Phía sau trang sách

Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya – Vượt thời gian để tìm một lời khuyên nhiệt thành

Có thể bạn chưa biết: phim điện ảnh Trung Quốc chuyển thể từ bản gốc “Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya” đã ra rạp vào năm 2017 và được đề cử giải Cây Chổi Vàng (giải Mâm Xôi Vàng của Trung Quốc) cho hạng mục Phim tệ nhất năm. Vậy nên mới nói, cứ không phải truyện hay là phim cũng hay nốt ╮( ̄▽ ̄)╭

Published

on

Chi tiết Tác phẩm

Vào những năm 1980, tại thành phố XX thuộc ngoại ô Tokyo, có một lời truyền miệng rằng: Ai có tâm sự hoặc thắc mắc, hãy viết một lá thư giãi bày gửi cho tiệm tạp hóa Namiya. Dù vấn đề có nít ranh hay trái khoáy như thế nào, chủ tiệm là cụ già Namiya Yuji sẽ vui vẻ lắng nghe và gỡ rối hộ bạn. Sáng hôm sau, bạn sẽ nhận được thư giải đáp đặt trong hộp nhận sữa sau nhà.

Ba mươi năm sau thời điểm cụ Yuji qua đời, ba cậu bé Atsuya, Shota và Kouhei tình cờ chạy trốn vào tiệm Namiya sau một phi vụ trộm cắp. Cả ba cậu đều mồ côi, học hành làng nhàng, quá khứ toàn những “thành tích” đập phá và đột nhập trái phép, hiện đang vô công rồi nghề. Cứ tưởng chỉ cần ngủ tạm một đêm trong tiệm Namiya, nào ngờ ba cậu bé đột nhiên nhận được những lá thư nhờ gỡ rối. Đêm hôm khuya khoắt, tiệm thì đã bị bỏ hoang hơn chục năm, ai mà mò đến cái xứ này để gửi thư cơ chứ?

Thì ra những người gửi thư có một thân phận đặc biệt: họ là người từ quá khứ – vâng, bạn không đọc nhầm đâu, họ sống ở thập niên 80 thế kỷ trước, say mê âm nhạc của Beatles, không dùng điện thoại di động và chẳng hề biết đến sự tồn tại của máy tính để bàn. Bằng một phương thức kỳ diệu nào đó, những lá thư nhờ gỡ rối của họ đã vượt thời gian để đến được tay ba cậu bé đang sống tại năm 2012.

Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya tương tự như nhật ký hoạt động của chương trình “Tâm sự đêm khuya” trên radio, nhưng cái chương trình Namiya này thật sự rất kỳ quái, từ MC đến khách mời. Điều kỳ diệu nhất là, cái tổ hợp lạ lùng này sẽ giúp giải đáp những khúc mắc mà bạn đang gặp phải, vì nỗi lòng của những người sống giữa năm 1980 cũng giống như những người sống ở năm 2018 mà thôi.

Cảnh báo: Nội dung dưới đây sẽ tiết lộ một vài tình tiết quan trọng trong truyện, hãy cân nhắc trước khi đọc và đọc rồi thì cấm ném đá. Tui vô tội (づ ̄ ³ ̄)づ

“Nhạc sĩ cửa hàng cá”: khi Ước mơ đối chọi với Trách nhiệm

Ai cũng có một nghìn lẻ một rắc rối. Nhưng rắc rối lớn nhất thường xuất phát từ hai chữ “lựa chọn”.

Gửi tiệm Namiya,

Tôi tên là Matsuoka Katsuro. Tôi đang gặp phải một nan đề khó giải cần sự tư vấn của tiệm. Từ nhỏ đến lớn, tôi đã luôn mơ ước trở thành một nhạc sĩ chuyên nghiệp. Tôi đã bỏ rất nhiều tâm huyết thuyết phục bố mình để ông đồng ý cho tôi học ghi ta, thậm chí tôi bỏ ngang Đại học để cống hiến hết mình cho âm nhạc. Bản thân tôi thấy mình cũng có chút tài năng, nhưng không đủ nổi trội, thứ hào quang tôi sở hữu không đủ rực rỡ và độc nhất để chuyên gia chú ý đến tôi.

Gia đình tôi có một cửa hàng cá truyền thống ba đời, bề ngang rộng 3,64m. Là con trai cả, mọi người kỳ vọng tôi trở về gánh trọng trách tiếp nối cửa hàng, chăm sóc cha mẹ và em gái. Hơn nữa, bà nội tôi vừa mất, cha tôi vì chịu quá nhiều áp lực nên đã lên cơn đau tim. Tôi không biết mình nên phải làm gì, từ bỏ để chịu trách nhiệm với gia đình hay bất chấp tất cả kiên trì với giấc mơ làm nhạc. Tiệm tạp tóa Namiya xin hãy cho tôi một lời khuyên.

Kí tên: “Nhạc sĩ cửa hàng cá” Matsuoka Katsuro.

Cái này quả nhiên là phim giờ vàng Việt Nam.

Phim giờ vàng thường sến súa và phóng đại, nhưng có thể thu hút một lượng lớn khán giả vì từ đấy chúng ta nhìn thấy những rắc rối của chính mình. Ước mơ cá nhân và trách nhiệm gia đình là một nghịch lý lựa chọn của người trẻ tuổi. Ở tuổi 18, chúng ta ngẩng đầu nhìn vùng trời xanh ngắt với ánh mắt hí hửng và ngông nghênh. Ở tuổi 24, sau khi ăn một chút “bánh khổ” rồi, ta vẫn tràn đầy tình yêu và sự lạc quan trước cuộc sống. Ở tuổi 28, ta đột nhiên chững bước và tự hỏi: đâu là vị trí của ta, con đường ta theo đuổi đích đến là gì? Ta có nên cất đi giấc mộng thành thị để quay đầu về quê hương, xây dựng một gia đình nhỏ hay không?

Tôi mới 24 tuổi, tôi không biết trước tương lai của mình. Nhưng bây giờ, tôi vẫn muốn sải cánh bay xa lắm.

Katsuro cũng giống như tôi, thứ nâng cánh cho anh bay xa là đam mê nghệ thuật. Mà đam mê nghệ thuật là một thứ hàng hóa hết sức xa xỉ. Thượng Đế không đánh thuế ước mơ, nhưng nếu bạn mơ sống bằng cây ghi ta hay đầu bút cọ thì Ngài sẽ thu một chút phí trà nước đấy!

Nan đề của Katsuro còn khó khăn hơn nữa khi anh phải đưa ra quyết định ngay lập tức. Cửa hàng cá nhà anh nếu không có người sớm tiếp quản sẽ nhanh chóng suy tàn. Sức khỏe của cha anh đang dần xuống dốc, thời gian không còn nhiều. Katsuro đã suýt thỏa hiệp để từ bỏ.

“Nghĩ lại thì hình như tôi đã ngoan cố theo đuổi giấc mơ. Phần nào đã đi quá xa. […] Tôi nghĩ từ lâu tôi đã biết mình nên làm gì. Chỉ là tôi không đủ quyết tâm để từ bỏ ước mơ thôi. Nói ví von thì đây giống như trạng thái yêu đơn phương. Biết là tình yêu sẽ không thành nhưng lại không thể quên được người ấy.”

Thật may mắn cho Katsuro, vì anh có một người cha hiểu anh còn hơn chính anh.

“Nói thẳng cho mày biết là bố không có ý định để mày tiếp quản cửa hàng đâu. Nếu mày muốn làm nghề cá thì lại là chuyện khác. Nhưng mày đâu có muốn. Tiếp quản với tâm trạng như vậy thì sao có thể làm nghề cá cho tử tế được. Vài năm nữa lại tiếc biết thế theo âm nhạc còn hơn. Đến lúc đó, mày sẽ viện đủ lý do bào chữa rằng tại bố ốm nên mới phải tiếp quản cửa hàng, rằng mày đã hy sinh vì gia đình, mày sẽ đổ lỗi hết cho mọi người mà không chịu chút trách nhiệm nào hết. […] Nếu mày quyết định dành tâm huyết cho một việc đến mức bỏ ngoài tai cả lời bố mẹ thì hãy tạo ra thành quả đi. Việc đó còn chưa làm được mà lại nghĩ có thể bán cá thì đúng là xúc phạm tao quá.”

Katsuro đã đưa ra một lựa chọn đúng. Câu chuyện của anh không có một kết thúc có hậu hoàn toàn, nhưng đối với chính anh, cuộc đời anh đã vẹn tròn.

“Vậy thì bố ơi, con sắp để lại được dấu ấn rồi. Dù chỉ là một trận thua…”

“Thỏ Ngọc cung trăng”: khi Sự sợ hãi thất bại làm chùn bước Lý tưởng

Đôi khi, trái tim ta biết mình muốn gì sớm hơn cả khối óc.

Gửi tiệm Namiya,

Tôi là Kitazawa Shizuko, hiện là một trong số những vận động viên được cân nhắc đưa vào đội tuyển đấu kiếm quốc gia, tham dự Thế Vận Hội sắp tới. Đây là thời điểm hết sức quan trọng trong sự nghiệp, đòi hỏi sự tập trung tuyệt đối. Nhưng tôi vừa nhận tin dữ: người yêu tôi – huấn luận viên của tôi, người luôn ở bên ủng hộ tôi – vừa nhập viện vì căn bệnh ung thư vô phương cứu chữa.

Khi luyện tập, tôi không thể ngừng lo lắng cho anh ấy, tôi bắt đầu nghĩ đến việc từ bỏ Thế Vận Hội, nhưng người yêu tôi van nài tôi tiếp tục chiến đấu vì ước mơ và lý tưởng, hãy mang về tấm huy chương để làm rạng danh đất nước, khiến anh ấy tự hào. Tôi rối rắm quá, tôi muốn ở bên chăm sóc anh trong những giây phút cuối, nhưng tôi cũng không muốn làm anh buồn và thất vọng. Xin tiệm cho tôi biết, tôi phải làm thế nào đây?

Kí tên: “Thỏ Ngọc cung trăng” Kitazawa Shizuko.

Ôi trời, lại một bộ phim giờ vàng khác.

Thời điểm Shizuko gửi thư là năm 1979, một năm trước Thế Vận Hội Moscow 1980 – năm mà Nhật Bản từ chối tham gia vì mâu thuẫn chính trị với Liên Xô. Lúc viết thư Shizuko vẫn chưa biết chuyện này, tuy nhiên ba cậu nhỏ Atsuya, Shota và Kouhei hiện sống ở năm 2012 nên biết rất rõ. Lời tư vấn của ba cậu hiển nhiên là: đừng có lo đấu kiếm đấu kiếc gì nữa, mau về chăm sóc người yêu đi, luyện tập đến tê chân mòn tay cũng chẳng được tham dự Olympic đâu!

Shizuko không chấp nhận câu trả lời này. Hiểu đơn giản là vì cô chưa biết việc Nhật Bản sẽ tẩy chay Thế Vận Hội. Hiểu sâu xa, cô đang nói dối. Đây không phải là lựa chọn giữa thời gian dành cho người yêu và vinh quang từ tấm huy chương vàng. Đây là sự lựa chọn giữa lý tưởng của chính cô và nỗi sợ thất bại.

“Thú thật lúc mới nhờ tiệm tư vấn, tôi đã nghiêng về phương án từ bỏ Thế Vận Hội. Tất nhiên là vì tôi muốn ở bên cạnh người yêu, chăm sóc anh ấy đến phút cuối, nhưng không chỉ có vậy.

Bản thân tôi hồi đó đã cảm nhận được những bế tắc trong luyện tập.

Khi mãi không đạt được thành tích tốt, tôi mới thấm thía sự hạn chế trong năng lực của mình. Mệt mỏi vì phải ganh đua với đối thủ, không chịu nổi áp lực buộc phải có suất tham dự Thế Vận Hội, tôi đã muốn chạy trốn.”

Shizuko – cũng như rất nhiều người trong số chúng ta – không thích và không muốn thừa nhận rằng, sự sợ hãi thất bại là lý do chúng ta từ bỏ mục tiêu, từ bỏ lý tưởng.

Ồ, hôm nay em không đi tập pilates giảm cân nữa à? – Vâng, dạo này em bận rộn quá, công việc chất đống làm em chẳng có thời gian.

Ồ, chẳng phải hôm trước mày bảo là sẽ viết một cái blog review sách thật là cool ngầu sao? – À, bão Damrey vào đất liền, mưa gió làm ướt hết tủ sách của tao rồi.

Cái chúng ta thực sự sợ hãi là thất bại, là phải đối mặt với những thiếu sót và yếu kém của mình. Vậy nên chúng ta vin vào những cái cớ dễ tin nhất. Vì chúng ta không có thời gian. Vì bão Damrey vào. Và với Shizuko, cái cớ để cô từ bỏ luyện tập cho Thế Vận Hội là vì người yêu cô mắc bệnh hiểm nghèo.

Người cô yêu đã nhìn thấu hết thảy. Anh nhận ra sự yếu đuối và sự chống chế của cô. Cô dùng căn bệnh của anh để chạy trốn. Anh dùng căn bệnh của anh để buộc cô phải đối mặt với nỗi sợ thất bại.

“Dù xa nhau nhưng trái tim chúng ta luôn ở cạnh nhau. Em không phải lo lắng gì hết. Anh muốn em theo đuổi ước mơ để sau này không hối hận.”

Tôi nghĩ rằng, mỗi người chúng ta đều có một người đặc biệt, một người có thể nhìn thấu được cái cớ chúng ta đưa ra để lừa dối chính mình. Ta chỉ cần tin rằng, yêu thương của họ đủ mạnh để buộc ta phải thừa nhận và đối mặt với nỗi sợ hãi. Chỉ như thế, chúng ta mới chạm đến lý tưởng.

“Paul McCartney”: Cơn giận nhất thời và Yêu thương vĩnh viễn

Động lực của bạn có thể là niềm vui, là nỗi buồn, nhưng tuyệt đối không thể là tức giận.

Gửi tiệm Namiya,

Cháu là Wagu Kousuke, một “thiếu gia” độc nhất trong một gia đình giàu có. Cháu hiện đang học cấp hai, ba cháu là thương nhân, mẹ cháu làm nội trợ. Từ nhỏ đến lớn, cháu hầu như không thiếu thốn thứ gì, ba mẹ rất cưng chiều và tạo điều kiện cho cháu được học tập và phát triển trong môi trường tốt nhất. Thế nhưng, cách đây vài hôm, cháu đã phát hiện một chuyện động trời: ba cháu làm ăn thua lỗ, đám dân anh chị đang tịch thu tài sản gia đình cháu để bù nợ nhưng có vẻ sẽ không đủ. Ba cháu quyết định sẽ dẫn cả nhà cháu đi trốn.

Cháu không muốn bỏ trốn. Cháu muốn gia đình mình trụ lại quê hương, đương đầu với sóng gió và gây dựng lại từ đầu, nhưng đối với ba mẹ cháu, có lẽ đây là một ước muốn ngây thơ và ngu ngốc. Ba cháu hình như chẳng có kế hoạch gì chắc chắn cho tương lai cả, ông ấy trông mệt mỏi, cáu gắt, thi thoảng sẽ mắng mỏ cháu vì chuyện tiền bạc. Cháu bắt đầu mất lòng tin vào ông. Giờ cháu phải làm gì đây, nên thuận theo kế hoạch của ba hay thuyết phục ba mẹ cháu ở lại?

Kí tên: “Paul McCartney” Wagu Kousuke.

Lại một kịch bản phim giờ vàng, nhưng chuyển bối cảnh sang xã hội đen Đài Loan rồi.

Người tư vấn cho cậu bé Kousuke khốn khổ là cụ Namiya Yuji – chủ nhân đời đầu tiên của tiệm tạp hóa Namiya. Cụ đã đưa ra lời khuyên “chừng nào gia đình còn ở trên cùng một con thuyền thì vẫn còn khả năng cả gia đình trở về con đường đúng”.

Kousuke, trong một phút tức giận, đã làm trái ngược lời khuyên của cụ. Cậu bé đã bỏ trốn một mình, sau đó bị đưa vào trại trẻ mồ côi và thất lạc tin tức với gia đình trong hơn 40 năm trời.

Đối với tôi, câu chuyện của Kousuke là câu chuyện buồn và để lại nhiều dấu chấm hỏi nhất. Thậm chí, chính Kousuke phải dựng nên một kết thúc có hậu để hoàn thiện câu chuyện dang dở của mình. Trong tưởng tượng, cậu vẫn luôn ở cạnh gia đình, cả nhà sẽ đoàn tụ và cùng nhau vượt qua cơn bão.

Quyết định của Kousuke được đưa ra trong một phút tức giận nhất thời, nhưng nó làm cậu đánh mất đi yêu thương vĩnh viễn.

Đã bao nhiêu lần bạn trong lúc nóng máu đã nói một lời làm tổn thương ba mẹ bạn, rồi sau một phút hả hê là nhiều năm hối hận? Đã bao giờ một tình bạn đẹp đẽ bị kết thúc bằng một dấu chấm đen đặc vì một cuộc cãi vã vô nghĩa? Cơn giận là một thứ xung lực đáng sợ, dù nó được tích tụ trong thời gian dài hay chỉ bùng nổ trong tích tắc, sức tàn phá của nó vô cùng khủng khiếp. Thứ nó tàn phá là một điều xinh đẹp mà đáng nhẽ chúng ta phải hết sức giữ gìn: yêu thương. Một mối quan hệ chấm dứt bằng cơn giận sẽ mất rất lâu để hàn gắn. Thậm chí sau đó, nó vẫn có những vết nứt được viết bởi u buồn, hối hận và nghi ngờ.

Vậy nên, quyết định có thể xuất phát từ nhiều cảm xúc: vui vẻ, buồn bã, thất vọng, nhưng tuyệt đối không thể xuất phát từ cơn giận.

Cụ Namiya Yuji đã sống trên đời 72 năm nên cụ hiểu rõ chân lý này. Kousuke 14 tuổi không thể biết được. Chỉ bốn mươi năm sau, Kousuke 50 tuổi mới thấm thía.

“Cậu bé 100 điểm”: khoảng cách giữa Ngớ ngẩn và Đốm sáng thiên tài

Dù bạn là ai, bạn muốn gì, bạn là người duy nhất chịu trách nhiệm cho cuộc đời bạn.

“Đây là câu nhờ tư vấn của cháu: Cháu muốn 100 điểm bài kiểm tra mà không phải học hay làm trò gian lận như quay cóp. Cháu phải làm thế nào?”

Ơn trời, cuối cùng mới có một câu hỏi không xuất phát từ phim giờ vàng.

Đây là câu trả lời của cụ Namiya Yuji:

“Cháu hãy xin cô giáo cho làm bài kiểm tra về cháu. Bài kiểm tra về cháu nên lời giải của cháu sẽ đúng hết. Chắc chắn cháu sẽ được 100 điểm.”

Thật là một câu hỏi ngớ ngẩn và tầm thường, xứng đáng nhận được một câu trả lời ngớ ngẩn và tầm thường không kém.

Ba mươi năm sau, “Cậu bé 100 điểm” năm nào nay viết một lá thư gửi cho cụ Yuji, với giọng điệu hớn hở và đáng yêu tựa ngày xưa:

“Vâng, tôi đã trở thành giáo viên.

Đứng trên bục giảng chưa được bao lâu, tôi gặp một trở ngại lớn. Các em trong lớp không chịu mở lòng với tôi, không chịu nghe tôi nói. Ngay cả tình bạn giữa các em với nhau cũng không thể gọi là tốt, tôi có làm gì thì tình hình cũng không cải thiện. Tâm tư mỗi đứa một khác, ngoại trừ một số ít bạn bè thân ra thì chúng chẳng quan tâm đến ai.

Tôi đã thử rất nhiều cách. Nào là tạo cơ hội để các em cùng nhau chơi thể thao, chơi trò chơi, các buổi thảo luận. Nhưng tất cả đều thất bại. Chẳng đứa nào tỏ ra hào hứng.

Thế rồi có một đứa nói: Em không muốn làm mấy việc này, em muốn thầy giúp em đạt 100 điểm trong bài kiểm tra.

Nghe vậy, tôi giật nảy mình và nhớ ra một điều quan trọng.

Đến đây chắc tiệm đã hiểu, tôi đã cho bọn trẻ làm một bài kiểm tra viết với tiêu đề là ‘Bài kiểm tra bạn bè’. Tôi chọn ngẫu nhiên một em trong lớp và đặt các câu hỏi khác nhau về em đó. Từ ngày tháng năm sinh, địa chỉ, có anh chị em hay không, nghề nghiệp của bố mẹ cho tới sở thích, sở trường, diễn viên yêu thích. Hết giờ làm bài, tôi sẽ để chính em đó nêu đáp án. Các em học sinh sẽ tự chấm bài của mình.

Ban đầu các em còn khá bỡ ngỡ nhưng sau vài ba lần, các em bắt đầu hào hứng hơn. Bí quyết duy nhất để đạt được điểm cao trong bài kiểm tra là phải biết rõ bạn cùng lớp. Các em bắt đầu giao tiếp với nhau nhiều hơn, đến nỗi tôi còn tưởng mình đang nhìn nhầm.”

Ai mà ngờ được, cái lời đáp vớ vẩn ngày ấy lại là lời giải cho một vấn đề nhức nhối trong tình hình giáo dục tiểu học Nhật Bản chứ.

Sự thật mà chúng ta có thể thấy rõ rành rành là, lời giải thích của cụ Namiya Yuji không phải là thứ khiến cho lớp học đoàn kết hơn, mà chính là sự thông minh và sáng tạo của “Cậu bé 100 điểm”.

Khoảng cách giữa một điều ngớ ngấn và giải pháp thiên tài là chính bạn. Là sự tháo vát, năng nổ, là sự kiên trì và can đảm của bạn. Tương tự, khoảng cách giữa lời khuyên tệ hại đến hậu quả nghiêm trọng cũng là bạn. Là sự cân nhắc, chính kiến và quyết định của bạn. Người khác có thể khuyên bạn bỏ vợ, nhưng bạn là đặt bút ký giấy ly hôn. Người khác có thể khuyên bạn thử đổi gió đi phượt, nhưng bạn là người muốn tìm đến những thử thách mới lạ ở châu Phi. Vậy nên nếu bạn bị thổ phỉ đánh cướp giữa đường thì bạn hoàn toàn không có quyền trách móc người đã khuyên bạn.

Đổ lỗi là một trò chơi rất nguy hiểm, nó giao quyền cầm trịch cuộc đời bạn sang tay một người khác. Như cụ Namiya Yuji đã nói, “câu trả lời của bố có tác dụng là bởi ý chí của bản thân người đó chứ không phải vì thứ gì khác. Nếu bản thân họ không muốn sống tốt, sống hết mình thì dù có nhận được câu trả lời nào cũng thế thôi”.

Nhưng tôi chẳng có gì cần gỡ rối cả. Đời tôi là một nhúm vô định, gió đẩy đi đâu thì đi thôi

Lời khuyên mà cụ Namiya Yuji dành tặng cho những người cảm thấy không mục tiêu, không phương hướng, đang sống cuộc đời của một miếng bèo trôi sông:

“Nếu ví những người nhờ tôi tư vấn là kẻ lạc đường thì phần đông trong số họ ở tình trạng có bản đồ nhưng không chịu xem hoặc không biết vị trí hiện tại của mình.

Nhưng có lẽ bạn không thuộc loại nào trong hai loại này. Bản đồ của bạn vẫn còn là tờ giấy trắng. Bạn đang ở trong tình trạng dù rất muốn quyết định đích đến nhưng không biết đường đi nằm ở đâu.

Bản đồ là giấy trắng thì dĩ nhiên lúng túng rồi. Ai cũng sẽ thấy mất phương hướng.

Nhưng bạn hãy thử thay đổi cách nhìn. Vì còn là giấy trắng nên bạn có thể vẽ bất kỳ bản đồ nào. Tất cả là tùy bạn. Mọi thứ đều tự do, khả năng là vô tận. Điều này thật tuyệt. Tôi mong bạn hãy tin vào bản thân và cháy hết mình với cuộc đời.”

Tôi mong bạn hãy tin vào bản thân và cháy hết mình với cuộc đời.

Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya chứa những câu hỏi về sự lựa chọn trái khoáy và phức tạp, nhưng có lẽ vì thân phận đặc biệt của những chuyên gia tư vấn mà câu chuyện có những nét mộc mạc và dịu dàng rất đáng yêu. Dẫu là cụ Namiya già cả, hiền lành và tận tâm, hay bộ ba Atsuya, Kouhei hay Shota láu táu, thẳng như ruột ngựa, những lời khuyên họ đưa ra vẫn rất đỗi chân thành. Và tôi tin rằng, trong cuộc sống này, chân thành chính là thứ gia vị giao tiếp khó tìm nhất.

“Tiệm Namiya à, cảm ơn tiệm đã lắng nghe điều phiền muộn của tôi. Chỉ cần trút được nỗi lòng qua thư thế này tôi cũng thấy nhẹ nhõm đi nhiều.”

Còn bạn, nếu bạn có một cơ hội để gửi thư đến tiệm Namiya, bạn sẽ nói điều gì?

Mèo Heo

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng