Trà chiều

Cách nhìn thế giới qua lăng kính của Định luật Newton (Định luật II và III)

Published

on

Lần trước, chúng ta đã cùng nhau đi tìm một cái nhìn mới, cùng nhau nhìn nhận Định luật I của Newton qua lăng kính của cuộc sống sau khi đã tách rời nó khỏi các ý nghĩa vật lí ban đầu. Lần này, chúng ta hãy cùng nhau đi trên hành trình ấy một lần nữa, nhưng lần này là với Định luật II và III của Newton, hai định luật mà theo tôi về ý nghĩa và tầm quan trọng của nó có thể còn thú vị hơn cả Định luật I khi được đặt dưới một góc nhìn mới.

*

Định luật II Newton nói rằng:

Nếu một vật chịu tác dụng của một lực làm thay đổi vận tốc của vật thì véc tơ gia tốc luôn cùng hướng với lực tác dụng lên vật, độ lớn gia tốc sẽ tỉ lệ thuận với độ lớn của lực và tỉ lệ nghịch với khối lượng của vật.

Thật ra định luật này rất đơn giản và dễ hiểu, nhưng với cách phát biểu như trên thì có lẽ sẽ khiến nhiều người cảm thấy hơi choáng váng; bản thân tôi tuy đã hiểu khá rõ về định luật này mà khi đọc lại cũng cảm thấy như vậy. Nhưng dù là khó hay dễ hiểu thì hôm nay chúng ta vẫn sẽ tạm gác lại những ý nghĩa vật lí của định luật trên và thử nhìn nhận lại bằng một góc nhìn khác. Khi ấy, một lập luận cũng có phần đáng để suy ngẫm sẽ dần hiện ra:

Khi một “lực” – tức một việc gì đó xảy ra và tác động đến chúng ta – nếu như “lực” đó đủ mạnh nó sẽ làm con người chúng ta thay đổi. Chúng ta sẽ thay đổi theo chiều hướng của “lực” đã tác động vào ta, nhưng thay đổi đến mức nào, chúng ta sẽ “dịch chuyển” bao nhiêu xa so với con người mình trước đây thì lại phụ thuộc vào “khối lượng” và độ lớn của “lực” ban đầu.

Về phần “lực” thì khá là dễ hiểu, khi một “lực” mạnh, tức một sự việc nghiêm trọng xảy ra trong cuộc đời chúng ta thì hiển nhiên nó sẽ làm con người chúng ta thay đổi. Sự kiện đó càng tồi tệ, càng trầm trọng (theo chiều hướng xấu), hay thậm chí là càng tuyệt diệu (theo chiều hướng tốt) thì con người chịu tác động của sự kiện sẽ thay đổi càng nhiều.

Nhưng độ lớn của “lực” không phải là yếu tố duy nhất và quyết định tất cả, còn có “khối lượng” nữa. Trong trường hợp này, “khối lượng” có thể được hiểu là bản chất của con người chúng ta. Nó bao gồm những thứ như: cách chúng ta suy nghĩ về thế giới, cách chúng ta định nghĩa về bản thân mình, chúng ta kiên định hay dễ thay đổi đến mức nào, chúng ta trân trọng những giá trị nào, chúng ta tin vào những gì,…

Nói tóm lại là, khi con người chúng ta chịu sự tác động của thế giới, chúng ta sẽ thay đổi, còn thay đổi như thế nào, thay đổi nhiều hay ít thì lại phụ thuộc vào “lực” tác động của thế giới và bản thân mỗi người chúng ta.

Nghe qua thì có vẻ là một điều hiển nhiên nhỉ? Nhưng việc chúng ta có thể rút ra cái điều khá là hiển nhiên này khi đặt một định luật vật lí dưới một góc nhìn khác chẳng phải là rất thú vị ư?

Dưới sự tác động từ thế giới bên ngoài và những suy nghĩ nội tâm bên trong, theo dòng chảy của thời gian, con người sẽ thay đổi, cả về ngoại hình bên ngoài lẫn bản chất bên trong. Dù có muốn hay không, ai rồi cũng sẽ thay đổi, có người nhiều, có người ít, nhưng chắc chắn là sẽ có, bởi vì nó là tất yếu, như một quy luật cho vạn vật trên thế giới này. Bạn của 10 năm trước khác với bây giờ như thế nào? Liệu bạn có bao giờ tự hỏi 10 năm sau, bản thân bạn khi ấy sẽ có những nhận xét, những suy nghĩ gì về con người bạn lúc này?

Các định luật vật lí vốn được sinh ra để mô tả, để thấu hiểu cách mà vạn vật trong vũ trụ này vận hành, nhưng bằng một sự trùng hợp ngẫu nhiên nào đó, ít ra trong trường hợp này, khi ta sử dụng một góc nhìn mới, những quy luật về cuộc sống cũng dần hiện ta từ các định luật. Bây giờ chúng ta sẽ đến với Định luật III của Newton, một định luật vô cùng đơn giản, dễ hiểu, ai cũng có thể quan sát được, một quy luật cơ bản trong toàn vũ trụ nhưng đồng thời cũng lại rất thân thuộc, thậm chí là vì nó quá thân thuộc nên nhiều người đã vô thức xem nó là một lẽ hiển nhiên, nên đã vô tình bỏ qua và chưa bao giờ nhận ra.

Định luật III Newton nói rằng:

Khi một vật A tác dụng lên vật B một lực, thì vật B cũng sẽ tác dụng lên vật A một lực. Hai lực này cùng độ lớn, cùng phương nhưng lại ngược chiều.

Bản thân tôi thì thích cách phát biểu tiếng Anh của định luật này hơn:

For every Action, there is an equal and opposite Reaction.

Có thể tạm dịch là: Ứng với mỗi một “hành động”, sẽ có một “phản hành động” có cùng độ lớn nhưng lại ngược chiều.

Tại sao để bay lên thì tên lửa lại phải phóng ra một ngọn lửa về phía sau, tại sao để tung người nhảy lên thì chúng ta phải co chân lại, tại sao để bước đi thì bàn chân phải đạp xuống mặt đất, tại sao để chạy thì bàn chân lại càng phải đạp xuống mặt đất mạnh hơn nữa? Tất cả những điều đó đều là những biểu hiện của Định luật III Newton.

Để có thể bước đi, bạn sẽ phải dùng chân đẩy một lực xuống mặt đất, để rồi mặt đất sẽ đẩy bàn chân bạn tiến về phía trước. Để chạy, bạn sẽ phải đạp xuống mặt đất mạnh hơn nữa để mặt đất đẩy cơ thể bạn đi xa hơn nữa. Để nhảy, bạn phải co chân lại, vốn cũng là để đạp xuống mặt đất, để rồi nền đất đẩy bạn bay lên. Với tên lửa cũng như vậy, để bay lên cao tên lửa sẽ phải đốt cháy nhiên liệu và phóng chúng về phía sau.

Và khi chúng ta kết hợp Định luật II và Định luật III dưới góc nhìn mới này lại, một điều thú vị hơn nữa lại hiện ra: Khi thế giới làm bạn thay đổi thì bạn cũng sẽ làm thay đổi thế giới, ngược lại, khi bạn làm thay đổi thế giới thì thế giới cũng sẽ làm bạn thay đổi.

“Thế giới” ở đây có thể hiểu theo nghĩa hẹp: là cuộc sống của bạn, là thế giới nội tâm, cách bạn suy nghĩ, kể cả mọi người hay các đồ vật xung quanh cũng có thể được xem là “thế giới”. Không cần phải suy nghĩ quá sâu xa, cầm một quyển sách lên để đọc đã là một cách tác động vào “thế giới” rồi, chỉ cần dấu tay của bạn chạm vào một trang sách thì đã có thể nói là bạn vừa tác động và làm thay đổi “thế giới”. Ngay cả việc viết ra một dòng chữ cũng là làm thay đổi thế giới, vì chẳng phải là trước khi bạn viết ra dòng chữ đó thì nó chưa từng tồn tại hay sao? Và nếu có một ai đó khác hay thậm chí là chính bạn đọc lại dòng chữ ấy, thì dòng chữ, nó lại một lần nữa xuất hiện ở một nơi nó chưa từng tồn tại trước đó – nơi tâm trí của một con người.

“Thế giới” cũng có thể hiểu theo nghĩa rộng: đơn giản là thế giới, là thành phố, là núi đồi, là cả Trái Đất, là cả vũ trụ này. Bạn có bao giờ ngẫm nghĩ về những gì loài người đã làm được trên thế giới này, trên hành tinh này chưa? Người ta nói rằng nếu toàn bộ lịch sử Trái Đất chỉ xảy ra trong một ngày, tức 24 giờ hay 86.400 giây, thì nền văn minh nhân loại sẽ chỉ xuất hiện vào giây phút cuối cùng của ngày hôm đó. Tức là tới tận lúc 23h 59 phút 59 giây, tới tận giây phút cuối cùng của 24 giờ đặc biệt này, trong nền văn minh nhân loại mới chớm nở. Nếu cả hành tinh này chỉ vừa mới sinh ra và đã tồn tại được 86.399 giây, thì đến tận giây thứ 86.400 nền văn hóa của toàn thể nhân loại mới bắt đầu những bước đi đầu tiên.

Trong một giây đó, tức khoảng 50.000 năm qua, hãy xem loài người đã làm được những gì. Từ những sinh vật chỉ biết bước đi dưới bầu trời và ngắm nhìn những vì sao, chỉ là một phần của thế giới tự nhiên, với đôi bàn tay và trí tuệ của mình, loài người đã tách mình ra khỏi tự nhiên và trở thành những sinh vật thống trị hành tinh này. Chúng ta có mặt ở khắp mọi lục địa trên Trái Đất, biến đổi thế giới, xây dựng hàng nghìn thành phố, đẩy lùi và thu hẹp thiên nhiên hoang dã, dựng nên những tòa nhà thách thức cả bầu trời, đặt chân lên Mặt Trăng, hướng những ống kính hiện đại nhất vào không gian vũ trụ, đưa được thiết bị hạ cánh để thăm dò trên hành tinh khác. Dù là tốt hay xấu, thì có một điều là chắc chắn, mặc cho tuổi đời vô cùng ngắn ngủi, nhân loại đã thay đổi thế giới này, đã và vẫn đang để lại những dấu chân vững chãi trên nền cát của lịch sử Trái Đất.

Và dĩ nhiên là thế giới mới do chính con người tác động và tạo ra này cũng đã tác động ngược trở lại con người. Bạn có biết không, bộ não con người đã thu nhỏ đi khoảng 10% trong suốt 40.000 năm qua, không phải là vì chúng ta đang ngày càng kém thông minh, mà có lẽ là do chúng ta đã tự thuần hóa chính mình khi chúng ta tự tách khỏi thiên nhiên và sống trong những “khu rừng bê tông” do chính mình xây dựng nên. Một con người cổ đại thì luôn cần phải đấu tranh để sinh tồn, luôn phải ghi nhớ mọi thứ, từ phương hướng đến địa hình, đến vị trí và cách tìm kiếm những nguồn tài nguyên quý giá như nước và thức ăn; còn con người hiện đại với cuộc sống có phần nhẹ nhàng hơn thì không mấy ai có được những kĩ năng và kiến thức ấy cả.

Con người đã thay đổi, khai thác và cả hủy hoại thế giới. Thế giới cũng đã đáp trả lại bằng những tài nguyên thiết yếu đang dần cạn kiệt, bằng đủ mọi loại ô nhiễm đang tác động xấu đến chính cuộc sống của mỗi con người: từ ô nhiễm không khí, đất, nước, đến cả ô nhiễm ánh sáng và âm thanh, bằng những hiện tượng thời tiết ngày càng khắc nghiệt, bằng khí hậu biến đổi nhiều đến mức có thể không đảo ngược được nữa.

Đã là một con người, thì một điều là chắc chắn, mỗi ngày bạn đều đang tác động vào thế giới và mỗi ngày thế giới cũng đang tác động vào bạn, từ những chi tiết nhỏ nhặt nhất cho đến những điều vô cùng vĩ đại. Vậy còn bạn, bạn muốn để lại những dấu chân nào cho thế giới trong khoảng thời gian ngắn ngủi bạn nán lại nơi đây? Và bạn muốn thế giới sẽ khiến cho bản thân mình thay đổi đến mức nào so với thời điểm hiện tại trước khi bạn rời khỏi?

Câu trả lời cho hai câu hỏi trên, sẽ thay đổi như thế nào theo dòng chảy thời gian? Liệu bản thân mỗi người chúng ta có thể tự trả lời hoàn chỉnh hay không?

Hay sẽ là một ai đó khác, vào một ngày nào đó khác, sẽ trả lời đầy đủ hơn sau khi chúng ta đã rời khỏi?

Hết.

Stern

Ảnh đầu bài: The Wall Street Journal

*

Bài viết có liên quan



Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Cafe sáng