Phía sau trang sách

Ác mộng 3096 ngày: Nghị lực vượt nghịch cảnh phi thường của một cô gái trẻ

Published

on

Ngày 2/3/1988, cô bé 10 tuổi Natascha Kampusch đã bị một người lạ mặt bắt cóc ngay trên đường phố Vienna và tống lên một chiếc xe thùng màu trắng. Vài giờ sau, cô thấy mình đang nằm trên sàn nhà của một căn hầm lạnh lẽo, bị cuộn trong chăn. Năm 2006, Natascha trốn thoát khỏi nơi giam cầm, kết thúc một trong những vụ bắt cóc dài nhất trong lịch sử hiện đại, tuổi thơ của cô đã trôi qua.

Trong Ác mộng 3096 ngày, Natascha lần đầu tiên kể lại câu chuyện chấn động của mình: những năm tháng tuổi thơ trắc trở, câu chuyện đã diễn ra vào buổi sáng định mệnh ấy khi cô đang trên đường đến trường, cuộc giam cầm đằng đẵng trong căn hầm năm mét vuông, sự lạm dụng về thể xác và tinh thần mà kẻ bắt cóc – Wolfgang Priklopil – đã gây ra cho cô.

Một kết thúc có hậu xứng đáng đã đến với Natascha. Thậm chí, điều còn tuyệt vời hơn là vào năm 2010, ở độ tuổi 22, Natascha đã tốt nghiệp đại học. Đối với, một cô gái không nhận được sự giáo dục chính qui nào từ năm 10 đến 18 tuổi, đó là một thành tích đáng kinh ngạc. Làm sao cô có thể làm được việc ấy? Câu trả lời nằm trong cuốn sách này.

Natascha Kampusch là một cô gái người Áo sinh ra trong gia đình không có hạnh phúc trọn vẹn. Cha cô tiêu tiền như nước và mẹ cô phải đối mặt với việc làm thế nào để gia đình có đủ tiền sống, chi trả nổi những hóa đơn dồn dập. Đôi lúc áp lực trong cuộc sống khiến bà trút giận lên con gái mình. Chẳng may là Natascha lại tìm kiếm sự an ủi trong thức ăn đến mức cô trở thành một cô bé thừa cân quá mức. Cuộc sống của cô có lẽ không thể gọi là lí tưởng nhưng ít nhất vẫn còn nằm trong chuẩn mực bình thường. Tất cả mọi thứ đều thay đổi khi Natascha 10 tuổi và bị bắt cóc. Điều trớ trêu là ngay ngày bị bắt cóc cũng là ngày đầu tiên cô đến trường một mình. Mẹ cô luôn bảo vệ cô quá mức và Natascha muốn, cần cảm giác độc lập nhưng bất hạnh thay, cô đã chọn nhầm ngày. Cô không biết rằng chỉ một quyết định nhỏ đó đã khiến cô phải chịu đựng nhiều năm trời bị nhốt trong căn hầm bí mật.

Nếu như có bao giờ người ta đặt câu hỏi nghi vấn về chức năng của văn học thiếu nhi, có lẽ câu chuyện về Natascha Kampusch là một trong những bằng chứng hùng hồn nhất. Những người bạn đồng hành duy nhất mà Kampusch tin tưởng trong suốt thời gian tù ngục dài, nghiệt ngã trong căn hầm chính là những cuốn sách: Robinson CrusoeTreasure IslandTom SawyerThe Jungle Book và Alice in Wonderland – những cuốn sách được kẻ bắt giam mang đến cho cô.

“Phương tiện quan trọng nhất mà tôi được tùy ý sử dụng để chống lại sự nhàm chán và giữ cho mình không bị điên chính là những cuốn sách,” cô viết về kí ức của mình trong những ngày giam cầm qua Ác mộng 3096 ngày như thếVà rồi một ngày Kampusch được tự do sau khi bị đánh đập, bỏ đói, sau tám năm không được nhìn thấy hoàng hôn và bình minh, cô giống như một cánh bướm đến thời kì bung mình ra khỏi vỏ kén. Tự truyện của cô là một bằng chứng cho thấy sức mạnh lớn lao của trí tưởng tượng trong hoàn cảnh người ta phải đối mặt với khoảng thời gian khắc nghiệt kinh khủng nhất. Người ta có thể thấy Kampusch giống như cô bé quàng khăn đỏ, bị mất tích khi mặc áo khoác đỏ trên chuyến đi bộ đầu tiên đến trường, bị bắt để làm thú tiêu khiển cho người đàn ông có tên là Wolfgang; thế nhưng quyển tự truyện lại cho thấy cô giống một Robinson Crusoe hơn, một người có tài xoay sở khi trôi nổi trên hòn đảo của sự điên loạn. Giống như nhân vật của Defoe, dù thường xuyên sợ hãi và đau khổ, cô vẫn vững vàng đặt kế hoạch tiến về phía trước.

Do tự đọc sách, tự học, tự viết trong khoảng thời bị giam cầm, dù Kampusch mất đến 8 năm thời gian giáo dục quan trọng nhất của một đời người nhưng cô vẫn khiến nhiều người đọc bất ngờ bởi kĩ năng viết, kể chuyện tài tình. Câu chuyện của Kampusch vừa truyền thông điệp về lòng dũng cảm, vừa như một bài ca buồn về những cuộc đời hoang vắng bị bỏ rơi. Điều này khiến cô trở nên khác biệt với những nạn nhân bị bắt cóc và viết lại tự truyện khác như Elizabeth Smart hay Jaycee Lee Dugard, cách thuật lại câu chuyện của họ thiếu sức thuyết phục vì kĩ năng viết còn non kém – điều mà độc giả hoàn toàn chấp nhận được bởi họ không phải là người viết chuyên nghiệp. Thế nhưng, Kampusch viết không chỉ có bản sắc riêng mà cô còn viết như một nhà tâm lí học, cô không chỉ kể lại câu chuyện mình bị giam cầm và hành hạ thế nào mà còn vừa viết vừa tự phân tích tâm lí của mình, của cả kẻ bắt cóc. Vì thế, cuốn sách cũng trở thành một nguồn tư liệu nghiên cứu hữu ích cho những học giả, những ai quan tâm đến lĩnh vực tâm lí học, đặc biệt là tâm lí học về tội phạm và nạn nhân. Cô bình tĩnh nhớ lại không chỉ những chiêu trò bạo hành của tên bắt cóc như cách hắn nhấn mạnh với cô rằng hắn là người tử tế nhất so với những tên đầu gấu dữ tợn bên ngoài, đồng thời cô còn cho độc giả nếm trải những thứ tưởng tượng như trong một cơn ác mộng luôn đeo bám tâm trí cô. Những vấn đề bạo lực, bỏ đói, đe dọa, mất cảm giác… được Kampusch mô tả như cách làm sao để cô thích ứng “bằng trực giác” những “phong tục” mới này khi mình đang ở trong một đất nước xa lạ.

Trước khi bị bắt cóc, cô gái nghèo khổ nhỏ bé này đã từng ước mơ trở thành một diễn viên, cô say sưa với loạt phim truyền hình về những thiếu nữ bị mất tích ở Áo. Và câu chuyện đời cô đã chạm đến điểm đối ngược hoàn toàn với bộ phim truyền hình ấy: cô bị bắt cóc khi còn là một đứa trẻ – tình huống hiếm khi xảy ra ở đất nước cô, và trốn thoát khi đã trưởng thành.

Sau khi được tự do, sự tức giận của cô lại hướng về những người bị sốc trước mong muốn nói về kẻ bắt cóc mình của cô. Cô khẳng định hắn là một người quan trọng với mình. Rằng hắn không phải là tên ác quỷ, hắn chỉ là một gã đàn ông đáng thương. Đó cũng là một điều khiến độc giả ấn tượng về Ác mộng 3096 ngày của Kampusch: sự thấu hiểu sâu sắc cô dành cho Priklopil từ con người hắn và căn bệnh tâm thần hắn mắc phải cho đến mối quan hệ bất thường giữa hắn và mẹ. Dần dần, người ta nhận ra sau tất cả những gì hắn đã làm với cô, cô vẫn có một sự kết nối đặc biệt với hắn, và làm sao mà điều đó lại không thể xảy ra được khi hắn đã từng là người duy nhất trong cuộc đời cô, người duy nhất cô nói chuyện và có sự tương tác trong khoảng thời gian 8 năm rưỡi? Điều ấy cũng chính là thứ khiến cô nhận ra hắn chỉ là một con người phức tạp vừa có mặt tử tế, dễ bị tổn thương đồng thời cũng có những mặt u tối đáng sợ luôn vây quanh làm rối loạn cuộc sống của hắn. Nhưng như cô đã từng nói, những đứa trẻ bị đối xử tệ bạc, bị hành hạ bởi cha mẹ và người giám hộ rốt cuộc vẫn luôn yêu họ. Có lẽ đó cũng là những cảm xúc cô dành cho Priklopil, có lẽ đó cũng là lí do vì sao cô khóc khi biết hắn đã buông mình dưới đoàn tàu hỏa để tự sát sau khi cô trốn thoát.

Cô không chấp nhận việc mọi người nói mình mắc Hội chứng Stockholm – một hội chứng mà giới tâm lí dùng để nói về sự thông cảm của nạn nhân dành cho người bắt cóc mình. Cô cho rằng việc dán nhãn như vậy đã làm đơn giản hóa quá mức mối quan hệ phức tạp giữa cô và Priklopil. Trong Ác mộng 3096 ngày, độc giả có thể thấy được sự cố gắng nghiên cứu tâm lí, phân tích, suy xét về những tháng ngày gian khó, những cảm xúc khi ấy của cô gái trẻ này cả sau khi cô tự do. Thay vì cố gắng quên đi 8 năm đó, cô đã nỗ lực hết sức có thể để tìm ra ý nghĩa cho tội ác tưởng chừng như phi lí mà cô là nạn nhân phải gánh chịu. Và cô tìm ra được kết luận rằng dù thế nào, xã hội cũng cần những con quái vật vì: “Cần có hình ảnh về những căn hầm giam để không còn phải thấy nhiều gia đình với sự bạo lực ẩn đằng sau những cái đầu bảo thủ, trưởng giả.” Với Ác mộng 3096 ngày, người đọc sẽ phải một lần nữa suy nghĩ về cái gọi là trắng, đen, thiện, ác… Mọi thứ đều khó có thể tách biệt rạch ròi. Tất cả đan xen lẫn nhau tạo nên cuộc sống. Đó cũng là sự nhìn nhận lí tính khách quan thật đáng quí, công tâm của cô gái dũng cảm Natascha Kampusch.

Kodaki
dịch và tổng hợp từ nhiều nguồn

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng