Phía sau trang sách

Ác mộng 3096 ngày: Nghị lực vượt nghịch cảnh phi thường của một cô gái trẻ

Published

on

Ngày 2/3/1988, cô bé 10 tuổi Natascha Kampusch đã bị một người lạ mặt bắt cóc ngay trên đường phố Vienna và tống lên một chiếc xe thùng màu trắng. Vài giờ sau, cô thấy mình đang nằm trên sàn nhà của một căn hầm lạnh lẽo, bị cuộn trong chăn. Năm 2006, Natascha trốn thoát khỏi nơi giam cầm, kết thúc một trong những vụ bắt cóc dài nhất trong lịch sử hiện đại, tuổi thơ của cô đã trôi qua.

Trong Ác mộng 3096 ngày, Natascha lần đầu tiên kể lại câu chuyện chấn động của mình: những năm tháng tuổi thơ trắc trở, câu chuyện đã diễn ra vào buổi sáng định mệnh ấy khi cô đang trên đường đến trường, cuộc giam cầm đằng đẵng trong căn hầm năm mét vuông, sự lạm dụng về thể xác và tinh thần mà kẻ bắt cóc – Wolfgang Priklopil – đã gây ra cho cô.

Một kết thúc có hậu xứng đáng đã đến với Natascha. Thậm chí, điều còn tuyệt vời hơn là vào năm 2010, ở độ tuổi 22, Natascha đã tốt nghiệp đại học. Đối với, một cô gái không nhận được sự giáo dục chính qui nào từ năm 10 đến 18 tuổi, đó là một thành tích đáng kinh ngạc. Làm sao cô có thể làm được việc ấy? Câu trả lời nằm trong cuốn sách này.

Natascha Kampusch là một cô gái người Áo sinh ra trong gia đình không có hạnh phúc trọn vẹn. Cha cô tiêu tiền như nước và mẹ cô phải đối mặt với việc làm thế nào để gia đình có đủ tiền sống, chi trả nổi những hóa đơn dồn dập. Đôi lúc áp lực trong cuộc sống khiến bà trút giận lên con gái mình. Chẳng may là Natascha lại tìm kiếm sự an ủi trong thức ăn đến mức cô trở thành một cô bé thừa cân quá mức. Cuộc sống của cô có lẽ không thể gọi là lí tưởng nhưng ít nhất vẫn còn nằm trong chuẩn mực bình thường. Tất cả mọi thứ đều thay đổi khi Natascha 10 tuổi và bị bắt cóc. Điều trớ trêu là ngay ngày bị bắt cóc cũng là ngày đầu tiên cô đến trường một mình. Mẹ cô luôn bảo vệ cô quá mức và Natascha muốn, cần cảm giác độc lập nhưng bất hạnh thay, cô đã chọn nhầm ngày. Cô không biết rằng chỉ một quyết định nhỏ đó đã khiến cô phải chịu đựng nhiều năm trời bị nhốt trong căn hầm bí mật.

Nếu như có bao giờ người ta đặt câu hỏi nghi vấn về chức năng của văn học thiếu nhi, có lẽ câu chuyện về Natascha Kampusch là một trong những bằng chứng hùng hồn nhất. Những người bạn đồng hành duy nhất mà Kampusch tin tưởng trong suốt thời gian tù ngục dài, nghiệt ngã trong căn hầm chính là những cuốn sách: Robinson CrusoeTreasure IslandTom SawyerThe Jungle Book và Alice in Wonderland – những cuốn sách được kẻ bắt giam mang đến cho cô.

“Phương tiện quan trọng nhất mà tôi được tùy ý sử dụng để chống lại sự nhàm chán và giữ cho mình không bị điên chính là những cuốn sách,” cô viết về kí ức của mình trong những ngày giam cầm qua Ác mộng 3096 ngày như thếVà rồi một ngày Kampusch được tự do sau khi bị đánh đập, bỏ đói, sau tám năm không được nhìn thấy hoàng hôn và bình minh, cô giống như một cánh bướm đến thời kì bung mình ra khỏi vỏ kén. Tự truyện của cô là một bằng chứng cho thấy sức mạnh lớn lao của trí tưởng tượng trong hoàn cảnh người ta phải đối mặt với khoảng thời gian khắc nghiệt kinh khủng nhất. Người ta có thể thấy Kampusch giống như cô bé quàng khăn đỏ, bị mất tích khi mặc áo khoác đỏ trên chuyến đi bộ đầu tiên đến trường, bị bắt để làm thú tiêu khiển cho người đàn ông có tên là Wolfgang; thế nhưng quyển tự truyện lại cho thấy cô giống một Robinson Crusoe hơn, một người có tài xoay sở khi trôi nổi trên hòn đảo của sự điên loạn. Giống như nhân vật của Defoe, dù thường xuyên sợ hãi và đau khổ, cô vẫn vững vàng đặt kế hoạch tiến về phía trước.

Do tự đọc sách, tự học, tự viết trong khoảng thời bị giam cầm, dù Kampusch mất đến 8 năm thời gian giáo dục quan trọng nhất của một đời người nhưng cô vẫn khiến nhiều người đọc bất ngờ bởi kĩ năng viết, kể chuyện tài tình. Câu chuyện của Kampusch vừa truyền thông điệp về lòng dũng cảm, vừa như một bài ca buồn về những cuộc đời hoang vắng bị bỏ rơi. Điều này khiến cô trở nên khác biệt với những nạn nhân bị bắt cóc và viết lại tự truyện khác như Elizabeth Smart hay Jaycee Lee Dugard, cách thuật lại câu chuyện của họ thiếu sức thuyết phục vì kĩ năng viết còn non kém – điều mà độc giả hoàn toàn chấp nhận được bởi họ không phải là người viết chuyên nghiệp. Thế nhưng, Kampusch viết không chỉ có bản sắc riêng mà cô còn viết như một nhà tâm lí học, cô không chỉ kể lại câu chuyện mình bị giam cầm và hành hạ thế nào mà còn vừa viết vừa tự phân tích tâm lí của mình, của cả kẻ bắt cóc. Vì thế, cuốn sách cũng trở thành một nguồn tư liệu nghiên cứu hữu ích cho những học giả, những ai quan tâm đến lĩnh vực tâm lí học, đặc biệt là tâm lí học về tội phạm và nạn nhân. Cô bình tĩnh nhớ lại không chỉ những chiêu trò bạo hành của tên bắt cóc như cách hắn nhấn mạnh với cô rằng hắn là người tử tế nhất so với những tên đầu gấu dữ tợn bên ngoài, đồng thời cô còn cho độc giả nếm trải những thứ tưởng tượng như trong một cơn ác mộng luôn đeo bám tâm trí cô. Những vấn đề bạo lực, bỏ đói, đe dọa, mất cảm giác… được Kampusch mô tả như cách làm sao để cô thích ứng “bằng trực giác” những “phong tục” mới này khi mình đang ở trong một đất nước xa lạ.

Trước khi bị bắt cóc, cô gái nghèo khổ nhỏ bé này đã từng ước mơ trở thành một diễn viên, cô say sưa với loạt phim truyền hình về những thiếu nữ bị mất tích ở Áo. Và câu chuyện đời cô đã chạm đến điểm đối ngược hoàn toàn với bộ phim truyền hình ấy: cô bị bắt cóc khi còn là một đứa trẻ – tình huống hiếm khi xảy ra ở đất nước cô, và trốn thoát khi đã trưởng thành.

Sau khi được tự do, sự tức giận của cô lại hướng về những người bị sốc trước mong muốn nói về kẻ bắt cóc mình của cô. Cô khẳng định hắn là một người quan trọng với mình. Rằng hắn không phải là tên ác quỷ, hắn chỉ là một gã đàn ông đáng thương. Đó cũng là một điều khiến độc giả ấn tượng về Ác mộng 3096 ngày của Kampusch: sự thấu hiểu sâu sắc cô dành cho Priklopil từ con người hắn và căn bệnh tâm thần hắn mắc phải cho đến mối quan hệ bất thường giữa hắn và mẹ. Dần dần, người ta nhận ra sau tất cả những gì hắn đã làm với cô, cô vẫn có một sự kết nối đặc biệt với hắn, và làm sao mà điều đó lại không thể xảy ra được khi hắn đã từng là người duy nhất trong cuộc đời cô, người duy nhất cô nói chuyện và có sự tương tác trong khoảng thời gian 8 năm rưỡi? Điều ấy cũng chính là thứ khiến cô nhận ra hắn chỉ là một con người phức tạp vừa có mặt tử tế, dễ bị tổn thương đồng thời cũng có những mặt u tối đáng sợ luôn vây quanh làm rối loạn cuộc sống của hắn. Nhưng như cô đã từng nói, những đứa trẻ bị đối xử tệ bạc, bị hành hạ bởi cha mẹ và người giám hộ rốt cuộc vẫn luôn yêu họ. Có lẽ đó cũng là những cảm xúc cô dành cho Priklopil, có lẽ đó cũng là lí do vì sao cô khóc khi biết hắn đã buông mình dưới đoàn tàu hỏa để tự sát sau khi cô trốn thoát.

Cô không chấp nhận việc mọi người nói mình mắc Hội chứng Stockholm – một hội chứng mà giới tâm lí dùng để nói về sự thông cảm của nạn nhân dành cho người bắt cóc mình. Cô cho rằng việc dán nhãn như vậy đã làm đơn giản hóa quá mức mối quan hệ phức tạp giữa cô và Priklopil. Trong Ác mộng 3096 ngày, độc giả có thể thấy được sự cố gắng nghiên cứu tâm lí, phân tích, suy xét về những tháng ngày gian khó, những cảm xúc khi ấy của cô gái trẻ này cả sau khi cô tự do. Thay vì cố gắng quên đi 8 năm đó, cô đã nỗ lực hết sức có thể để tìm ra ý nghĩa cho tội ác tưởng chừng như phi lí mà cô là nạn nhân phải gánh chịu. Và cô tìm ra được kết luận rằng dù thế nào, xã hội cũng cần những con quái vật vì: “Cần có hình ảnh về những căn hầm giam để không còn phải thấy nhiều gia đình với sự bạo lực ẩn đằng sau những cái đầu bảo thủ, trưởng giả.” Với Ác mộng 3096 ngày, người đọc sẽ phải một lần nữa suy nghĩ về cái gọi là trắng, đen, thiện, ác… Mọi thứ đều khó có thể tách biệt rạch ròi. Tất cả đan xen lẫn nhau tạo nên cuộc sống. Đó cũng là sự nhìn nhận lí tính khách quan thật đáng quí, công tâm của cô gái dũng cảm Natascha Kampusch.

Kodaki
dịch và tổng hợp từ nhiều nguồn

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng