn tại mãi dẫn đến bi kịch tự tử bằng khí gas, là đội trưởng Mục cứ bị ám ảnh mãi leo lên cây rồi đến khi té chết. Và liệu đó có phải là nguyên nhân người cha bỏ đi, khi ông cũng góp phần sang Nhật lắp máy bay phục vụ chiến tranh? Khó mà có thể giải thích được gì. Nhưng trên hết, bằng hình tượng chiếc xe đạp, bằng khoảng dài lịch sử, Ngô Minh Ích phần nào cho thấy con người nhỏ bé và yếu ớt đến mức độ nào trước cuồng nộ, hoang dại và giết chóc lẫn nhau.

Vấn đề sinh thái mới mẻ, thú vị và chiếm một dấu ấn quan trọng trong toàn tiểu thuyết làm nên cái cuốn hút cho người đọc. Mượn sở thú Maruyama những ngày cận chiến, những con voi vốn từng tham gia cuộc chiến nay trở về đây với môi trường nuôi nhốt, những con khỉ vốn quen tự do từ lâu, nay đứng lặng mình trước tấm màn sắt. Những con voi to lớn ấy vốn tổn thương từ lâu, chịu những ám ảnh từ bom đạn, pháo súng; bị con người thúc ép không có đường lui, hoang mang đứng trên chiếc thuyền, đi trên cỏ, trên đường nhựa hay hàng vạn dặm đường để còn mãi ám ảnh trong chúng một thời chiến tranh. Đến khi quân Đồng minh ập vào, vì sự an toàn của cư dân, chúng lại bị bắn, bỏ đói hay thậm chí xẻo thịt cho những viên chức cấp cao. Tối ấy, voi mơ thấy trong tử cung của mình có một voi con, nó ở trong đó đầm đìa máu, trên mình găm đầy mảnh bom vỡ. Voi thò vòi vào âm đạo móc nó ra, đó là cách duy nhất có thể cứu vớt nó. Voi con vẫn chưa hoàn toàn thành hình lấy vòi của nó móc lấy vòi voi mẹ, nhưng vì dùng sức quá mạnh, thông đạo lại quá hẹp, voi con được móc ra đã ngạt thở, còn âm hộ của voi mẹ thì bị mảnh bom rạch chi chít vết thương.

Những động vật ấy bị lột trần hết mức ở thời chiến tranh, chúng không được sống đúng với tự do và chết đi tuân theo số mệnh. Ngô Minh Ích ngoài một nhà văn còn là họa sĩ. Việc đưa voi, khỉ và cây cối lên bìa cuốn sách chứng tỏ những sinh vật này chiếm phần nào đó quan trọng trong ông. Những ngày này, khi văn chương sinh thái có một vị thế vô cùng mạnh mẽ bằng tiếng nói và những khẩu hiệu ngầm, Ngô Minh Ích chứng tỏ góc nhìn sâu sát thời đại, tiệm cận thế giới mà hài hòa với tự nhiên. Thú vật trong tác phẩm ông chịu nhiều bất công, cây cối trong cuốn sách này vừa hiền hòa bao dung lại vừa thống thiết bi thảm. Một góc nhìn mới, thức thời, hiện đại và tràn ngập tình cảm.

Về nghệ thuật viết, Ngô Minh Ích kết hợp hài hòa giữa lối viết tuần tự, đảo ngược thời gian, truyện lồng trong truyện và những phân đoạn hiện thực – kỳ ảo vô cùng đắt giá. Chi tiết đầu truyện khi Abbas đi lặn cùng lão Trâu và những ảo ảnh huyền diệu nơi cửa sông, hình tượng con sáo đá chết hiện thân cho sỹ quan Nhật hay cơn mơ của con voi mẹ giữa những lằn ranh lửa đạn… Tất cả cho thấy một lối viết mới giữa những ảo ảnh song song, với ý nghĩa vô cùng gợi mở, tỏa ra nhiều hướng. Chẳng hạn đường hầm ánh sáng mà Abbas và lão Trâu cùng nhau lặn xuống, liệu có liên quan gì đến hình tượng loài mối ở phía sau sách? Khả năng chịu mất nước của mối rất thấp, bọn chúng nhất định phải có nước, nên dù có chết bao nhiêu mạng mối, bỏ ra bao nhiêu thời gian, bọn chúng chắc chắn sẽ đào xuống tiếp bằng bất kể giá nào, đây là trời định, là bản năng. Rằng rốt cuộc con người cũng không hơn gì loài côn trùng ấy, nhỏ bé, xót xa, lao theo cái chết theo đúng bản năng, vì tự giết nhau, thèm khát vật chất?

Nhưng cũng không hẳn cuốn sách này không chứa điểm yếu. Ngoài những nổi bật phía trên, việc dùng phần lớn thời lượng kể về cuộc chiến không quá thú vị. Một góc nhìn, một giọng kể, không đa dạng và gây nhàm chán với hằng hà những cột mốc thời gian. Hơn thế nữa, cách diễn tiến cốt truyện của Ngô Minh Ích vẫn còn hơi thô và chưa tinh tế. Đơn cử chi tiết trao đổi email với những nội dung không rõ nguồn cơn không biết ai gửi, chúng không thực tế và gợi nhớ lại sự lỗi thời. Một sự cục bộ châu Á, một sự sến súa thường thấy là những điểm yếu lẽ ra có thể tinh giảm nếu đào sâu hơn. Nhưng vượt lên trên hết, Chiếc xe đạp mất cắp vẫn là một tiểu thuyết hay, gợi mở và sừng sững giá trị hiện sinh.

Tạm kết

Với Chiếc xe đạp mất cắp, bằng những đẹp đẽ – xấu xa, đen tối – tươi sáng, trường đoạn mất mát – bài ca hy vọng lồng trong phong cách viết điềm tĩnh và kiểm soát tốt cốt truyện, những chi tiết hiện thực – kỳ ảo ấn tượng, Ngô Minh Ích đã làm nên một lịch sử Đài Loan qua nhiều biến động trong hơn 100 năm và số phận con người sau thời Hậu chiến. Ở đó con người có thể ngu ngốc, chết vị tỵ hiềm, tự giết lẫn nhau như loài mối chúa lao đầu xuống nước; nhưng song song cùng đó, hy vọng cũng được nhân lên, vẻ đẹp mãi mãi trường tồn, trong bầu trời u ám sẽ luôn hiện lên tia sáng soi rọi một điều gì đó từ trong tâm thức. Khúc chiết, điềm tĩnh mà sâu lắng, Chiếc xe đạp mất cắp như loại đĩa nhạc làm từ chất bài tiết của cánh kiến đỏ, tinh than, trộn với hoàng thổ; mà cũng có người gọi đó là chiếc đĩa than.

Hết.

Ngô Thuận Phát

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng