Phía sau trang sách

Yêu những điều không hoàn hảo: Khi trí tuệ của lòng từ bi vận dụng vào đời thường

Bạn biết không, yêu thương là một môn học khó, cho dù mọi đứa bé sinh ra đều được bắt nguồn từ tình yêu thương và trưởng thành trong tình thương của rất nhiều người.

Published

on

yeu nhung dieu khong hoan hao haemin

Sống trên thế gian này, đừng mong chờ sẽ tìm được một nửa nào đó lấp đầy những phần còn thiếu trong bạn. Tình yêu lành mạnh chỉ hình thành khi bản thân ta đã vững vàng tròn trịa như trăng rằm và gặp được một vầng trăng rằm khác cũng tròn đầy như ta… cùng sáng trong và tròn trịa, cùng tôn trọng cá tính, sở thích của nhau và cùng chiếu sáng cho nhau trên một bầu trời.

Theo một cách nào đó, chúng ta vô thức rào tình thương của mình bằng những điều kiện, mà muốn gỡ bỏ chúng, những người xung quanh, và cả bản thân ta, phải vượt qua quá nhiều thử thách, đôi khi nhận về sự tổn thương.

Nhận diện và gỡ bỏ những điều kiện đó, là những gì mà cuốn sách này làm được, ít nhất là đối với những ai đang muốn mở lòng yêu thương vô điều kiện, hay lòng bác ái, bao dung. Không thì ít ra, những dòng tản mạn cỏn con cùng những câu chuyện đời thường cũng giúp bạn xoa dịu nỗi cô đơn vì nghĩ rằng ta không là người duy nhất mắc kẹt trong tình huống này.

Tác phẩm dạy yêu thương theo lối viết tản mạn

Lời tựa của cuốn sách có viết, “Làm sao để chấp nhận chính mình trong một thế giới tuyệt vọng phấn đấu cho sự hoàn hảo”, cũng đã chỉ ra một trong những rào cản đầu tiên bắt nguồn từ guồng quay của xã hội, hay có thể hiểu là tha lực, khiến cho đại chúng phải cuống cuồng chạy đi tạo ra giá trị để được xã hội công nhận. Đại đức Hae Min là người Hàn Quốc, và dễ hiểu vì sao ông lại chọn chủ đề “Chấp nhận bản thân” cho cuốn sách này.

Nhưng sâu xa hơn, người đọc có thể thấy được, không chỉ dạy cách chấp nhận chính mình, mà các câu chuyện, lời khuyên của Đại đức còn tháo gỡ nhiều nội kết khác trong lòng ta qua lăng kính của lòng từ ái: như xử lý các cảm xúc phật lòng, nỗi u sầu uất ức, sợ hãi, sự tha thứ… bằng thói quen quan sát, lắng nghe, và chiêm nghiệm.

Thay vì giảng dạy các pháp môn của Phật giáo, Đại đức Hae Min đã chọn “thuyết pháp” bằng cách kể chuyện thế tục với ngôn ngữ đời thường.

Cuốn sách dày gần 300 trang, 8 chương, cấp độ nhận thức từ thấp đến cao, bắt đầu từ những chủ đề dễ hiểu dễ thấm đến cuối cùng cần sự tập trung đào sâu vào bên trong. Bố cục mỗi chương bao gồm các câu chuyện diễn ra trong đời sống hằng ngày của chính Đại đức, sau đó đến các lời khuyên, nhận định ngắn gọn, tản mạn do Đại đức chiêm nghiệm mà ra. Mặc dù nội dung được phân bổ khá dễ chịu đối với đọc giả, nhưng nếu đọc hết cuốn sách trong một, hai ngày, bạn sẽ khó đúc kết và thực hành được gì cho bản thân. Vì mỗi chủ đề gắn liền với từng giai đoạn khác nhau của đời người, dù vẫn xoay quanh các tổn thương bên trong do thói quen phớt lờ, đè nén cảm xúc của chúng ta. Thay vào đó nếu chậm lại một chút, bạn hoàn toàn có thể nâng cấp từ mức độ định vị bản thân, chấp nhận bản ngã, và cuối cùng có thể yêu những điều không hoàn hảo của bản thân và những người xung quanh bạn.

Trị liệu tâm hồn và uốn nắn nghệ thuật sống

Đời sống xã hội gắn liền với tập tục, văn hóa ràng buộc đại chúng vào nghĩa vụ phát triển cộng đồng bằng cách không ngừng chuẩn bị và chạy theo những xu hướng của nền kinh tế, nền chính trị quốc gia. Dần dần, người ta đánh mất khả năng tận hưởng cuộc sống trong một, hai phút rảnh rỗi và việc tìm lại bình yên trong tâm hồn chỉ dành cho những ai gặp vấn đề về sức khỏe tinh thần. Người ta cũng thường tin rằng chỉ cần tạo ra giá trị vật chất và sự quảng giao là hoàn thành bài học yêu thương chính mình. Nhưng có một đoạn thế này:

Những cảm xúc mà ta đang cảm nhận không phải là những thứ vụn vặt có thể làm lơ, ngược lại chúng vô cùng quan trọng và luôn cần được quan tâm tới. Hơn nữa, những cảm xúc đó sẽ không biến mất dễ dàng cho dù ta có đè nén hay lờ chúng đi. Rất nhiều vấn đề tâm lý nảy sinh bắt nguồn từ thói quen tự đè nén cảm xúc khiến năng lượng của những cảm xúc bị đè nén không được giải phóng khỏi tâm trí một cách lành mạnh.”

Đoạn này là lời khuyên dành cho những người hiền lành thường có xu hướng làm theo ý những người xung quanh hãy từ bỏ thói quen nhẫn nhịn ấy đi, và hãy bắt đầu học cách lắng nghe bản thân. Nhưng diễn giải sâu hơn một chút, nếu bạn cũng có những cảm xúc uất ức (hoặc không hài lòng) tương tự, và chúng cứ vi tế lặp đi lặp lại dù sự việc đã được giải quyết từ lâu, thì hãy chấp nhận rằng bạn vẫn còn khúc mắc trong sự việc đó và dành thời gian chiêm nghiệm lại, tìm hiểu xem nội kết trong bạn bắt nguồn từ đâu. Nếu không, bạn vẫn sẽ rơi vào trạng thái cũ khi những tình huống tương tự lại tiếp diễn trong tương lai.

Trong rất nhiều chương sách, vừa trực tiếp vừa gián tiếp bằng cách thuật lại cách cư xử của mình, Đại đức Hae Min luôn nhắc nhở người đọc đừng phớt lờ những cảm xúc “vụn vặt” cá nhân. Vì từ chính lúc đó, tâm hồn bạn trở nên thứ cần được trị liệu rồi. 

Bên dưới cơn phẫn nộ của mình tôi cảm nhận được nỗi buồn và sự đau khổ, và khi tiếp tục nhìn ngắm kỹ với ánh mắt từ bi độ lượng tôi đã nhận ra bắt sâu dưới gốc rễ của cơn phẫn nộ ấy chính là nỗi cô đơn và sợ hãi những cuộc đoạn tuyệt.

Sẽ thật gượng ép nếu nhận định cuốn sách là một giáo trình dạy về nghệ thuật sống, vì những gì Đại đức chia sẻ chỉ là kinh nghiệm sống của ngài. Nhưng lối sống của một nhà sư lại có nhiều điểm đáng học hỏi. Nếu nghĩ xuất gia là sống cuộc đời an nhàn vô vi thì chưa hẳn đúng. Công việc của một nhà sư, theo như cuốn sách thể hiện, đó là thông qua các trao đổi trong cuộc sống thường nhật, tìm cách đối trị những xúc tình tiêu cực và chọn lọc hạt giống nào có thể nuôi dưỡng hạnh phúc thật vững vàng. Có nghĩa là, người xuất gia cũng làm việc, cũng tương tác và duy trì các mối quan hệ, cũng tạo ra những giá trị, nhưng chúng không thể đong đếm ở cấp độ vật chất.

Có những tình huống khó xử rất đỗi đời thường mà đại chúng sợ phải đối mặt, được đề cập và phân tích sâu trong tác phẩm có lẽ sẽ giúp tháo gỡ nội kết, khúc mắc cho rất nhiều người. 

Tuy nhiên khác với những cảm xúc khác, “phật lòng” là cảm xúc khá kỳ lạ, nếu bộc lộ ra ngoài ta sẽ dễ cảm thấy bản thân mình nhỏ nhen, nhưng nếu cứ im lặng không nói thì cảm xúc này sẽ liên tục bị dồn nén khiến ta mệt mỏi, không biết cư xử sao cho phải. Ấm ức thì còn có thể nói rằng mình ấm ức, buồn cũng còn có thể vì buồn mà khóc, còn “phật lòng” lại chỉ có thể giữ trong lòng, rất khó để giải quyết thứ cảm xúc này cho thỏa đáng.

Ít ai chấp nhận chịu thiệt thòi hoặc không đưa ra những điều kiện ngầm trước khi trao đi sự quan tâm, nhưng không phải người tiếp nhận nào cũng nhìn ra điều đó. Suy cho cùng, con người cũng chỉ là những cá thể dễ tổn thương và rất thích “nhảy cóc” trong việc học về thương yêu. Đối với Đại đức, có lẽ cách tốt nhất để tránh rơi vào vòng tròn luẩn quẩn này, chính là học cách bày tỏ tình thương sao cho chân thật và phải cố gắng thấu hiểu được đối phương đã trải qua những gì dẫn đến hành xử như vậy. Trong Phật giáo, người ta thường gọi là mở lòng từ bi bằng con mắt trí tuệ, sẽ giúp có được tình thương vững vàng.

Cho dù diễn biến ra sao, cuối cùng vẫn hãy chọn yêu thương 

Ảnh tranh sơn dầu được chèn ngẫu nhiên ở mỗi chương ngoài giá trị thẩm mỹ, tạo những khoảng không cần thiết để độc giả “thở” giữa các trang sách nhiều tầng lớp ý nghĩa, còn là một công cụ để tác phẩm truyền tải các thông điệp ẩn dụ mà đọc đi đọc lại, chung quy vẫn là: bạn sẽ không thể kiểm soát mọi việc đúng theo ý mình, đôi khi chúng sẽ diễn biến theo hướng tồi tệ nhất bạn từng dự đoán; dù vậy bạn vẫn còn có thể dụng được năng khiếu thiên bẩm của mình để giải phóng khỏi tình huống đó: tình yêu thương.

Mỗi chương sách sẽ khuyên bạn chọn đối tượng thương yêu một cách thông minh. Ví như những lúc bị đả kích, hãy ôm ấp vết thương của mình, hãy học cách thừa nhận, hít thở sâu thật nhiều, tách mình ra khỏi tổn thương đó để quan sát, ôm ấp, vỗ về nó và dùng nó làm nền tảng cho mọi sự thấu hiểu đối phương sau này.

Mong sao cho nỗi đau của ta lúc này
Sẽ là cơ hội đánh thức lòng từ bi trong ta
Khi hướng đến người khác.
Mong sao thông qua nỗi đau
Ta có thể nuôi lớn lòng bao dung
Để có thể ôm lấy nỗi đau của người khác.
Mong sao nỗi đau của người khác sẽ nhanh chóng được chữa lành
Như ta cầu nguyện cho nỗi đau của chính mình.

Suy cho cùng, điều bất như ý là tác động bên ngoài, nhưng ngẫm kỹ một chút, việc định danh nó là “bất như ý” xuất phát từ nội tâm của bạn.

Hành pháp vẫn là quan trọng nhất

Có một thực trạng trớ trêu là, chúng ta biết rằng con người không thể chạy nếu chưa học giữ thăng bằng, nhưng lại tin rằng mình có thể trao đi yêu thương trước khi học cách bảo toàn nó khỏi những bấp bênh trong cuộc sống. Vì vậy, từ những lần bị thương đầu tiên, chúng ta đã vô tình dựng lên nhiều cơ chế phòng thủ và phản kháng tinh vi, khiến thứ cảm xúc thuần khiết nhất cũng không thể len lỏi vào ra. Những lúc này, hãy chấp nhận rằng “những thất bại như hôm nay sẽ còn tìm đến hàng chục lần nữa trong cuộc đời bạn”, nên hãy kiên nhẫn dùng “từ” (từ bi, từ ái, bác ái, bao dung, vị tha) để tự chữa lành cho chính mình. Và quan trọng nhất, là hãy đề cao tinh thần thực hành và dấn thân.

Luôn có một khoảng cách giữa “biết” và biến điều bạn “biết” ấy thành hành động.
Bởi vậy bạn không thể ngay lập tức được chữa lành và trở nên hạnh phúc
Chỉ nhờ vào đọc sách
Hay được ai chỉ bảo.
Khi bạn từng bước hành động hóa những điều bạn biết và ứng dụng vào cuộc sống của mình
Những thay đổi rõ rệt sẽ xuất hiện. Việc này cần rất nhiều quyết tâm và nỗ lực.
Đây chính là đạo lý được thể hiện qua hình ảnh người am hiểu Phật pháp – Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát – người hộ vệ của những ai tuyên giảng đạo pháp.”

Anh Đào

Bài viết chung chủ đề

——————






Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng