Trích đăng

Chương 1 “Đôi mắt trũng sâu” (Dean Koontz)

Published

on

Trích từ: Đôi mắt trũng sâu
Tác giả: Dean Koontz
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 03.2022

Sáu phút đầu tiên của buổi sáng thứ Ba, trên đường về nhà sau buổi tập muộn cho chương trình biểu diễn mới, Tina Evans nhìn thấy con trai mình là Danny đang trong một chiếc xe của người lạ. Nhưng Danny chết đến nay hơn cả năm rồi.

Dự định mua một quart sữa và ổ bánh mì nguyên cám nên Tina dừng lại ở một cửa hàng mở cửa hai mươi bốn giờ cách nhà cô hai dãy phố và đậu xe trong màn bụi mờ vàng vọt của ánh sáng đèn hơi natri, bên cạnh một chiếc station wagon hiệu Chevrolet màu kem bóng loáng. Đứa bé trai ngồi ghế phía trước, đang chờ ai đó trong cửa hàng. Tina chỉ có thể nhìn thấy một bên mặt của cậu bé, đủ để cô há hốc nhận ra trong đau đớn.

Danny.

Cậu bé khoảng độ mười hai tuổi, bằng tuổi với Danny. Mái tóc đen dày như của Danny, cái mũi y hệt Danny, và một khuôn cằm khá thanh mảnh cũng giống Danny.

Tina thầm gọi tên con trai mình, như thể lo sợ nếu gọi to hơn sẽ làm dáng hình yêu dấu này tan biến.

Không biết cô đang chăm chú nhìn mình, cậu bé đưa một tay lên miệng và cắn nhẹ vào khớp đốt ngón tay cái, giống như Danny đã bắt đầu làm khoảng một năm trước khi chết. Tina đã cố gắng phá bỏ thói quen xấu đó của con nhưng không thành công.

Giờ đây khi quan sát đứa bé này, dường như sự giống nhau giữa nó và Danny còn hơn cả sự trùng hợp ngẫu nhiên. Đột nhiên Tina nghe thấy từng tiếng thình thịch của tim mình, còn miệng thì trở nên khô khốc và chua chát. Cô vẫn chưa thích nghi được với nỗi mất mát đứa con độc nhất của mình, bởi vì bản thân không bao giờ muốn – hay thử – làm quen với nó. Việc chấp nhận sự giống nhau giữa cậu bé này với Danny rất dễ khiến Tina lầm tưởng rằng nỗi mất mát từ đầu đã không tồn tại.

Có thể… có thể cậu bé này chính là Danny. Tại sao lại không nhỉ? Càng suy xét thì câu chuyện càng có vẻ ít điên rồ hơn. Xét cho cùng, cô chưa bao giờ nhìn thấy thi thể của con. Cảnh sát và những người mai táng đã khuyên rằng không nên nhìn vì cơ thể Danny đã bị rách toạc và giập nát một cách khủng khiếp. Rợn người và kiệt sức vì đau buồn nên cô đã làm theo lời khuyên của họ, tang lễ của Danny đã được cử hành với quan tài đóng kín nên những người đưa tiễn không thể nhìn mặt cậu lần cuối. Biết đâu họ đã nhầm khi nhận diện thi thể. Danny có thể đã không chết trong vụ tai nạn. Có lẽ cậu chỉ bị một chấn thương nhẹ ở đầu nhưng nghiêm trọng vừa đủ để bị… mất đi ký ức. Đúng rồi. Mất trí nhớ. Có lẽ trong vô thức Danny đã rời khỏi chiếc xe buýt vỡ nát và được tìm thấy cách xa hiện trường vụ tai nạn hàng dặm đường, không có giấy tờ tùy thân, không thể nói cho ai biết mình là ai hay từ đâu đến. Hoàn toàn có thể, đúng không? Cô đã từng xem những câu chuyện tương tự trong các bộ phim. Chắc chắn rồi. Mất trí nhớ. Và nếu quả đúng như vậy thì có thể người ta đã đưa cậu bé đến một trung tâm cứu trợ trẻ em để bắt đầu cuộc sống mới. Và rồi bây giờ Danny ngồi trong một chiếc wagon hiệu Chevrolet màu kem, đang được mang đến trước mặt cô nhờ định mệnh và nhờ…

Ý thức được cái nhìn chằm chằm nên cậu bé quay mặt về phía Tina. Cô nín thở khi khuôn mặt ấy chầm chậm hướng về phía mình. Khi nhìn nhau qua hai lớp kính cửa sổ và ánh sáng kỳ lạ của đèn huỳnh quang, Tina có cảm giác như thể họ đang giao tiếp xuyên qua một vực thẳm mênh mông của không gian, thời gian và định mệnh. Nhưng rồi sự thật không thể khác, ảo ảnh của cô tan vỡ vì cậu bé không phải là Danny.

Rời mắt khỏi cậu bé và tập trung vào đôi tay, Tina nhận ra mình đang ghì chặt vô-lăng đến mức khiến tay tê nhức.
“Chết tiệt.”

Cô giận dữ với chính mình. Thường tự cho mình là người phụ nữ có trình độ, luôn điềm tĩnh, cứng cỏi và có thể đương đầu với bất kỳ thử thách nào trong đời, thế mà cuộc sống của Tina đã bị xáo động vì vẫn mãi không thể chấp nhận cái chết của Danny.

Theo sau cú sốc ban đầu, cô đã phải bắt đầu đối phó với sang chấn tâm lý hậu tang lễ. Dần dần, ngày qua ngày, tuần nối tiếp tuần, cô đã để Danny lại phía sau với nỗi tiếc thương, với cảm giác tội lỗi, với nước mắt pha lẫn nhiều cay đắng, nhưng cũng có lòng quyết tâm và kiên định. Trong năm vừa qua cô đã đạt được nhiều bước tiến trong sự nghiệp, và nhờ cậy guồng quay công việc tất bật như một loại thuốc morphine1 để làm vơi bớt nỗi đau cho đến khi vết thương lành hẳn.

Thế rồi một vài tuần mới đây thôi, cô lại bắt đầu rơi vào lại tình trạng khủng khiếp đã từng nhấn chìm mình ngay khi vừa nhận hung tin. Sự cự tuyệt của cô cương quyết đến mức phi lý. Một lần nữa, cô lại bị chấp niệm ám ảnh rằng con mình còn sống. Thời gian đúng ra phải làm vơi bớt nỗi thống khổ của cô, nay lại kéo cô quay về với sự đau thương. Cậu bé trong chiếc station wagon này không phải người đầu tiên cô lầm tưởng là Danny; trong những tuần gần đây, Tina đã nhìn thấy đứa con trai đã mất của mình trong nhiều chiếc xe khác, ở những sân trường mà cô lái xe ngang qua, trên tuyến đường dãy phố, hay giữa một rạp chiếu phim.

Ngoài ra, gần đây một giấc mơ về chuyện Danny vẫn còn sống cứ lặp đi lặp lại làm cho cô phiền muộn. Mỗi lần như vậy, Tina không thể đối mặt với thực tại suốt vài giờ sau khi thức giấc. Cô cứ ngờ ngợ giấc mơ là điềm báo trước rằng rồi một ngày Danny sẽ trở lại với mình, bằng cách nào đó mà cậu bé đã sống sót và sẽ sớm quay về trong vòng tay của cô.

Đó là một hình ảnh tưởng tượng ấm áp tuyệt vời, nhưng cô không thể duy trì nó được lâu. Mặc dù Tina luôn chống cự, nhưng sự thật nghiệt ngã vẫn dần dần len lỏi, liên tục hạ gục cô không thương xót, buộc cô phải thừa nhận rằng giấc mơ không phải là điềm báo. Tuy nhiên, Tina biết rằng khi giấc mơ lại đến với mình, cô sẽ tìm thấy nguồn hy vọng mới như đã từng có rất nhiều lần trước đây.

Nhưng chuyện đó không ổn chút nào.

Bệnh thật, cô tự mắng mình.

Cô liếc nhìn chiếc station wagon và thấy cậu bé vẫn đang nhìn mình chòng chọc. Rồi cô trừng trừng nhìn hai bàn tay đang ghì chặt của mình và cố buông tay khỏi vô-lăng.

Đau buồn có thể khiến con người ta phát điên. Cô đã nghe nói vậy và tin điều đó, nhưng không cho phép nó xảy đến với mình. Cô sẽ đủ cứng rắn để giữ kết nối với thực tại – cho dù thực tại có phũ phàng thế nào đi nữa. Cô không thể tự cho phép mình nuôi dưỡng hy vọng.

Cô yêu Danny bằng cả tâm can, nhưng cậu đã bỏ cô mà đi. Bị rách toạc và giập nát trong một tai nạn xe buýt với mười bốn cậu bé khác, chỉ là một nạn nhân của một thảm kịch lớn hơn. Biến dạng đến mức không thể nhận ra. Chết.

Lạnh lẽo.

Thối rữa.

Trong quan tài.

Dưới mộ sâu.

Mãi mãi.

Môi run rẩy. Cô muốn khóc, cần được khóc, nhưng đã kìm được.

Đứa bé trai trong chiếc Chevy đã mất hứng thú với cô. Cậu bé lại đang chăm chú nhìn vào mặt tiền của cửa hiệu tạp hóa và chờ đợi.

Tina rời chiếc Honda của mình. Trời đêm mát mẻ một cách dễ chịu, khí hậu khô-sa-mạc. Cô hít một hơi thật sâu và bước vào cửa hàng. Không khí trong đó làm cô lạnh đến thấu xương, cộng thêm ánh đèn huỳnh quang sáng chói và không gian quá trống trải nên khó có thể khơi gợi trí tưởng tượng.

Cô mua một quart sữa không béo và ổ bánh mì còn nguyên cám cắt mỏng sẵn cho người ăn kiêng, vì mỗi lát chỉ chứa nửa lượng calorie1 của một lát bánh mì thông thường. Tuy không còn là vũ công nữa mà làm việc ở khâu sản xuất chương trình trong hậu trường, nhưng cô vẫn cảm thấy thể chất và tâm lý mình tốt nhất khi cân nặng không vượt quá thời còn là một nghệ sĩ biểu diễn.

Năm phút sau cô đã về đến nhà. Đó là căn nhà trệt nằm khiêm tốn trong một khu phố yên tĩnh. Những cây ô-liu và tràm gió uể oải lay động trong làn gió nhẹ phảng phất của hoang mạc Mojave.

Tina vào bếp nướng hai lát bánh mì, phết lên đó một lớp mỏng bơ đậu phộng, rót một ly sữa không béo và ngồi vào bàn.

Dù đặc biệt kén ăn nhưng bánh mì nướng bơ đậu phộng là một trong những món ưa thích của Danny từ khi mới chập chững biết đi. Khi còn rất nhỏ cậu đã gọi nó là “pơ dậu phọng”.

Giờ đây vừa nhắm mắt vừa nhai bánh mì nướng, Tina vẫn có thể nhìn thấy hình ảnh của Danny – mới ba tuổi đầu, miệng và cằm lấm lem bơ đậu phộng – cười toe toét bập bẹ, Bánh mì nướng pơ dậu phọng nữa, nữa đi mà.

Giật mình mở mắt vì hình ảnh của con trai trong tâm trí cô quá sống động, nó giống ảo ảnh hơn là ký ức. Ngay lúc này cô không muốn nhớ rõ ràng đến vậy.

Nhưng đã quá muộn. Trái tim se thắt lại trong lồng ngực, môi bắt đầu run rẩy, và Tina gục đầu xuống bàn. Cô khóc.

*

Đêm hôm đó Tina lại mơ thấy Danny còn sống. Bằng cách nào đó. Ở một nơi nào đó. Còn sống. Và cậu cần cô.

Trong giấc mơ, Danny đang đứng ở rìa một hẻm núi sâu không đáy, còn Tina thì ở phía bên kia, đối diện với cậu, nhìn qua vực thẳm mênh mông. Danny đang gọi cô. Cậu bé cô đơn và sợ hãi. Tina đau khổ vì không thể nghĩ ra cách nào để đến với con mình. Trong khi đó, bầu trời ngày càng tối sầm lại; những đám mây dông to lớn như nắm tay siết chặt của những người khổng lồ trên trời đã vắt cạn tia sáng cuối ngày. Tiếng khóc của Danny hòa cùng giọng của cô càng lúc càng trở nên chói tai và tuyệt vọng, vì biết rằng nếu không gặp được nhau trước khi màn đêm buông xuống thì họ sẽ chia xa mãi mãi; trong màn đêm đang đến, một cái gì đó đang rình rập Danny, một thứ đáng sợ sẽ tóm chầm lấy nếu cậu chỉ có một mình giữa đêm tối. Đột nhiên, chớp giật đảo lộn bầu trời, rồi đến một tiếng sấm nổ kinh hoàng và màn đêm bất thình lình sập xuống tối đen, bóng tối mịt mù và vô tận.

Tina Evans ngồi thẳng dậy trên giường, cô tin chắc đã nghe thấy một tiếng động trong nhà. Nó không đơn thuần là tiếng sấm đến từ giấc mơ. Âm thanh mà cô nghe thấy phát ra khi cô đã tỉnh thức, một tiếng động thật sự chứ không phải do tưởng tượng.

Cô chăm chú lắng nghe, sẵn sàng tung chăn và bước khỏi giường. Im lặng ngự trị không gian.

Dần dần sự nghi ngờ bắt đầu len lỏi. Thời gian gần đây cô vẫn hay bị giật mình. Đêm nay không phải là đêm đầu tiên cô bị huyễn hoặc về một kẻ đột nhập đang rình rập ngôi nhà của mình. Bốn hoặc năm lần trong suốt hai tuần qua, cô đã lấy khẩu súng lục ở tủ đầu giường và lục soát căn nhà, từng phòng một, nhưng không tìm thấy ai cả. Gần đây cô đã phải chịu rất nhiều áp lực cả về đời sống riêng tư lẫn nghề nghiệp. Có lẽ những gì nghe thấy đêm nay chỉ là tiếng sấm nổ ra trong giấc mơ.

Tina vẫn cảnh giác trong vài phút, nhưng đêm thật yên bình nên cuối cùng phải thừa nhận là trong nhà chỉ có mình cô. Khi nhịp tim chậm dần, cô lại nằm xuống gối.

Những lúc như vậy cô lại ước mình và Michael vẫn còn bên nhau. Cô nhắm mắt lại và tưởng tượng đang nằm bên cạnh rồi xích lại gần anh trong bóng tối, đụng chạm, vuốt ve, áp người vào và nằm trong vòng tay che chở của anh. Michael sẽ dỗ dành và trấn an cho đến khi giấc ngủ của cô quay trở lại.

Dĩ nhiên, nếu cô và Michael đang ở trên giường ngay lúc này thì tình thế lại khác hoàn toàn. Họ sẽ không làm tình. Họ sẽ cãi nhau. Anh ta sẽ cưỡng lại tình cảm của cô, xua đuổi cô bằng cách gây sự. Anh ta sẽ khơi mào từ một chuyện không đâu rồi trêu tức cô cho đến khi chuyện cãi nhau vặt vãnh leo thang thành cuộc chiến hôn nhân. Đó là những gì đã diễn ra trong mấy tháng cuối cùng họ ở bên nhau. Anh ta luôn sôi sục tâm lý thù địch và kiếm cớ trút giận lên cô.

Tình yêu sâu đậm khiến Tina tổn thương và đau buồn khi mối quan hệ của họ đổ vỡ. Nhưng phải thừa nhận là cô có phần cảm thấy nhẹ nhõm vì cuối cùng nó cũng chấm dứt.

Cô đã mất cả con lẫn chồng trong cùng một năm, người đàn ông rồi đến thằng bé, đứa con trai nằm dưới mộ sâu và người chồng đổi dạ thay lòng. Trong mười hai năm hôn nhân, Tina đã trở thành một con người khác và phức tạp hơn chính cô trong ngày cưới của họ, nhưng Michael thì chẳng hề thay đổi chút nào – và lại không thích con người mới của cô. Họ bắt đầu như những người tình, chia sẻ mọi chuyện trong cuộc sống thường nhật – thành công và thất bại, niềm vui và sự thất vọng – nhưng khi ly hôn xong, họ đã trở thành hai người xa lạ. Mặc dù Michael vẫn đang sống trong thành phố, chỉ cách cô không đầy một dặm (1,6km), nhưng ở một khía cạnh nào đó, anh ta cũng xa cách và không thể chạm tới giống như Danny.

Cô thở dài cam chịu và mở to đôi mắt.

Bây giờ tuy không còn buồn ngủ nữa, nhưng Tina biết mình cần phải nghỉ ngơi nhiều hơn. Cô cần phải tươi tắn và tỉnh táo vào sáng mai.

Ngày mai là một trong những ngày trọng đại nhất đời cô: 30 tháng Mười hai. Bình thường ngày đó chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt cả. Nhưng ngày 30 tháng Mười hai này chính là dấu mốc cho toàn bộ tương lai của cô dù thế nào chăng nữa.

Trong mười lăm năm, kể từ khi cô vừa tròn mười tám tuổi, hai năm trước khi kết hôn với Michael, Tina Evans đã sống và làm việc ở Las Vegas. Cô khởi nghiệp với vai trò vũ công – không phải showgirl1 mà là một vũ công thực thụ cho Lido de Paris, một chương trình biểu diễn trên sân khấu hoành tráng tại Khách sạn Stardust. Lido là một trong những chương trình biểu diễn xa hoa và lãng phí khó tin đến mức không thể tìm thấy ở bất kỳ nơi nào trên thế giới ngoài Vegas, vì chỉ ở Vegas mới có một chương trình trị giá hàng triệu đô-la có thể được tổ chức từ năm này qua năm nọ mà chẳng quan tâm mấy đến lợi nhuận; những khoản tiền kếch xù như vậy đã được chi cho các màn dàn dựng công phu và những bộ trang phục trau chuốt, cũng như cho dàn diễn viên và ê-kíp sản xuất đông đảo, miễn là doanh thu từ bán vé và đồ uống đủ bù cho chi phí sản xuất thì khách sạn thường vẫn hài lòng. Rốt cuộc cũng chẳng có gì kỳ lạ vì chương trình chỉ là sự quyến rũ, chèo kéo với mục đích duy nhất là đưa vài ngàn người vào khách sạn mỗi đêm. Khi đến cũng như khi rời khỏi khán phòng, đám đông phải băng qua tất cả các bàn xí ngầu, bàn xì dách và cò quay roulette cũng như những dãy máy đánh bạc lấp lánh, và đó mới chính là nơi tạo ra lợi nhuận. Tina yêu thích công việc nhảy múa với Lido, và cô đã gắn bó hai năm rưỡi cho đến khi biết mình có thai. Cô đã xin nghỉ để dưỡng thai, sinh Danny và dành toàn bộ thời gian ở bên con trong những tháng đầu đời. Khi Danny được sáu tháng tuổi, Tina bắt đầu tập luyện để lấy lại vóc dáng và giành được vị trí trong dàn hợp xướng của một chương trình biểu diễn mới ở Vegas sau ba tháng miệt mài luyện tập. Cô đã xoay xở để vừa là một vũ công giỏi vừa là một người mẹ tốt, mặc dù điều đó không phải lúc nào cũng dễ dàng; thương yêu Danny và đam mê công việc của mình, cô đã chu toàn cả hai nhiệm vụ.

Tuy nhiên, cách đây năm năm, vào dịp sinh nhật lần thứ hai mươi tám của mình, cô bắt đầu nhận ra là mình chỉ còn, nếu may mắn, mười năm để làm một vũ công biểu diễn, nên cô đã quyết định lập nghiệp trong vai trò khác để tránh bị đào thải ở tuổi ba mươi tám. Cô nhận được vị trí biên đạo múa cho một chương trình kịch thời sự bèo bọt, một kiểu bắt chước rẻ tiền đầy ảm đạm so với Lido trị giá hàng triệu đô-la, và cuối cùng kiêm luôn cả phần việc của người lo trang phục. Rồi cô chuyển qua một loạt vị trí tương tự trong các rạp lớn hơn, sau đó là trong các khán phòng nhỏ với bốn hoặc năm trăm chỗ ngồi ở các khách sạn hạng hai với ngân sách chương trình hạn hẹp. Có lúc cô chỉ đạo kịch thời sự, rồi lại xoay qua sản xuất cái này chỉ đạo cái kia. Cô ngày càng được nể trọng trong thế giới giải trí dây mơ rễ má của Vegas, và tin rằng mình đang gần kề với thành công hơn bao giờ hết.

Gần một năm trước, ngay sau cái chết của Danny, Tina đã được mời chào công việc chỉ đạo và hợp tác sản xuất một chương trình khổng lồ trị giá mười triệu đô-la sẽ được dàn dựng trong khán phòng chính hai-ngàn-chỗ-ngồi của Golden Pyramid, một trong những khách sạn lớn nhất và sang trọng nhất ở Dải1. Lúc đầu, quả thật trái ngang vì một cơ hội tuyệt vời như thế lại đến trước khi cô có đủ thời gian để khâu vá vết thương của mình, như thể định mệnh thật quá hời hợt và vô cảm khi cho rằng có thể an bài và bù đắp cho cái chết của Danny chỉ bằng cách trao tặng cho cô cơ hội việc làm trong mơ. Thế nhưng, dù đang cay đắng và chán nản – hoặc cũng có thể là vì – cảm thấy hoàn toàn trống rỗng và vô dụng, cô đã nhận lời.

Chương trình mới có tên gọi là Magyck! bởi vì các tiết mục tạp kỹ xen lẫn những tiết mục nhảy múa đều là các màn ảo thuật, vả lại bản thân những tiết mục đồng diễn này tập trung vào các hiệu ứng đặc biệt công phu và được xây dựng xung quanh chủ đề siêu nhiên. Lắt léo chữ nghĩa trong tên gọi không phải là ý tưởng của Tina, nhưng hầu hết phần còn lại của chương trình là sáng tạo của riêng cô, và cô vẫn luôn hài lòng với thành quả của mình. Cũng kiệt sức nữa. Cả năm nay vụt trôi với mười hai đến mười bốn giờ làm việc mỗi ngày, chẳng có kỳ nghỉ mà cũng hiếm khi được nghỉ cuối tuần. Tuy nhiên, dù bận tâm cho Magyck! nhiều như thế, cô vẫn hết sức khó khăn trong việc chấp nhận cái chết của Danny. Cách đây một tháng, lần đầu tiên cô nghĩ rằng cuối cùng mình cũng đã bắt đầu vượt qua được nỗi đau buồn. Cô có thể nhớ đến con mà không tuôn nước mắt, đến thăm mộ con mà không còn bị mất tự chủ vì tiếc thương. Sau khi cân nhắc mọi chuyện, cô cảm thấy khá hơn, thậm chí có phần nào đó phấn khởi. Cô sẽ không bao giờ quên Danny, đứa trẻ ngọt ngào đó là một phần to lớn của cô, nhưng cô không còn phải sống cuộc đời quanh quẩn với khoảng trống mà cậu để lại. Vết thương lòng đã lành lặn tuy vẫn còn nhạy cảm với nỗi đau.

Đó là suy nghĩ của Tina một tháng trước đây. Trong một hoặc hai tuần qua cô ngày càng tiến bộ và dần học cách chấp nhận sự thật. Thế nhưng những giấc mơ mới lại bắt đầu, hơn nữa chúng còn tồi tệ hơn hàng loạt cơn ác mộng đã đến với cô ngay sau khi Danny chết.

Có lẽ những trăn trở về phản ứng của công chúng với Magyck! khiến cô nhớ lại mối lo âu lớn hơn về Danny.

Trong chưa đầy mười bảy giờ nữa – vào lúc tám giờ đêm ngày 30 tháng Mười hai – Khách sạn Golden Pyramid sẽ trình diễn một buổi ra mắt đặc biệt dành cho khách mời VIP1 xem Magyck!, và ngay đêm sau, đêm Giao thừa, chương trình sẽ mở cửa đón công chúng. Nếu phản ứng của khán giả nhiệt tình và tích cực như Tina hy vọng, tương lai tài chính của cô sẽ được đảm bảo, vì theo hợp đồng cô sẽ nhận được hai chấm năm phần trăm trên tổng doanh thu, trừ doanh số bán rượu, sau năm triệu đầu tiên. Nếu Magyck! thành công và chiếm lĩnh sân khấu trong bốn hoặc năm năm, như đôi khi xảy ra với các chương trình thành công khác ở Vegas, cuối cùng cô sẽ lên hàng triệu phú. Tất nhiên, nếu sản phẩm là một thất bại, nếu nó không làm thỏa mãn khán giả, sự nghiệp của cô có thể sẽ xuống dốc và trở lại làm việc trong các rạp nhỏ một lần nữa. Ngành nghề biểu diễn, dù dưới bất kỳ hình thức nào, là một công việc tàn nhẫn.

Rõ ràng cô có lý do xác đáng để mà lo lắng. Nỗi sợ hãi đến ám ảnh của cô về những kẻ đột nhập vào nhà, những giấc mơ đầy bất an về Danny, sự đau buồn trở lại của cô – tất cả những điều này có thể nảy sinh từ nỗi trăn trở về Magyck!. Nếu quả đúng như vậy thì các triệu chứng đó sẽ biến mất ngay sau khi số phận của chương trình được định đoạt. Chỉ cần cố gắng vượt qua trong vài ngày tới, với tâm trạng phần nào thanh thản sau đó, cô có thể tự chữa lành vết thương cho mình.

Trước tiên cô buộc phải ngủ đôi chút. Vào lúc mười giờ sáng mai, cô có lịch hẹn gặp hai đại lý điều hành tour đang có ý định đặt trước tám ngàn vé cho Magyck! trong ba tháng đầu biểu diễn. Sau đó vào lúc một giờ, toàn bộ dàn diễn viên và ê-kíp sản xuất sẽ tập hợp lại để tổng duyệt lần cuối.

Cô giũ gối, trải lại khăn giường và tròng vào chiếc áo ngủ ngắn của mình. Cô cố gắng thư giãn bằng cách nhắm mắt lại và hình dung một cơn thủy triều đêm đang dịu dàng vỗ về bờ biển ánh màu bàng bạc.

Cạch!

Cô ngồi phắt dậy trên giường.

Có một thứ gì đã bị ngã đổ đâu đó trong nhà. Hẳn nó phải là một vật thể hình dạng to lớn bởi vì âm thanh phát ra đủ lớn để đánh thức cô dậy mặc dù đã bị các bức tường ngăn cách bao bọc.

Dù có là gì đi nữa… nó cũng không đơn giản tự ngã đổ. Nó đã bị va đụng. Những vật thể to nặng không thể tự ngã đổ trong căn phòng vắng.

Cô nghiêng đầu, chăm chú lắng nghe. Một âm thanh khác nhẹ hơn theo sau tiếng động trước. Tuy kéo dài không đủ lâu để Tina xác định được nguồn gốc nhưng nó có vẻ gì đó lén lút. Lần này mối đe dọa không phải do cô tưởng tượng ra nữa. Ai đó thực sự đang ở trong nhà.

Cô bật đèn ngay khi ngồi bật dậy trên giường. Mở ngăn kéo của chiếc tủ đầu giường. Khẩu súng lục đã được lắp đạn sẵn. Cô mở hai chốt an toàn.

Dừng lại nghe ngóng một lát.

Trong sự tĩnh mịch của đêm sa mạc, Tina tưởng như mình có thể cảm nhận được kẻ xâm nhập cũng đang lắng nghe, lắng nghe cô.

Cô bước xuống khỏi giường và xỏ chân vào đôi dép lê.

Cầm súng bằng tay phải, cô lặng lẽ đến bên cửa phòng ngủ.

Cô có cân nhắc việc gọi cảnh sát, nhưng sợ sẽ tự biến mình thành một kẻ ngốc. Mọi chuyện sẽ ra sao nếu họ đến, với đèn chớp nháy và còi hụ inh ỏi – và rồi chẳng tìm thấy ai? Suốt hai tuần qua nếu cô cứ viện đến cảnh sát mỗi khi nghĩ rằng mình nghe thấy một kẻ rình mò trong nhà, có lẽ họ chẳng mất nhiều thời gian để kết luận cô là một kẻ thần kinh có vấn đề. Vì kiêu hãnh nên Tina không thể chịu đựng nổi suy nghĩ mình xuất hiện với vẻ hoảng hốt trước mặt hai gã cớm có nụ cười nhăn nhở, để rồi sau đó trong khi nhâm nhi bánh rán và cà phê, họ sẽ đem cô ra làm trò cười. Cô phải tự mình lục soát ngôi nhà, chỉ mình cô mà thôi.

Hướng khẩu súng lên trần nhà, cô lên đạn.

Hít một hơi thật sâu, cô mở khóa cửa phòng ngủ và bước nhẹ ra hành lang.

(Còn tiếp)

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trích đăng

Vài chuyện linh tinh mà cây cối dạy cho mình về tình yêu – Trích “Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành”

Published

on

Trích từ: Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành
Tác giả: Anh Khang
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Có một dạo, cứ mỗi lần nhớ người thương cũ, mình lại đi mua một cái cây, về trồng ngoài ban công.

Thói quen ấy đều đặn thành nếp sống. Đến một ngày, trước cửa sổ phòng, đã là cả một khu vườn nho nhỏ xinh xanh.

Những buổi sáng, tỉnh dậy, nắng len qua ô kính, dụi mắt đánh thức mình. Điều đầu tiên mình nhìn thấy, là cả một khoảng trời xanh mướt của từng phiến lá khẽ đung đưa, như vẫy tay chào, và bảo: “Ê, ngày mới tới rồi. Đừng nằm lì ở ngày hôm qua nữa. Dậy đi tưới cây, ngắm nắng, tỉa lá, chăm hoa,... Vườn nhà biết bao việc. Nằm đó nhớ nhung gì!”.

Đó là khi mình nhận ra, sau rất nhiều năm tháng chia tay, điều đầu tiên mình nghĩ đến khi thức dậy, không còn là người ấy nữa.

Mình bắt đầu nghĩ về bổn phận của một người làm vườn có trách nhiệm với mầm xanh trước cửa, của một người “nông dân cày xới trên mảnh đất tinh thần”. Và nhất là, không còn nghĩ về danh phận mà mình đã truy cầu suốt thời tuổi trẻ, khiến xói mòn tiêu hao rất nhiều “hạt giống niềm tin” vào quả ngọt mang tên “tình yêu” chưa bao giờ kết trái.

Hồi xưa, mình từng cho rằng bản thân chẳng có tay trồng cây, mọi hạt giống gieo xuống đều chẳng nảy lên xanh. Cũng giống như bản tính thích yêu và được-yêu, nhưng lại chẳng có duyên với mấy chuyện yêu đương. Nhưng, nhờ những ngày tháng hiện tại, bầu bạn cùng cỏ cây, quanh quẩn bên hoa lá, chăm chút từng mầm xanh,... mình học thêm được vài bài học mới, vài cách nghĩ khác đi, từ “người thầy” xanh màu diệp lục tố.

Như là, tại sao cứ mặc định bản thân là “vô năng bất khả”, tại sao cứ hạn định mọi nỗ lực và cố gắng của chính mình?

Dù là chuyện trồng cây.

Hay là chuyện yêu đương cũng thế.

#1

Càng bớt cố chấp, càng đỡ mệt thân

Mình có một chấp niệm, với cây hương thảo.

Loài thảo mộc bản địa của vùng Địa Trung Hải, vốn đã theo chân mình suốt dặm đường rong ruổi hồi trẻ qua biết bao thành phố ở vùng cựu lục địa. Thế nên, một trong những chậu cây đầu tiên mà mình mang về khu vườn nhỏ của mình, hiển nhiên, phải là hương thảo.

Dù đã được nhiều người chủ vựa cây kiểng dặn dò về thuộc tính đỏng đảnh “ưa nước nhưng ghét ẩm”, “thích nắng nhưng sợ hạn” của loài cây thơm lừng từ ngọn tới lá này, mình vẫn một mực tìm mua đủ mọi giống hương thảo. Từ loại giâm cành chiết ngọn ở miền Bắc đến miền Tây, rồi cả giống cây thuần khí hậu miền Nam, hay được dưỡng thân hóa gỗ thành dáng bonsai vững vàng...

Nhưng bất kể bao cố gắng kiên trì của mình, thì không một chậu cây hương thảo nào chịu sống đời dai dẳng, ở lại bên mình dài lâu được cả.

Mình càng cố, thì kết quả, vẫn chỉ là cành khô ngọn rủ, từng bụi hương thảo cứ thế héo hắt rời đi. Vì nhiều lý do, từ giá thể thổ nhưỡng đến vị trí trồng trọt, và còn hằng hà sa số điều kiện thiên thời địa lợi đã không thể chiều lòng chấp niệm “trồng hương thảo” của mình.

Không phải mình cứ cố gắng là sẽ đạt được ý nguyện ban đầu. Có những thứ mà ngay từ đầu, có lẽ, đã là chấp niệm viển vông của riêng bản thân. Chứ chẳng thể thành toàn viên mãn.

#2 

Nếu đã là duyên phận thuộc về bạn,

cơ bản bạn chẳng cần làm gì cũng viên mãn

Vẫn tiếp tục câu chuyện về hương thảo.

Trong rất nhiều bụi hương thảo đã bỏ mình đi, thì duy nhất, trong vườn còn lại một bụi thơm lừng, bền bỉ tỏa hương, nhẫn nại vươn cành.

Ban đầu, đây vốn chỉ là một bầu cây nhỏ xíu mình mua hú họa, chẳng dụng công trồng hay đặt nhiều hy vọng. Tiện tay, ướm vào chậu treo, thấy vừa khít, nên tùy ý móc lên mái tôn trước bệ cửa sổ. Ai ngờ, cây hương thảo bé nhỏ chẳng được chăm chút mấy, lại trở thành loài thảo mộc ở lại bên mình kiên tâm lâu dài nhất.

Ngẫm lại, cả khu vườn trải qua bao mùa cây cối tụ tán, hoa lá nở tàn, thì chỉ có duy nhất cây hương thảo treo đó, vẫn cam tâm tình nguyện cùng mình kết một đoạn duyên phận, lặng lẽ nhưng thâm tình, bình đạm nhưng thành tâm.

Để bây giờ, mỗi lần mở cửa sổ, hương thơm the mát vương mùi thảo mộc, thoảng đầy ý vị bình an, cứ thế len lỏi khắp phòng.

#3

Yêu thương khi không thấu hiểu,

chỉ gây thêm gánh nặng cho người mình yêu

Có một lần, quá nôn nóng vì cây hạnh ngọt chưa chịu ra hoa và hoa rụng trước kỳ đậu quả, mình bèn mua đủ loại phân bón.

Khỏi nói cũng biết kết quả. Mình, chẳng chịu tìm hiểu kỹ lưỡng nguyên tắc dưỡng trồng, cứ vung tay quá trớn, sơ sẩy thiển cận. Thành ra, cây hạnh ngọt đang li ti hoa trắng, ngấp nghé vài quả non, chỉ sau một đêm, lập tức khô khốc trụi cành, hoàn toàn héo rũ.

Sau đó, mới nhận ra bản thân đã sai ngay từ đầu, trong những khâu cơ bản như tìm hiểu, chọn lựa thành phần, chế độ, liều lượng,... của các loại chế phẩm chăm cây. Hóa ra, chính sự yêu thương thiếu kiến thức của mình đã đẩy đối tượng mình yêu thương (là cái cây) đi đến chỗ đang xanh-màu thành xanh-cỏ.

Tình yêu, suy cho cùng, nếu thiếu đi sự thấu hiểu, sẽ chẳng thể đồng hành lâu dài, giúp nhau tăng tiến. Mù quáng trao đi yêu thương mà không nhận thức rõ ràng đâu là đủ-thiếu, đâu là đúng-sai, thì chỉ chuốc thêm đau lòng cho chính mình và phiền lòng cho người mình yêu.

#4

Có những kết thúc chính là để bắt đầu

Có mấy chậu cây, mình chăm dữ lắm, nhưng cứ được vài tháng là bắt đầu vàng lá mục cành.

Mình, bắt đầu chấp nhận sự đến-đi của vô thường, ngay cả cây cối cũng đâu thể tránh khỏi thành-trụ-hoại-không. Định bụng, chào cái cây lần cuối, xong sẽ bỏ đất, thay chậu, chôn cây, cho xong một vòng tuần hoàn của đời thảo mộc. Ai dè, ngay kế cành cây sắp mục ruỗng ngã đổ, một mầm xanh bé xíu đang gắng sức vươn lên. Chiếc lá non xanh biếc, giống hệt dáng hình của chiếc lá đang ngả vàng của nhánh cây héo rũ kế bên. Một sự tiếp nối, lặng lẽ diễn ra. Những mầm xanh bé nhỏ, còn bền bỉ tách đất vươn lên. Huống hồ tuổi trẻ, vốn chẳng có một giới hạn nào, sao chúng ta lại cứ ngại, sợ? Có kết thúc nào là mãi mãi dừng lại ở đó đâu, khi đằng sau nó luôn là cả một khởi đầu miên viễn. Bạt ngàn. Vô tận.

Đời sống luôn là một bản trường ca mà khi một nốt trầm lặng xuống thì chính là báo hiệu một đoạn tấu khúc réo rắt sắp bắt đầu khởi xướng.

#5

Rừng xanh nào cũng bắt đầu từ hoang sơ

Có những hôm trời bất chợt đổ mưa. Ngó ra khoảng không xanh mướt mắt đang ướt đẫm trong màn nước trong vắt bên ngoài. Mình bỗng mềm lòng, nhớ lại. Chỉ mới vài tháng trước, khoảnh sân này chỉ là một mái tôn trơ trọi xám lạnh. Giờ đã thành vườn xanh. Mấy bông hoa chanh đã đậu quả thành trái non lúc lỉu trên cành. Mấy trái tắc mới vài tuần trước còn li ti như những hạt sương lấm tấm xanh xanh giờ đã tượng hình thành trái múp míp. Và cả bụi hoa hồng đã rụng hết đợt hoa bừng sắc tháng trước, đến nay cũng đã ươm mầm mới nở thành nụ phơn phớt dịu dàng.

Và cái đứa từng nghĩ rằng bản thân không có tay trồng cây, không có thể ươm xanh nụ mầm... sau tất cả, cũng đã tự tay có được khu vườn của riêng mình.

Chỉ cần mình chịu bắt đầu. Từ một việc đơn giản nhất. Là gieo mầm. Thay vì cứ đứng đó trơ mắt nhìn vào trống trải tiêu sơ.

Trộm nghĩ, một khu rừng rậm rạp cách mấy, cũng đều phải khởi sự từ những nhánh cây mầm cỏ bé nhỏ ban đầu. Nếu không có hoang tàn trơ trọi lúc đó, thì làm sao có hùng vĩ trong lành hôm nay? Điều quan trọng là chúng ta đừng chỉ nhìn chăm chăm vào mớ hỗn độn ngổn ngang rồi chùng lòng chán nản, thoái thác tháo lui, mà phải chấp nhận dấn thân, lao tâm khổ tứ. Dù là trồng rừng, trồng cây, hay là trồng lại hy vọng, niềm tin của chính mình. Vào tình yêu. Vào con người.

#6

Ai rồi cũng sẽ có khoảng trời thuộc về mình

Ngồi viết những dòng này, khi bên ngoài, hoàng hôn vừa xuống. Cảm giác bình yên choáng ngợp trong lòng. Có điều, sự choáng ngợp này, không khiến bản thân kinh hãi, mà chỉ càng làm thấm thía trân trọng thêm khoảnh khắc hiện tại.

Đi khắp Đông-Tây-Nam-Bắc. Trải qua yêu-ghét-thương-hờn. Nếm đủ tụ-tan-ly-hợp. Đến giờ, đã có thể bình thản, một mình, ngồi ngắm hoàng hôn mà trong lòng không còn bất kỳ một lời đồng vọng. Dù là nhớ nhung chuyện cũ. Hay là trách cứ tình xưa.

Hoàng hôn để ôn chuyện cũ. Đã từng nghĩ như vậy suốt thời tuổi trẻ. Thế nên, từng có một giai đoạn bị ám ảnh hoảng loạn với hoàng hôn. Cứ thấy trời chiều, là lo lắng. Cứ thấy nắng tắt, là hoang mang. Bởi lẽ, buổi chiều, đã-từng là khi chúng ta hẹn hò, là khi chúng ta đợi chờ đến lúc gặp nhau, là khi anh cùng em rong ruổi phố phường, đuổi bắt hoàng hôn. Buổi chiều, cũng là khi chim về tổ, người về nhà, là khi ai cũng mong cầu tìm cho mình một chốn về nương náu yên thân.

Thế nhưng, bản thân ở hiện tại, đối diện buổi chiều, lại chỉ thấy bình yên. Một mình hay mấy mình, giờ đã không còn mấy quan trọng. Chỉ biết là trong khoảnh khắc mặt trời le lói, vẫn thấy lòng ngập tràn ánh sáng. Thứ ánh sáng của an vui hỉ lạc, của tự tại tùy duyên.

Hóa ra, huyền cơ của việc thuận theo ý trời, tuân lời thiên mệnh, chỉ nằm trong một khoảnh khắc như thế này.

Đó là nhìn trời chiều, không buồn không tiếc, không nấn ná dây dưa cũng không hối hả sợ sệt. Chỉ thấy biết ơn năm tháng dù hối hả trôi qua, ghi ân thời gian dù vội vã giục giã, nhưng vẫn luôn độ lượng khoan dung dành cho chúng ta một chốn về yên ả.

Anh và em. Tôi và người. Bạn và chúng ta. Tất cả rồi cũng đều sẽ có một khoảng trời riêng. Nơi mưa nắng bão dông đều trở nên dịu dàng. Nơi bình minh hay hoàng hôn đều đầy đặn ánh sáng. Nơi mình hiểu ra nhân duyên đẹp đẽ nhất mà ông trời ban tặng, không phải là gặp đúng ý trung nhân trọn kiếp chung tình, mà là được gặp gỡ và trở thành phiên bản trọn vẹn nhất, tốt đẹp nhất, bình an nhất, của chính mình.

Cũng giống như một cái cây, đâu phải vì muốn kết duyên đôi lứa với một cành cây cọng cỏ nào khác, nên mới sum suê xanh tốt. Cây cối, tự mình vươn cành, vì mình xanh mướt.

Việc của cây là xanh. Không bận tâm vì ai mà tươi tốt. Cũng không vì ai lìa bỏ mà héo tàn.

Vậy nên, việc của chúng ta,

là cứ bình an,

là cứ hạnh phúc.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Cafe sáng